Truyện số 1: https://xamvn.chat/r/chuyen-lang-so-1.592461
Truyện số 2: https://xamvn.chat/r/chuyen-lang-so-2.592758
Truyện số 3: https://xamvn.chat/r/chuyen-lang-so-3.593455
Truyện số 4:
LÀNG CHIỀNG
Làng Chiềng có tên hành chính không phải như vậy, nhưng ngày thường dân làng chẳng mấy ai gọi tên đó cả, họ chỉ dùng nó khi có việc liên quan tới giấy tờ văn bản mà thôi.
Không ai biết chính xác cái tên "làng Chiềng" có từ bao giờ, chỉ nghe người già trong làng kể lại, chắc là có liên quan tới địa danh "chợ Chiềng". Theo lời kể, từ trước Cách mạng Tháng Tám, phía đầu làng là nơi hội tụ của mấy nhánh sông lớn. Giao thông đường thủy thuận lợi, thuyền bè qua lại giao thương tạo thành một nơi tấp nập, trên bến dưới thuyền. Ấy chính là chợ Chiềng.
Vẫn theo lời kể, chợ Chiềng to lắm. Người buôn từ mãi tận Thái Bình, Hải Dương cũng xuôi thuyền vào.
Nạn đói năm 1945, chợ Chiềng la liệt dân chết đói Thái Bình. Có kẻ xông bừa vào sạp hàng cướp lấy nắm gạo hay nắm cám, va ngay vào miệng. Sáng nào ra cũng thấy xác người chết đói, có khi nằm ngay vệ đường, có khi trong xó xỉnh nào. Người ta phải đào những hố chôn tập thể, ném những xác ấy xuống, cũng không cần tìm hiểu danh tính. Mãi về sau này, khi đào mương thủy lợi ở khu vực ấy, thỉnh thoảng người ta vẫn đào phải những hố xương này.
Chợ Chiềng tan khi quân Nhật kéo về. Cả làng phải đi sơ tán.
Rồi quân Nhật bị đuổi đi, người làng trở về, hò nhau họp lại chợ. Nhưng việc thông thương không còn được như xưa nữa. Bấy giờ, người già trong làng nghĩ ra một cách để cứu vãn. Họ lập đàn cầu tại chỗ chợ cũ, kêu thần hô quỷ, mang linh hồn chợ về đình làng tạo thành cái chợ cóc nhỏ xíu, lấy tên là chợ Đình.
Chợ Chiềng mất hẳn từ đấy, cái tên chỉ còn lại dấu ấn trong tên làng.
Đình làng Chiềng ở giữa làng, ngay trục đường chính, cũng mái ngói tường rêu, cột trụ gỗ lim cao vút mấy người ôm. Mùa hè dân làng vào đấy hóng mát, còn khoan khoái hơn cả nằm máy lạnh. Bên trong đình không có gì đáng giá, chính điện chỉ có một ban thờ nhỏ, bên hông lại có bàn thờ ông cụ râu dài trên tờ tiền. Chắc đấy là di tích từ thời chiến tranh, người ta mượn nơi công quả làm chuyện Cách mạng. Đình làng Chiềng xưa kia không có thờ Thành Hoàng, về sau, người ta lấy đại một vị tướng thời Trần nào đó để thờ. Nghe nói, vị tướng đó có tiếng xấu thông dâm với Thái Hậu. Kể ra cũng thật khôi hài.
Không có sách nào ghi chép về chuyện làng Chiềng có từ bao giờ. Nhưng cứ lấy gia phả một họ lớn đã ở đây từ ngày lập làng ra để tính, họ ấy đã có hai mươi bốn đời; mỗi đời trung bình hai mươi năm, như thế thì tuổi làng Chiềng cũng phải ngót nghét 500 năm.
500 trăm năm cũng kể là dài, nhưng thành tích khoa bảng của người làng Chiềng hết sức khiêm tốn. Truyền thuyết kể rằng, nó liên quan đến lời nguyền địa thế làng nằm dưới háng con hình nhân.
Từ xa xưa, làng Chiềng có một người đỗ Nghè, tương đương tiến sĩ thời bây giờ. Khi ông Nghè cờ lọng về làng vinh quy bái tổ, dân làng hết sức lạnh nhạt, không mấy người ra đón tiếp.
Nguyên tập quán dân làng này có lối sống quần cư, việc sinh hoạt cộng đồng rất nặng tính họ hàng. Trong làng chỉ có ba họ lớn đã tồn tại từ ngày đầu thành lập, các họ khác đến sau bị kì thị, coi là "quân ngụ cư". Mãi về sau này, để không bị những họ lớn chèn ép, các họ nhỏ phải liên kết với nhau, tổng cộng có năm họ, gọi là "hàng giáp", cỗ bàn ma chay cưới hỏi đều túc mục như ruột thịt.
Ông Nghè thuộc cánh họ Đặng, là một họ nhỏ ngụ cư. Ngày ấy còn chưa có hàng giáp, thành ra cả nhà ông chẳng có mấy người mà ra đón tiếp. Ông Nghè cả giận, không thèm vào làng mà dựng dinh cơ ở ngay tại nơi rìa làng.
Nghe người già trong làng kể, dinh thự ông Nghè còn to lớn hơn cả đình làng. Những cây đa to, giếng nước nơi ông Nghè ở đã trở thành biểu tượng của làng Chiềng một thời, ký ức tuổi thơ của bao thế hệ.
Ở một thời gian, ông Nghè sinh lòng chán ghét dân làng này. Ông cho đắp một con đường để bỏ đi, không thèm đặt chân trên đường làng sẵn có. Ngày nay con đường đó vẫn còn, có tên là đường Đại Thần. Người ta bảo, khi rời khỏi làng, ông Nghè quay đầu, chỉ tay nguyền: Làng này không trọng người học hành, về sau đường khoa bảng tất phải bị tuyệt nọc.
Người ta lại bảo, con đường ông Nghè đắp cũng chính là một loại trấn yểm. Lấy địa thế của làng Hoàng Thổ về phía đông làm đầu, con đường Đại Thần là một chân, đường cánh Nam tiếp giáp làng bên là chân còn lại, cả làng Chiềng nằm trọn dưới háng một hình nhân. Cứ như thế, dân làng muôn đời cốt cách bần tiện, không ngóc đầu lên được.
Cách đấy một con sông có làng Hồ, làng ấy lại nổi tiếng khoa bảng, đỗ đạt làm quan rất nhiều. Dân gian mới lưu truyền câu thơ:
Làng Hồ là đất làm quan
Làng Chiềng cưỡi chó che tàn lá khoai
Người ta đỗ đạt, cưỡi ngựa, che ô lọng. Mình bần tiện, đi với chó, che lá khoai. Kể cũng là lời mỉa mai quá đỗi sâu cay vậy.
Lại nói về đất ông Nghè. Thời Lê Duẩn có chủ trương phá đình chùa, dinh thự ông Nghè bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn lại khoảng đất trống và cái giếng Nghè quanh năm trong mát, cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng vào thời bao cấp. Mấy cây đa to cũng dần chết hết.
Người làng đồn, đất Nghè thiêng lắm. Nhà kia có mảnh ruộng gần đấy, cây dại loà xoà xuống ruộng, đứa con gái nhà ấy đem chặt đi, đêm về thì bụng đau dữ dội. Hôm sau, nhà ấy phải mang lễ ra Nghè tạ, đứa con gái mới hết đau.
Có một dạo, chỉ trong mấy năm mà làng Chiềng có hơn chục người tự treo cổ chết. Người ta lại xem phong thủy, bảo đất Nghè bị động. Dân làng góp tiền xây một gian nhỏ thờ cúng, trồng lại mấy cây đa, từ đấy mới lại êm xuôi.
Làng Chiềng cũng có một ngôi chùa. Phía bắc đất Nghè là nghĩa địa, lọt giữa nghĩa địa chính là chùa làng. Chùa làng Chiềng trước kia không có sư ở, chỉ có một ông từ trông coi dọn dẹp, được tự ý thu hoạch hoa màu. Độ hai chục năm trước, chính quyền cắt cử về chùa một nữ nhà sư.
Sư người gốc Thái Bình, tu nghiệp trong Nam, chỉ mới độ ba mươi tuổi, nhưng các cụ bà trong làng đều gọi là "thầy". Khi về tiếp quản chùa làng, sư mang theo thêm hai cháu gái, nói là để dạy bảo. Chùa làng cây cối um tùm, lại nằm giữa nghĩa địa nên sư sợ ma lắm. Sư ra sức chặt cây, xây tường, lấp cổng cũ mở cổng mới. Sư lại nuôi chó, kêu sủa huyên náo cả ngày, chẳng ra thể thống gì.
Có người không hài lòng với cách sư cải tạo chùa làng, có người lại ủng hộ. Dù muốn hay không, sư vẫn cứ làm theo ý mình. Chùa dần biến thành như nhà riêng của sư vậy, còn mấy cụ già thì như người ở đợ không công, cày cấy dọn dẹp phục vụ sư. Việc nhà chẳng ngó ngàng, việc chùa thì chăm bẵm lắm.
Mấy năm về trước, sư trình làng một đứa bé trai, bảo có vợ chồng nhà kia loanh quanh ở cửa chùa đã mấy hôm, hôm nay thì bỏ lại con nhờ chùa nuôi. Nhiều người thầm mỉa mai, con sư chứ nào phải đứa nào bỏ. Bởi mỗi năm, sư lại đi vắng cỡ bốn tháng, gọi là đi kiết hạ. Mấy tháng đó cũng đủ để đẻ vụng một đứa con rồi.
Lẽ dĩ nhiên, nuôi nấng đứa trẻ ấy đã có các già. Sư vẫn miệt mài sự nghiệp tu hành, chăm sóc đời sống tâm linh cho dân làng. Có kẻ xỗ xược, một lần thấy bà già đang đút cháo cho thằng bé, mới hô tướng lên:
- A, thằng con sư! Ăn xôi oản mà bụ bẫm gớm!
Bà già giận tím cả mặt, nhưng cũng nhịn không nói gì.
Có lẽ lời nguyền nằm dưới háng con hình nhân vẫn chưa hết. Người làng Chiềng đỗ đạt làm quan vẫn quá hiếm hoi. Bù lại, việc buôn bán chạy chợ, dân làng này lại rất tháo vát. Chợ đầu mối Long Biên, Hà Nội, có quá nửa là dân làng Chiềng.
Mấy năm gần đây, làng Chiềng giàu lên trông thấy, nhà lầu xe hơi trong làng nhiều không đếm được. Nhưng cái cốt cách bần tiện có lẽ khó mà thay đổi, ví như nhà kia có mẹ con đều là giáo viên, hôm nay cãi cọ gì đó, ông bố mới chửi thằng con:
- Địt mẹ mày thằng giáo viên mua!
Truyện số 2: https://xamvn.chat/r/chuyen-lang-so-2.592758
Truyện số 3: https://xamvn.chat/r/chuyen-lang-so-3.593455
Truyện số 4:
LÀNG CHIỀNG
Làng Chiềng có tên hành chính không phải như vậy, nhưng ngày thường dân làng chẳng mấy ai gọi tên đó cả, họ chỉ dùng nó khi có việc liên quan tới giấy tờ văn bản mà thôi.
Không ai biết chính xác cái tên "làng Chiềng" có từ bao giờ, chỉ nghe người già trong làng kể lại, chắc là có liên quan tới địa danh "chợ Chiềng". Theo lời kể, từ trước Cách mạng Tháng Tám, phía đầu làng là nơi hội tụ của mấy nhánh sông lớn. Giao thông đường thủy thuận lợi, thuyền bè qua lại giao thương tạo thành một nơi tấp nập, trên bến dưới thuyền. Ấy chính là chợ Chiềng.
Vẫn theo lời kể, chợ Chiềng to lắm. Người buôn từ mãi tận Thái Bình, Hải Dương cũng xuôi thuyền vào.
Nạn đói năm 1945, chợ Chiềng la liệt dân chết đói Thái Bình. Có kẻ xông bừa vào sạp hàng cướp lấy nắm gạo hay nắm cám, va ngay vào miệng. Sáng nào ra cũng thấy xác người chết đói, có khi nằm ngay vệ đường, có khi trong xó xỉnh nào. Người ta phải đào những hố chôn tập thể, ném những xác ấy xuống, cũng không cần tìm hiểu danh tính. Mãi về sau này, khi đào mương thủy lợi ở khu vực ấy, thỉnh thoảng người ta vẫn đào phải những hố xương này.
Chợ Chiềng tan khi quân Nhật kéo về. Cả làng phải đi sơ tán.
Rồi quân Nhật bị đuổi đi, người làng trở về, hò nhau họp lại chợ. Nhưng việc thông thương không còn được như xưa nữa. Bấy giờ, người già trong làng nghĩ ra một cách để cứu vãn. Họ lập đàn cầu tại chỗ chợ cũ, kêu thần hô quỷ, mang linh hồn chợ về đình làng tạo thành cái chợ cóc nhỏ xíu, lấy tên là chợ Đình.
Chợ Chiềng mất hẳn từ đấy, cái tên chỉ còn lại dấu ấn trong tên làng.
Đình làng Chiềng ở giữa làng, ngay trục đường chính, cũng mái ngói tường rêu, cột trụ gỗ lim cao vút mấy người ôm. Mùa hè dân làng vào đấy hóng mát, còn khoan khoái hơn cả nằm máy lạnh. Bên trong đình không có gì đáng giá, chính điện chỉ có một ban thờ nhỏ, bên hông lại có bàn thờ ông cụ râu dài trên tờ tiền. Chắc đấy là di tích từ thời chiến tranh, người ta mượn nơi công quả làm chuyện Cách mạng. Đình làng Chiềng xưa kia không có thờ Thành Hoàng, về sau, người ta lấy đại một vị tướng thời Trần nào đó để thờ. Nghe nói, vị tướng đó có tiếng xấu thông dâm với Thái Hậu. Kể ra cũng thật khôi hài.
Không có sách nào ghi chép về chuyện làng Chiềng có từ bao giờ. Nhưng cứ lấy gia phả một họ lớn đã ở đây từ ngày lập làng ra để tính, họ ấy đã có hai mươi bốn đời; mỗi đời trung bình hai mươi năm, như thế thì tuổi làng Chiềng cũng phải ngót nghét 500 năm.
500 trăm năm cũng kể là dài, nhưng thành tích khoa bảng của người làng Chiềng hết sức khiêm tốn. Truyền thuyết kể rằng, nó liên quan đến lời nguyền địa thế làng nằm dưới háng con hình nhân.
Từ xa xưa, làng Chiềng có một người đỗ Nghè, tương đương tiến sĩ thời bây giờ. Khi ông Nghè cờ lọng về làng vinh quy bái tổ, dân làng hết sức lạnh nhạt, không mấy người ra đón tiếp.
Nguyên tập quán dân làng này có lối sống quần cư, việc sinh hoạt cộng đồng rất nặng tính họ hàng. Trong làng chỉ có ba họ lớn đã tồn tại từ ngày đầu thành lập, các họ khác đến sau bị kì thị, coi là "quân ngụ cư". Mãi về sau này, để không bị những họ lớn chèn ép, các họ nhỏ phải liên kết với nhau, tổng cộng có năm họ, gọi là "hàng giáp", cỗ bàn ma chay cưới hỏi đều túc mục như ruột thịt.
Ông Nghè thuộc cánh họ Đặng, là một họ nhỏ ngụ cư. Ngày ấy còn chưa có hàng giáp, thành ra cả nhà ông chẳng có mấy người mà ra đón tiếp. Ông Nghè cả giận, không thèm vào làng mà dựng dinh cơ ở ngay tại nơi rìa làng.
Nghe người già trong làng kể, dinh thự ông Nghè còn to lớn hơn cả đình làng. Những cây đa to, giếng nước nơi ông Nghè ở đã trở thành biểu tượng của làng Chiềng một thời, ký ức tuổi thơ của bao thế hệ.
Ở một thời gian, ông Nghè sinh lòng chán ghét dân làng này. Ông cho đắp một con đường để bỏ đi, không thèm đặt chân trên đường làng sẵn có. Ngày nay con đường đó vẫn còn, có tên là đường Đại Thần. Người ta bảo, khi rời khỏi làng, ông Nghè quay đầu, chỉ tay nguyền: Làng này không trọng người học hành, về sau đường khoa bảng tất phải bị tuyệt nọc.
Người ta lại bảo, con đường ông Nghè đắp cũng chính là một loại trấn yểm. Lấy địa thế của làng Hoàng Thổ về phía đông làm đầu, con đường Đại Thần là một chân, đường cánh Nam tiếp giáp làng bên là chân còn lại, cả làng Chiềng nằm trọn dưới háng một hình nhân. Cứ như thế, dân làng muôn đời cốt cách bần tiện, không ngóc đầu lên được.
Cách đấy một con sông có làng Hồ, làng ấy lại nổi tiếng khoa bảng, đỗ đạt làm quan rất nhiều. Dân gian mới lưu truyền câu thơ:
Làng Hồ là đất làm quan
Làng Chiềng cưỡi chó che tàn lá khoai
Người ta đỗ đạt, cưỡi ngựa, che ô lọng. Mình bần tiện, đi với chó, che lá khoai. Kể cũng là lời mỉa mai quá đỗi sâu cay vậy.
Lại nói về đất ông Nghè. Thời Lê Duẩn có chủ trương phá đình chùa, dinh thự ông Nghè bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn lại khoảng đất trống và cái giếng Nghè quanh năm trong mát, cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng vào thời bao cấp. Mấy cây đa to cũng dần chết hết.
Người làng đồn, đất Nghè thiêng lắm. Nhà kia có mảnh ruộng gần đấy, cây dại loà xoà xuống ruộng, đứa con gái nhà ấy đem chặt đi, đêm về thì bụng đau dữ dội. Hôm sau, nhà ấy phải mang lễ ra Nghè tạ, đứa con gái mới hết đau.
Có một dạo, chỉ trong mấy năm mà làng Chiềng có hơn chục người tự treo cổ chết. Người ta lại xem phong thủy, bảo đất Nghè bị động. Dân làng góp tiền xây một gian nhỏ thờ cúng, trồng lại mấy cây đa, từ đấy mới lại êm xuôi.
Làng Chiềng cũng có một ngôi chùa. Phía bắc đất Nghè là nghĩa địa, lọt giữa nghĩa địa chính là chùa làng. Chùa làng Chiềng trước kia không có sư ở, chỉ có một ông từ trông coi dọn dẹp, được tự ý thu hoạch hoa màu. Độ hai chục năm trước, chính quyền cắt cử về chùa một nữ nhà sư.
Sư người gốc Thái Bình, tu nghiệp trong Nam, chỉ mới độ ba mươi tuổi, nhưng các cụ bà trong làng đều gọi là "thầy". Khi về tiếp quản chùa làng, sư mang theo thêm hai cháu gái, nói là để dạy bảo. Chùa làng cây cối um tùm, lại nằm giữa nghĩa địa nên sư sợ ma lắm. Sư ra sức chặt cây, xây tường, lấp cổng cũ mở cổng mới. Sư lại nuôi chó, kêu sủa huyên náo cả ngày, chẳng ra thể thống gì.
Có người không hài lòng với cách sư cải tạo chùa làng, có người lại ủng hộ. Dù muốn hay không, sư vẫn cứ làm theo ý mình. Chùa dần biến thành như nhà riêng của sư vậy, còn mấy cụ già thì như người ở đợ không công, cày cấy dọn dẹp phục vụ sư. Việc nhà chẳng ngó ngàng, việc chùa thì chăm bẵm lắm.
Mấy năm về trước, sư trình làng một đứa bé trai, bảo có vợ chồng nhà kia loanh quanh ở cửa chùa đã mấy hôm, hôm nay thì bỏ lại con nhờ chùa nuôi. Nhiều người thầm mỉa mai, con sư chứ nào phải đứa nào bỏ. Bởi mỗi năm, sư lại đi vắng cỡ bốn tháng, gọi là đi kiết hạ. Mấy tháng đó cũng đủ để đẻ vụng một đứa con rồi.
Lẽ dĩ nhiên, nuôi nấng đứa trẻ ấy đã có các già. Sư vẫn miệt mài sự nghiệp tu hành, chăm sóc đời sống tâm linh cho dân làng. Có kẻ xỗ xược, một lần thấy bà già đang đút cháo cho thằng bé, mới hô tướng lên:
- A, thằng con sư! Ăn xôi oản mà bụ bẫm gớm!
Bà già giận tím cả mặt, nhưng cũng nhịn không nói gì.
Có lẽ lời nguyền nằm dưới háng con hình nhân vẫn chưa hết. Người làng Chiềng đỗ đạt làm quan vẫn quá hiếm hoi. Bù lại, việc buôn bán chạy chợ, dân làng này lại rất tháo vát. Chợ đầu mối Long Biên, Hà Nội, có quá nửa là dân làng Chiềng.
Mấy năm gần đây, làng Chiềng giàu lên trông thấy, nhà lầu xe hơi trong làng nhiều không đếm được. Nhưng cái cốt cách bần tiện có lẽ khó mà thay đổi, ví như nhà kia có mẹ con đều là giáo viên, hôm nay cãi cọ gì đó, ông bố mới chửi thằng con:
- Địt mẹ mày thằng giáo viên mua!
Sửa lần cuối: