Live BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963

sami88

Thần điêu đại bịp
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam

Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.

Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.

Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.

Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.

Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.

Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.

Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.

Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!

Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.

Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.

Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.

Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.

Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.

Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:

- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!

Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.

Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.

Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
 
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam

Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.

Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.

Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.

Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.

Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.

Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.

Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.

Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!

Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.

Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.

Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.

Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.

Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.

Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:

- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!

Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.

Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.

Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
Lạy Chúa, xin rũ lòng thương xót
 
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam

Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.

Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.

Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.

Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.

Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.

Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.

Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.

Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!

Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.

Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.

Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.

Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.

Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.

Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:

- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!

Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.

Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.

Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
Vụ này tao tìm hiểu rồi
Đọc hài đéo chịu được
 
Tìm hiểu ra gì thì nhanh nhanh thành thật khai báo ra cho anh em biết. :vozvn (17): :vozvn (17):
Mấy thằng đảo chính lựa tam ngày thánh lễ làm đảo chính vì thân tín của Diệm Nhu toàn đạo gốc
Hôm đó tụi nó đi nhà thờ anh em Diệm Nhu cũng vô Nhà thờ cầu nguyện đéo cho ai quấy rối
Nên bọn kia mới mượn lý do có đảo chính gọi tất cả các tư lệnh tướng lĩnh lại họp một mẻ bắt gọn.
Cái tội đem tôn giáo vô chính trị.
Lính anh Diệm cũng ngu nhất là khôi và Tung
Hai thằng nắm hai lực lượng quan trọng nhất bảo vệ Diệm mà cả hai thằng đều cùng đi họp hết
Một thằng đi một thằng phải thủ dinh Gia Long chứ.
Đây cả hai cùng đi chứng tỏ Diệm Nhu đéo có phân công gì hay đề phòng gì
Nghe tin Tung bị bắt thì thằng em Triệu còn ngu hơn thay vì quay lại nắm lực lượng đặc biệt bảo vệ dinh Gia Long thì lại cùng thằng mấy thằng cận vệ và 1 lái xe chạy thẳng vô trụ sở đảo chính đòi thả người
Chắc thằng triệu tưởng mình là quan vũ đơn đao phó hội.
Để bị chụp cổ đơn giản ngu chưa từng thấy
Lực lượng đặc biệt bị thiếu tá trần văn hổ tiếp quản và cấm hành động
Tất cả thua xa thiếu tá Phạm Bá Hưởng người duy nhất tỉnh táo chỉ huy tiểu đoàn của mình bảo vệ anh em Diệm Nhu một ngày trước khi Diệm Nhu chấp nhận buông súng đầu hàng sau khi chạy ra nhà Mã Tuyên và nhà thờ cha tam
 
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam

Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.

Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.

Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.

Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.

Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.

Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.

Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.

Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!

Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.

Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.

Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.

Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.

Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.

Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:

- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!

Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.

Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.

Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
Lam là anh Hiển mực đấy.
 
Mấy thằng đảo chính lựa tam ngày thánh lễ làm đảo chính vì thân tín của Diệm Nhu toàn đạo gốc
Hôm đó tụi nó đi nhà thờ anh em Diệm Nhu cũng vô Nhà thờ cầu nguyện đéo cho ai quấy rối
Nên bọn kia mới mượn lý do có đảo chính gọi tất cả các tư lệnh tướng lĩnh lại họp một mẻ bắt gọn.
Cái tội đem tôn giáo vô chính trị.
Lính anh Diệm cũng ngu nhất là khôi và Tung
Hai thằng nắm hai lực lượng quan trọng nhất bảo vệ Diệm mà cả hai thằng đều cùng đi họp hết
Một thằng đi một thằng phải thủ dinh Gia Long chứ.
Đây cả hai cùng đi chứng tỏ Diệm Nhu đéo có phân công gì hay đề phòng gì
Nghe tin Tung bị bắt thì thằng em Triệu còn ngu hơn thay vì quay lại nắm lực lượng đặc biệt bảo vệ dinh Gia Long thì lại cùng thằng mấy thằng cận vệ và 1 lái xe chạy thẳng vô trụ sở đảo chính đòi thả người
Chắc thằng triệu tưởng mình là quan vũ đơn đao phó hội.
Để bị chụp cổ đơn giản ngu chưa từng thấy
Lực lượng đặc biệt bị thiếu tá trần văn hổ tiếp quản và cấm hành động
Tất cả thua xa thiếu tá Phạm Bá Hưởng người duy nhất tỉnh táo chỉ huy tiểu đoàn của mình bảo vệ anh em Diệm Nhu một ngày trước khi Diệm Nhu chấp nhận buông súng đầu hàng sau khi chạy ra nhà Mã Tuyên và nhà thờ cha tam
Đã kiểm duyệt kể đúng sự thật.
 
Đã kiểm duyệt kể đúng sự thật.
Hồ Tấn Quyền còn hài hước hơn
Tụi kia kêu đi họp thì đéo đi
Tao tưởng ảnh tỉnh táo nghi ngờ ai ngờ đéo đi vì bận xuống Thủ Đức ăn tiệc chiêu đãi của hai thằng đệ.
Vãi lol
 
mà tao thắc mắc là lúc đó chặn được hết truyền thông với liên lạc hay sao
chứ lúc đó Diệm Nhu cho phát loa báo có đảo chính, yêu cầu huy động tất cả lực lượng quay về bảo vệ thì sao :vozvn (10):
 
mà tao thắc mắc là lúc đó chặn được hết truyền thông với liên lạc hay sao
chứ lúc đó Diệm Nhu cho phát loa báo có đảo chính, yêu cầu huy động tất cả lực lượng quay về bảo vệ thì sao :vozvn (10):
Cái ngu nhất của VNCH thời đấy là không có chính uỷ. :vozvn (17): :vozvn (17):
 
mà tao thắc mắc là lúc đó chặn được hết truyền thông với liên lạc hay sao
chứ lúc đó Diệm Nhu cho phát loa báo có đảo chính, yêu cầu huy động tất cả lực lượng quay về bảo vệ thì sao :vozvn (10):
Lực lượng đéo nào về
Anh Diệm ở dinh gia Long gọi hết tất cả
Hai thằng trí vùng 1 thành viên đảo chính.
Khánh vùng 2 kêu bận đi săn
Đính tư lệnh vùng 3 thì chủ lực đảo chính rồi
Chỉ có tướng Cao vùng 4 trung thành thì bị tụi đảo chính nó cắt mẹ nó Phà đéo đem quân về được
Thủy quân thì Quyền bị giết đỗ chánh thi thay thế tiếp quản
Không quân thì kỳ là thành viên đảo chính
Dù thì anh Viên đứng lên theo Diệm Nhu thấy có vài thằng đứng thì xin ngồi xuống luôn
Còn Đài Phát thanh thì bị đại tá thảo chiếm rồi
Sư 5 của Thiệu đem quân về đảo chính
Thêm đoàn thiết giáp của Lâm văn phát nửa.
Người duy nhất trung thành với Diệm lúc đó chỉ có tiểu đoàn 1 liên binh phòng thủ phủ tổng thống của thiếu tá Phạm Bá Hưởng thôi
 
Lực lượng đéo nào về
Anh Diệm ở dinh gia Long gọi hết tất cả
Hai thằng trí vùng 1 thành viên đảo chính.
Khánh vùng 2 kêu bận đi săn
Đính tư lệnh vùng 3 thì chủ lực đảo chính rồi
Chỉ có tướng Cao vùng 4 trung thành thì bị tụi đảo chính nó cắt mẹ nó Phà đéo đem quân về được
Thủy quân thì Quyền bị giết đỗ chánh thi thay thế tiếp quản
Không quân thì kỳ là thành viên đảo chính
Dù thì anh Viên đứng lên theo Diệm Nhu thấy có vài thằng đứng thì xin ngồi xuống luôn
Còn Đài Phát thanh thì bị đại tá thảo chiếm rồi
Sư 5 của Thiệu đem quân về đảo chính
Thêm đoàn thiết giáp của Lâm văn phát nửa.
Người duy nhất trung thành với Diệm lúc đó chỉ có tiểu đoàn 1 liên binh phòng thủ phủ tổng thống của thiếu tá Phạm Bá Hưởng thôi
Diệm, Nhu, Thiệu gì đây nữa. Usd lên bao nhiêu rồi?
 
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam

Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.

Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.

Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.

Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.

Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.

Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.

Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.

Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!

Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.

Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.

Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.

Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.

Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.

Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:

- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!

Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.

Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.

Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
Bổ sung chút hình ảnh

Y8nu4a1.jpg

Đại tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt

QeOb02z6.jpg

Tổng thống Ngô Đình Diệm và Lực lượng Đặc biệt của đại tá Lê Quang Tung

3WDCcS.jpg

Nghĩa trang Bắc Việt Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu năm 1969. Đây là nơi chôn cất ông Ngô Đình Cẩn và cũng là nơi hai anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu sai khi bị sát hại, vùi xác nơi đây - Ảnh George Lane
 
Đỗ Chánh Thi là ai? Nguyễn Chánh Thi?
Hồ Tấn Quyền chết thì Chung Tấn Cang được chỉ định ngồi ghế Tư lệnh Hải quân.

Lực lượng đéo nào về
Anh Diệm ở dinh gia Long gọi hết tất cả
Hai thằng trí vùng 1 thành viên đảo chính.
Khánh vùng 2 kêu bận đi săn
Đính tư lệnh vùng 3 thì chủ lực đảo chính rồi
Chỉ có tướng Cao vùng 4 trung thành thì bị tụi đảo chính nó cắt mẹ nó Phà đéo đem quân về được
Thủy quân thì Quyền bị giết đỗ chánh thi thay thế tiếp quản
Không quân thì kỳ là thành viên đảo chính
Dù thì anh Viên đứng lên theo Diệm Nhu thấy có vài thằng đứng thì xin ngồi xuống luôn
Còn Đài Phát thanh thì bị đại tá thảo chiếm rồi
Sư 5 của Thiệu đem quân về đảo chính
Thêm đoàn thiết giáp của Lâm văn phát nửa.
Người duy nhất trung thành với Diệm lúc đó chỉ có tiểu đoàn 1 liên binh phòng thủ phủ tổng thống của thiếu tá Phạm Bá Hưởng thôi
 
Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung - tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.
O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải - Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt - Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, tác giả bài thơ: "Quê hương" đã phổ nhạc thành bài hát mà bò đỏ hay ư ử ngân nga, chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH
Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam sau anh em ông Diệm và ông Nhu.
Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.
Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ - như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.
Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính - đều là dân Ông Tạ đã lên kế hoạch: một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ; ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.
Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU
Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.
Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.
Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số - theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.
Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.
Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.
Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm - Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung - Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…
Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt - xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.
Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu - Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, chỉ cách vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa) vài trăm mét.

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI
Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.
Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có thuộc phe đảo chính đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường - trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.
Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.
Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải - Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ - linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.
Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).
Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

IVDwH1A.jpg

Đại tá Bùi Dzinh, tư lệnh Sư đoàn 9 VNCH, nhà đối diện hồ tắm Cộng Hòa (hiện nay người thân trong gia đình ông vẫn ở ngôi nhà này) - Ảnh gia đình

JwwKWgP.jpg

Đại tá Trần Khắc Kính, phó tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, nhà khu Bắc Hải - Ông Tạ, con rể bà lý Sóc trong ngõ Con Mắt - Ông Tạ (phải) và giám đốc Cơ quan tình báo Mỹ (CIA) William Colby

Eb3ltn.jpg

Tướng Lâm Văn Phát (đứng) và Phạm Ngọc Thảo trong cuộc đảo chính lật đổ tướng Nguyễn Khánh 19-2-1965 - Ảnh Robert W. Kelley - LIFE

GA1w6A.jpg

Nơi chôn cất ban đầu của hai anh em ông Diệm và Nhu trong nghĩa trang Bộ Tổng Tham mưu VNCH, thuộc xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ - Ảnh Hồ sơ An táng

DEltAH2d.jpg

Linh mục Nguyễn Quang Lãm - chánh xứ Xây Dựng vùng Ông Tạ, là nhà báo Thiên Hổ chủ bút báo Xây Dựng, người đã viết 40 bài báo điều tra ai đã giết đại tá Phạm Ngọc Thảo - Ảnh LIFE
 
Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung - tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.
O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải - Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt - Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, tác giả bài thơ: "Quê hương" đã phổ nhạc thành bài hát mà bò đỏ hay ư ử ngân nga, chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH
Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam sau anh em ông Diệm và ông Nhu.
Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.
Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ - như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.
Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính - đều là dân Ông Tạ đã lên kế hoạch: một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ; ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.
Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU
Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.
Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.
Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số - theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.
Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.
Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.
Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm - Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung - Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…
Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt - xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.
Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu - Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, chỉ cách vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa) vài trăm mét.

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI
Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.
Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có thuộc phe đảo chính đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường - trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.
Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.
Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải - Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ - linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.
Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).
Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

IVDwH1A.jpg

Đại tá Bùi Dzinh, tư lệnh Sư đoàn 9 VNCH, nhà đối diện hồ tắm Cộng Hòa (hiện nay người thân trong gia đình ông vẫn ở ngôi nhà này) - Ảnh gia đình

JwwKWgP.jpg

Đại tá Trần Khắc Kính, phó tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, nhà khu Bắc Hải - Ông Tạ, con rể bà lý Sóc trong ngõ Con Mắt - Ông Tạ (phải) và giám đốc Cơ quan tình báo Mỹ (CIA) William Colby

Eb3ltn.jpg

Tướng Lâm Văn Phát (đứng) và Phạm Ngọc Thảo trong cuộc đảo chính lật đổ tướng Nguyễn Khánh 19-2-1965 - Ảnh Robert W. Kelley - LIFE

GA1w6A.jpg

Nơi chôn cất ban đầu của hai anh em ông Diệm và Nhu trong nghĩa trang Bộ Tổng Tham mưu VNCH, thuộc xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ - Ảnh Hồ sơ An táng
Nguyên một dàn chỉ huy lực lượng đặc biệt
Đứa thì vô nhà thờ làm lễ
Đứa thì đi dự cuộc họp bất thường khi không liên lạc được với tổng thống
Đứa thì dẫn 3 thằng lính và 1 lái xe xông vô trụ sở đảo chính đòi thả người
Đúng là đặc biệt
 
R3GWDrM.jpg

Đại tá Trần Khắc Kính, phó tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, là người nắm nhiều bí mật của VNCH. Sau 1975, ông đi cải tạo, về xuất cảnh diện H.O. Bên Mỹ, ông viết một số tác phẩm về VNCH trước 1975: "Lật một trang sử cũ”, “ “Gánh vàng đi đổ sông Ngô”, “Nhân đọc cuốn Những huyền thoại & sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm của Vĩnh Phúc”… Bà đại tá Maria Trần Khắc Kính, nhũ danh Trần Thị Phương Liễu (ảnh, trái) là con gái cả của ông bà cụ lý Sóc nổi tiếng trong ngõ Con Mắt (nay là hẻm 766 Cách Mạng Tháng Tám) đã được Chúa gọi về lúc 8 giờ sáng Chúa nhật 01-12-2024 (theo giờ Mỹ, tối 02-12 theo giờ Việt Nam)
 
Lực lượng đéo nào về
Anh Diệm ở dinh gia Long gọi hết tất cả
Hai thằng trí vùng 1 thành viên đảo chính.
Khánh vùng 2 kêu bận đi săn
Đính tư lệnh vùng 3 thì chủ lực đảo chính rồi
Chỉ có tướng Cao vùng 4 trung thành thì bị tụi đảo chính nó cắt mẹ nó Phà đéo đem quân về được
Thủy quân thì Quyền bị giết đỗ chánh thi thay thế tiếp quản
Không quân thì kỳ là thành viên đảo chính
Dù thì anh Viên đứng lên theo Diệm Nhu thấy có vài thằng đứng thì xin ngồi xuống luôn
Còn Đài Phát thanh thì bị đại tá thảo chiếm rồi
Sư 5 của Thiệu đem quân về đảo chính
Thêm đoàn thiết giáp của Lâm văn phát nửa.
Người duy nhất trung thành với Diệm lúc đó chỉ có tiểu đoàn 1 liên binh phòng thủ phủ tổng thống của thiếu tá Phạm Bá Hưởng thôi
còn đám cảnh sát thì sao mày
mà nói thế chứ nếu phát loa biết đâu anh em binh sĩ nghe lệnh bắn bỏ mẹ chỉ huy đảo chính :vozvn (12):
 
đảo chính lần đầu thì bảo bất cẩn, tin lầm người. Đến lần sau thì không thể đổ lỗi cho số phận được,
 

Có thể bạn quan tâm

Top