sami88
Thần điêu đại bịp
BA KẺ ĐẦU TIÊN BỊ TẾ THẦN TRONG NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1/11/1963
Nguyễn Hồng Lam
Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.
Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.
Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.
Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.
Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.
Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.
Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.
Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!
Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.
Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.
Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.
Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.
Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.
Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:
- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!
Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.
Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.
Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-
Nguyễn Hồng Lam
Ngày 1-11-1963, một bi kịch lịch sử đã nổ ra: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và bào đệ - ông Cố vấn Ngô Đình Nhu - đã bị quân đội đảo chính lật đổ và giết chết. Ai trung thành, ai phản với anh em ông Diệm, đâu là kẻ cơ hội,... sau đảo chính đều lộ mặt hết.
Bài viết này không nhằm nhắc lại chi tiết của biến cố đẫm máu đó, chỉ đề cập đến ba kẻ thọ nạn đầu tiên trong ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963 là Đại tá Hồ Tấn Quyền, Đại tá lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ba nhân vật mà tôi muốn đề cập đều bị đoạt mạng ngay trước khi tiếng súng đảo chính nổ ra.
Mùa hè năm 2000, tôi dọn về sống ở đường Bành Văn Trân, P.7, Tân Bình. Trước 1975, đây là đường Thánh Mẫu, chạy từ đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) đến đường Vân Côi, dài chỉ hơn 1km. Nơi tôi ở xưa là khu giáp ranh. Ngược về thời điểm đầu thập niên 1960, phần đường Thánh Mẫu thuộc về Đô Thành Sài Gòn. Phần đưởng Vân Côi chạy ra đến chợ Tân Bình, đường Lý Thường Kiệt lại thuộc về tỉnh Chợ Lớn. Đi dọc đường Thánh Mẫu ra Lê Văn Duyệt, bên tay trái xưa có một con hẻm khá rộng, nay trở thành đường Sao Mai, dài chỉ chưa đầy 400m, dẫn ra ngay đầu ngã ba Ông Tạ. Hầu hết cư dân đầu tiên của con hẻm đều là người Huế hoặc Quảng Bình. Ngày nay trên con đường đó có một quán cà phê nhạc Trịnh, nhỏ xíu nhưng khá nổi tiếng, có tên trong guide - book du lịch. Thứ 7, Chủ nhật của 11 năm liền, tôi thường ngồi trên gác quán, luôn luôn ngồi và luôn luôn một mình, vừa uống cà phê vừa đọc sách, nghe nhạc. Từ trên gác quán, nhìn qua phía đối diện là một ngôi nhà nhỏ xây kiểu Pháp, cổng sắt nhỏ luôn khép. Nhà nhỏ bình lặng náu mình trong hẻm nhỏ, nhưng chủ nhân đầu tiên của nó lại là một cái tên khét tiếng, từng dự phần vào nhiều biến cố kinh hoàng thời Đệ Nhất Công Hòa: Đại tá Lê Quang Tung - Tư lệnh đầu tiên của Lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống giai đoạn 1956 -1963.
Lê Quang Tung sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923, còn trong wiki thì ghi sinh năm 1919; dĩ nhiên là hoàn toàn sai - NHL), tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình trung nông Công giáo toàn tòng. Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Năm 1950, ông làm việc trong Nha Công an Trung phần ở Huế. Sau đó, Lê Quang Tung được đưa đi học và tốt nghiệp khóa 3 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 3/1954, được gắn lon Thiếu úy.
Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, đến tháng 11/1955 thì chuyển Quân đội Quốc gia Việt Nam (trong quân đội Liên hiệp Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của bóng ma thực dân Pháp. Lê Quang Tung được phong Đại úy, được bổ nhiệm làm Chánh sở An ninh quân đội Trung Phần, trụ sở tại Huế. Tại đó ông đã tiếp xúc và nhận được sự tin cẩn của Đỗ Mậu và đặc biệt là của Ngô Đình Cẩn. Từ đây, sự nghiệp, danh vọng và số phận của ông gắn chặt với số phận của anh em họ Ngô Đình. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1956), Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giao cho Lê Quang Tung cùng với Trung úy Nguyễn Văn Châu thành lập và đứng đầu Quân ủy Trung ương Đảng Cần Lao Nhân Vị. Ông được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng của ông Cố Vấn.
Trước đó, vào tháng 2-1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1 (sau nâng lên thành Liên đoàn quan sát số 1) được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Năm 1958, Ngô Đình Nhu lại giao cho Lê Quang Tung thành lập và chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Biệt kích đóng tại Long Thành nhằm huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc cùng thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bí mật khác chỉ theo lệnh của ông Cố vấn, không phải thông qua hay chịu sự lãnh đạo của bất kỳ chỉ huy quân đội nào khác.
Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11-11-1960 (do Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Lạc Tuyên cầm đầu), Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ.
Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên. Trong bóng tối, quyền lực của họ đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật!
Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này đang nắm trong tay những lực lượng binh bị rất mạnh, khả năng chiến đấu cao. Họ tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng không thể, vì cực kỳ nguy hiểm.
Trong biến cố 11/11/1960, dù ông Diệm đã tuyên bố chấp nhận một phần yêu sách của phe đảo chính, chấp nhận ngồi lại thương thảo, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung vẫn chỉ huy quân của mình tích cực phản đảo chính, giải vây cho anh em Tổng thống. Trong khi các “lãnh đạo tinh thần” của phe đảo chính là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, Đại úy Phan Lạc Tuyên cùng nhóm Caravelle chính khách saloon vẫn đang loay hoay cãi nhau về việc hòa hay tiếp tục chiến, hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, đề phòng trước, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật trung thành với nhà Ngô này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính.
Viên tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền không đến dự họp theo lời mời, thực chất là ngôn lệnh. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền (sinh năm 1927), Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức.
Ban đầu, Đại tá Hồ Tấn Quyền từ chối. Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến "buổi tiệc". Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm vào cổ Đại tá Hồ Tấn Quyền. Phản xạ rất nhanh, Hồ Tấn Quyền lách người sang một bên nên lưỡi thép không chọc vào cổ mà cắm vào vai ông. Giữ vô lăng bằng tay phải, tay trái Hồ Tấn Quyền vòng qua chụp tay cầm dao của Trương Ngọc Lực. Máu trên vai ông phun ra đẫm tay tên đàn em khiến tay cầm dao bị trơn. Hồ Tấn Quyền giằng co và giành được dao đâm một nhát vào tay tên đàn em phản trắc. Từ ghế sau, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang chồm lên, dí súng vào vai Đại tá Quyền bóp cò. Viên Đại tá trung thành với nhà Ngô bị bắn chết.
Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp theo ngôn lệnh, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết.
Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng. Viên Tư lệnh không hề run, đã lớn tiếng mạt sát:
- Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống (Ngô Đình Diệm) ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa. Tụi bây là đồ chó lợn...!
Lập tức, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu. Lê Quang Tung bị "biệt đội hành quyết" đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ, không quan tài hay bó liệm gì cả. Kẻ trực tiếp ra tay đoạt mạng Lê Quang Tung là Đại úy Nguyễn Văn Nhung cũng chính là kẻ một ngày sau sẽ dùng dao đâm chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu trên xe bọc thép M.113 khi xe đang chạy trên đường Hồng Thập Tự.
Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức. Triệu cũng lập tức chịu chung số phận, ngay lập tức cũng bị đám thuộc hạ của Nguyễn Văn Nhung vây lại, bẻ ngoặt tay và lôi đi. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta bằng dao găm và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác.
Điều an ủi duy nhất, có tính lịch sử là anh em viên Đại tá trung thành được chết dưới cùng một tay dao của kẻ sát hại anh em Tổng thống sau đó một ngày. Một bi kịch tôi trung thê thảm hoàn hảo!
———-