Don Jong Un
Thôi vậy thì bỏ


Sai lầm của phương Tây không phải là đã sỉ nhục Nga, mà là đã không hiểu được mối nguy hiểm chứa đựng trong cái cảm giác cảm thấy bị sỉ nhục của nước Nga kể từ khi Vladimir Putin lên cầm quyền.
…
Kể từ khi quân đội Nga xâm lược Ukraine, tất cả các ý kiến đều đồng tình lên án Vladimir Putin. Nhưng ngược với trào lưu đó vẫn còn một số ý kiến đồng tình với cuộc xâm lược này. Những ý kiến này dựa trên lập luận cho rằng Phương Tây đã sỉ nhục nước Nga quá lâu, Nato liên tục khiêu khích chống lại nước Nga. Những khúc nhạc dạng này không phải chỉ bây giờ mới vang lên, nó đã xuất hiện từ khi Phương Tây tiến hành trừng phạt Nga sau khi sát nhập Crimea và khuyến khích những cuộc nổi dậy và ly khai ở hai vùng Donetsk và Luhansk – Và giờ đây tất cả đều thấy rằng những biện pháp trừng phạt đó là quá nhẹ, không tạo ra được ảnh hưởng gì ngoài việc làm sâu sắc thêm cái cảm giác bị sỉ nhục của nước Nga.
Quả thật trong nhiều thập kỷ qua, nước Nga đã phải trải qua những chấn thương nghiêm trọng về địa chính trị và địa lý quốc gia. Trong khi họ được thuyết phục về sự bình đẳng về địa chính trị với Mỹ, họ phải chứng kiến sự tan rã và chia lìa đến từ các quốc gia “anh em” ở Trung Âu. Thách thức đau đớn đầu tiên xuất hiện cùng với sự ra đời của Solidarność, Công đoàn Đoàn kết, một công đoàn tự do đầu tiên của cả khối ********. Bằng cách ban hành tình trạng khẩn cấp vào tháng 12 năm 1981, Tướng Jaruzelski muốn áp chế cuộc nổi dậy hòa bình của người dân Ba Lan nhưng biện pháp này đã nhanh chóng trở nên vô hiệu. Moscow cũng đã không thể dùng vũ lực bóp chết cái khát vọng của người dân Ba Lan muốn tự quyết định vận mệnh của mình – giống như họ đã từng làm ở Budapest năm 1956 và ở Praha năm 1968.
Cú sốc về sự tan rã của đế chế
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến dẫn đến quyết định khởi xướng cải cách (perestroika) của Mikhail Gorbachev, trong đó thảm họa Chernobyl là một trong số đó. Sự cần thiết cải cách thực ra đã được các nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Liên Xô nhận thức ra từ năm 1983 khi mà Yuri Andropov yêu cầu nhà xã hội học Tatiana Zaslavskaïa tiến hành khảo sát và đệ trình lên ông các báo cáo. Perestroika đã nhanh chóng tạo ra những hiệu ứng domino. Trong khi ở Nga, báo chí “độc lập” liên tiếp công bố những hồ sơ “nhậy cảm”, thì trên đường phố hay ngay cả trên truyền hình ngôn từ trở nên cởi mở bởi được khuyến khích bởi chính sách “glasnost” (cởi mở/minh bạch). Các chế độ Trung Âu bắt đầu nghiêng ngả.Một bàn tròn được tổ chức ở Ba Lan để chính phủ đối thoại với phe đối lập bất đồng chính kiến, việc này đã dẫn các cuộc bầu cử, mà chế độ bán tự do đã không ngăn được làn sóng thủy triều các phiếu bầu dành cho các ứng cử viên của Công đoàn Đoàn kết. Một chính phủ mới Solidarność hoàn toàn thống trị đã xuất hiện.Tiếp sau đó, Hungary đã mở ra một lỗ hổng trong Bức màn sắt, làm lung lay chế độ Đông Đức cứng rắn của Erich Honecker, khi mà người dân tìm cách ào ạt bỏ nước ra đi… rồi Bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11 năm 1989. Tiệp Khắc, sau đó là Romania, và cứ như thế….
Mikhail Gorbachev và một phần của KGB không phải là không có phản ứng gì trong cuộc đua này: đối với nhân vật số một của Liên Xô, vấn đề là phải làm suy yếu hàng ngũ các kẻ đối địch với những cải cách của ông. Nhưng sự yếu đuối thể hiện rất rõ nét ở ông đã khơi dậy những ham muốn khác và những khao khát khác. Ở các nước Cộng hòa Xô viết vùng Baltic, ở Gruzia, ở Ukraine, ở Caucasus, ở Moldova… bắt đầu xuất hiện những tiếng nói đòi hỏi quyền tự trị và thậm chí độc lập. Những quá khứ đau thương lại hiện về, đi kèm với nó là niềm khao khát tự do muốn được thoát khỏi sự giám sát của Moscow.
Ở chính nước Nga, thông qua hình tượng của Boris Yeltsin, người ta nhận ra một khát vọng không muốn mình đơn giản chỉ là người Liên Xô mà là muốn khám phá lại một bản sắc lâu đời hơn: Bản sắc Nga. Kết quả là thỏa thuận Belovej (Hiệp ước Minsk), được ký kết vào ngày 8 tháng 12 năm 1991 giữa các tổng thống của các nước cộng hòa Nga, Ukraine và Belarus: Boris Yeltsin, Leonid Kravchuk và Stanislaw Shuchkievich. Ba người này tuyên bố giải thể Liên Xô và phế truất Mikhail Gorbachev một cách nhanh chóng.
Trong vòng mười một năm, đế chế Xô Viết đã tan rã. Nó đã tự chìm xuống. Sức mạnh của “đất nước Xô Viết vĩ đại”, mà những lời tuyên truyền về sự vinh quang của nó chưa bao giờ ngừng ca ngợi cho đến cuối những năm 1980, đã giảm xuống tới mức bằng không. Không có phát súng nào được bắn ra, ngoại trừ những phát súng mà lính Liên Xô bắn ra để chống lại những công dân Liên Xô ở các nước Cộng hòa bày tỏ khát vọng độc lập … Người Phương Tây hầu như không liên quan gì đến những biến cố long trời lở đất này và nói thật là chính họ cũng đã không thể tin vào mắt mình. Bản thân họ cũng bị choáng váng bởi những hậu quả trước mắt, chẳng hạn như François Mitterrand về việc thống nhất nước Đức.
Đức 1918 – Liên Xô 1991: Những mất mát tương đương
Đối với người Nga, cú sốc là vô cùng lớn. Điều đã xảy ra với họ, rất giống với những gì nước Đức đã trải qua sau năm 1918: Liên Xô hùng mạnh đã bị đánh bại, bị đánh bại khi mà không có ai xâm lược họ. Đó là một điều không ai có thể tưởng tượng được. Kết quả của sự sụp đổ này, dẫn đến một sự phụ thuộc chưa từng có vào nửa bên kia của thế giới, cái nửa thế giới mà kể từ đầu cuộc cách mạng Bolshevik luôn được coi là kẻ thù, sự phụ thuộc này là điều không thể chịu đựng được. Quả thực, đó là một sự sỉ nhục vô cùng lớn lao mà sự cẩu thả và ngu xuẩn của những người chủ của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã gây ra cho họ.Sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Hungary cũng đã nếm trải nỗi nhục tương tự như thế – đất nước này đã mất hơn 30% dân số, những người sống trên các lãnh thổ, được sát nhập vào các nước láng giềng theo Hiệp ước Trianon vào năm 1920. Ngay cả ngày nay, chủ nghĩa dân tộc của Viktor Orbán vẫn len lỏi trong các nhóm dân tộc thiểu số Hungary đang sinh sống ở Rumania, Slovakia, Serbia, Ukraine… Trên các vùng đất của Liên Xô cũ, người Nga có mặt ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở Ukraine, ở các nước Baltic, ở Belarus, ở Kazakhstan… Đột nhiên, các biên giới quốc gia xuất hiện, đi kèm là những tác động không thể tránh khỏi của sự chia cắt, ít nhất cũng là mang tính biểu tượng.
Nếu như trong thời Liên Xô cũ, rất nhiều thế hệ được dạy dỗ rằng trên thế giới chỉ có hai loại người, đó là “họ” và “chúng ta”. Và “họ” là khái niệm luôn ám chỉ về một thế giới thù địch. Thế mà giờ đây nhiều người Nga “chúng ta” đột nhiên không còn cảm thấy đang ở nhà, mà là đang ở nhà “họ” (người Ukraine, người Balts, người Gruzia, v.v.). Không hề có một bước chuẩn bị nào cho người Nga để làm quen với điều này, họ ngạc nhiên và cảm khó chịu trước biểu hiện khác nhau của sự phát triển bùng phát của tình cảm dân tộc ở khắp nơi và sự khao khát giành lại độc lập. Đặc biệt là khi Phương Tây tỏ ra rất quan tâm đến tương lai của các quốc gia mới, cũng như của các nước Trung Âu. Đối với các nước Trung Âu và các nước Baltic (bị sáp nhập theo kết quả của Hiệp ước Đức – Xô) người ta đã nhanh chóng chấp nhận rằng họ có thể gia nhập Liên minh Châu Âu và nhận được sự bảo vệ của NATO. Trong tình thế đó Nga chỉ có thể cảm thấy không được yêu thương, bị ghẻ lạnh và bị coi thường.
Không còn nghi ngờ gì nữa, các nước Phương Tây đã không đủ nhậy cảm để cảm nhận được cũng như có biện pháp giải quyết vết thương lòng cực kỳ sâu sắc này. Nỗi cay đắng này lại được khuyếch đại bởi sự tiếp xúc giữa mẫu người Liên Xô cũ với mô hình người tiêu dùng Phương Tây hiện đại.
Một trong những phim truyền hình đầu tiên mà người Nga xem sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ là bộ phim có tựa đề “Người giàu cũng khóc” – sản xuất năm 1979 ở Mexico – quảng cáo xuất hiện trên màn hình truyền hình rõ ràng là chỉ nhắm vào nhóm thiểu số nhỏ, những người có đủ năng lực tài chính để thưởng thức những thứ xa xỉ, trong khi đất nước rất nghèo. Sự bất bình đẳng bùng nổ giữa những người được chuẩn bị tốt để bước vào nền kinh tế thị trường – thường là những người có liên hệ với quyền lực và mạng lưới các cơ quan an ninh – và những người hiện đang chìm đắm trong sự khốn khổ của chính mình. Rất nhanh chóng, rõ ràng là các băng đảng “mafia” đã nhanh tay giành lấy phần của họ trong miếng bánh một cách khá dễ dàng hơn vì từ lâu, một mối quan hệ chặt chẽ đã được thiết lập – giữa các nhóm tội phạm và các cơ quan an ninh.
Quân đội, bị suy sụp bởi nạn tham nhũng nên các binh sĩ thường xuyên phải tự xoay sở để làm sao tồn tại được, đa phần cũng đang ở trong tình trạng suy sụp vì lòng tự tôn dân tộc. Thất bại ở Afghanistan (1979-1989) đã chứng minh điều này. Cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996), khi mà Yeltsin ngu ngốc nghĩ rằng mình có thể mang lại trật tự cho Caucasus, đã bị thất bại một cách đáng buồn. Và lần này, sự sỉ nhục vô cùng lớn: “Nước Nga vĩ đại” – bị đánh bại bởi một số ít người Chechnya – những người còn theo đạo Hồi. Cúi đầu trước “lũ lừa đen” (theo thuật ngữ khinh miệt của người Nga đối với người Trung Á) – là điều không tưởng tượng nổi!
Do đó, mặc cảm bị sỉ nhục đối với nước Nga là có thật, nhưng đó chỉ là hậu quả của sự phi lý trong chính sách của Liên Xô, chứ không phải là sự khinh thường và thậm chí không phải là một hành động có chủ ý của Phương Tây. Quan điểm cho rằng Người Mỹ và Châu Âu cố tình làm nhục nước Nga là hoàn toàn không xác đáng. Nước Nga mà đại diện là Boris Yeltsin nhanh chóng được mời tham dự G7, sau đó là G8 của Tokyo vào năm 1996, theo đề xuất của Jacques Chirac: Nga đã không hề bị bỏ lại bên lề trong hành trình đi đến tương lai của thế giới. Nếu quan tâm, bạn đọc có thể đọc lại biên bản các cuộc họp thượng đỉnh này để hiểu được rằng các nguyên thủ quốc gia và chính phủ của các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã phải hành động thận trọng đến mức nào để không làm bẽ mặt Moscow, đồng thời cũng phải cố gắng tránh để những hỗ trợ của họ không bị nuốt chửng trong hố sâu không đáy của tham nhũng…
Đối với sự mở rộng của NATO, cần phải nhắc lại rằng Liên minh Đại Tây Dương là một liên minh phòng thủ và chưa bao giờ có bất kỳ học thuyết quân sự nào nhắm tới việc chủ động xung đột quân sự với Moscow hay xâm nhập vào lãnh thổ Nga. Hơn nữa, lực lượng đóng quân tại các quốc gia gần hoặc giáp biên giới với Nga là ít hơn nhiều so với lực lượng được Nga triển khai để xâm lược Ukraine hiện nay.

La vraie nature de l’humiliation russe
L’erreur des Occidentaux ne fut pas d’avoir humilié la Russie, mais de n’avoir pas compris le danger qu’elle représentait depuis que Vladimir Poutine en avait pris la direction. Depuis l’invasion de l’Ukraine par les troupes russes, tous les commentaires s’accordent pour condamner Vladimir...
