Biệt Hải VNCH và phi vụ BAT-21 cuộc giải cứu đắt giá nhất lịch sử chiến tranh nhân loại

Khi các biện pháp ngoại giao thất bại vào năm 1980, Mỹ đưa Delta, lực lượng biệt kích tinh nhuệ nhất của quân đội, đột kích thủ đô Iran để giải cứu con tin bị giam ở đại sứ quán báo chí đưa tin thất bại, nhưng nó chẳng là nghĩa lý gì...​



iran4.jpg
chiến dịch giải cứu con tin Mỹ ở Iran vào năm 1980, mang tên "Móng vuốt Đại bàng", đã thất bại. Chiến dịch này được thực hiện để giải cứu 52 con tin Mỹ bị giữ tại Đại sứ quán Mỹ ở Tehran. Chiến dịch diễn ra vào đêm 24 tháng 4 năm 1980, đã gặp nhiều trục trặc và kết thúc trong thất bại. Các máy bay trực thăng gặp sự cố, một chiếc bị rơi và một chiếc khác bị hỏng, buộc phải hủy bỏ chiến dịch. Xác máy bay biệt kích Mỹ sau vụ va chạm ở Iran chẳng là nghĩa lý gì khi so với vụ giải cứu BAT21
Khi so với cách đây gần 52 năm về trước, vào mùa hè năm 72 được biệt danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. ******** Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc. 30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch….

Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất. Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “tìm kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến. Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.

The Real Bat 21

Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton.

Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN. Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972. Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần. Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về. Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ. Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton. Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối. Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch. Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.

http://vnafmamn.com/untoldpage/Bat21_map.jpg
Phóng đồ hành quân Bat 21 Bravo và Nail 38 Bravo giải cứu Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton từ ngày 2 đến ngày 14 tháng 4 năm 1972.
Sau này dựng lại BAT-21


Phi công Hambleton, người được cứu sống sau khi nhảy dù ra khỏi máy bay bị phòng không Việt Cộng bắn hạ, trốn trong rừng đến 11 ngày, bị săn đuổi bởi cán binh Việt Cộng. Cuộc giải cứu này được dựng thành phim do tài tử Gene Hackman đóng vai Hambleton.

Bản đồ, địa điểm của hai viên phi công mỹ được giải cứu, ông Clark thì ngay bờ sông còn ông Hambleton thì cách bờ sông Miếu giang độ gần 1 cây số. Hai người lính Biệt Hải, 1 Mỹ và 1 việt, chèo ghe lên và đi tìm ông Hambleton, bỏ lên ghe, chèo xuống lại, cải trang là nông dân Việt Nam. Điều hay là ông Norris người Mỹ rất cao mà qua mặt được Cộng quân. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết.
Theo người Mỹ thì cuộc tìm cứu ông phi công Iceal Gene Hambleton, bị bắn rớt khi lái chiếc EB-66 trong vùng tạm chiếm của Việt Cộng dài nhất trong chiến tranh Việt Nam. 5 máy bay khác bị bắn hạ trong cuộc tìm cứu ông Hambleton, khiến gây tử thương thêm 11 người mỹ, 2 người bị bắt tù binh và một phi công khác, đi tìm cứu chiến hữu bị bắn hạ.


Máy bay EB-66, có 6 phi hành đoàn, loại này được sử dụng để phá rối hệ thống phòng không SA của Liên Xô, nhưng mãi lo phá rồi hệ thống phòng không để phòng bị các pháo đài B 52, họ không kịp tránh đạn hoả tiễn của Việt Cộng. 5 người chết khi máy bay nổ tung khi lãnh quả hoả tiễn thứ 2, ông Hambleton kịp nhấn nút ghế bung ra sau khi máy bay trúng đạn thứ 1, được giải cứu sau 11 ngày.

Ngày 2 tháng 4 năm 1972, 2 chiếc phi cơ của không lực Hoa Kỳ EB-66 do hai phi công Robert Singletary, BAT 20 và Hambleton BAT 21, hộ tống 3 chiếc B-52 bay thả bom. Hai chiếc EB-66 này có nhiệm vụ phá rối hệ thống phòng không của bắc Việt. Chiếc BAT 21 bị hỏa tiễn SA-2 bắn rơi trên vùng đóng quân của Bắc việt. Ông Hambleton là người sống sót duy nhất trong số 6 người của phi hành đoàn, nhảy dù xuống vùng địch. Sau đó một ông phi công khác, tên Mark Clark đi kiếm ông Hambleton bị bắn hạ và được giải cứu bởi toán biệt nhái người Việt và ông Norris, cố vấn lực lượng đặc biệt. Dạo ấy, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút lui, chỉ còn độ 10 người cố vấn lực lượng đặc biệt mỹ.


Máy bay B 52 bay trên cao còn EB-66 bay thấp hơn để phá rối hệ thống hoả tiễn SA
Ông Hambleton, 53 tuổi sắp về hưu, chuyên gia về chống hoả tiễn SAM, và biết về hệ thống vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ (USAF ICBM). Nếu ông ta bị bắt, dịp may cho Liên Xô. Theo ông này, nếu bị bắt thì chắc chắn sẽ không được đưa đến Hoả Lò mà đưa thẳng sang Liên Xô. Do đó bằng mọi cách không lực Hoa Kỳ phải giải cứu ông này. Để khỏi bị bắn nhầm, họ ra lệnh không được bắn trong chu vi 27 cây số, (No Fire Zone) trong thời gian tìm kiếm hai phi công còn sống sót, chưa bị Việt Cộng bắt làm tù binh; Ông Hambleton và một phi công khác tên Mark Clark, bị bắn rơi khi thi hành nhiệm vụ tìm kiếm ông Hambleton. Trên nguyên tắc ông này không nên tham dự phi vụ này vì biết nhiều tin tức về quốc phòng Hoa Kỳ nhưng vì thiếu người, dạo ấy quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam nên ông ta phải tự lái. Xin nhắc lại là sau hiệp định Paris thì Việt Cộng xua quân qua vỹ tuyến 17 để đánh Việt Nam Cộng Hoà.


Phòng không của Bắc Việt do Nga viện trợ SA-2
hệ thống phòng không của Liên Xô trang bị cho bắc Việt khá chính xác nên họ mới bắn rơi rất nhiều phi cơ của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Bù lại Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ khá nhiều chiến xa của Liên Xô nhưng máy bay đắt tiền hơn. Nếu mình không lầm thì Hà Nội cho người sang Iraq để giúp quân đội Sadam Hussein, sử dụng súng phòng không để đối phó với không lực Hoa Kỳ, khi cuộc tấn công của Hoa Kỳ.

Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng. Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt. Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton. Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người. Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn…. Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.

Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác. Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này? Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt. Đại Úy Thomas Norris – (hình trái) – US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông. Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô hình của US Navy SEALs.

Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó. Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông. Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.
 
Sửa lần cuối:
Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông. Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch. Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu. Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.
Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng địch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui. Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết lịm trong rừng già. Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay thì có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.

http://dmn.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/uploads/2012/05/Norris-and-Kiet.jpg
Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt và Người Nhái Hải Quân Hoa Kỳ Tom Norris.

Cuộc tìm kiếm ông Hambleton bắt đầu và sau 10 ngày thì không quân Hoa Kỳ bị tổn thất rất nhiều nên có một tướng quên tên, hình như Abrams ra lệnh ngưng cuộc giải cứu và một ông tá khác, đề nghị cho lực lượng đặc biệt, theo đường bộ vào khu địch chiếm đóng để giải cứu.

Dạo ấy lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ đã rút về gần hết, còn độ 10 người cố vấn nên họ liên lạc với quân đội Việt Nam Cộng Hoà, xin giúp sức. Họ gửi 2 người: 1 thiếu tá Andy Anderson, và thiếu uý Tom Norris, Việt Nam Cộng Hoà có 5 người, ông Phong Trần, ông Tất, ông Châu, ông Nguyễn Văn Kiệt và ông Thọ, toán trưởng.

Theo ông Phong Trần, thuộc lực lượng BIệt Nhái của Việt Nam Cộng Hoà, tham gia cuộc tìm kiếm hai phi công mỹ này kể lại:


Trưa ngày chủ nhật 8 tháng 4 năm 1972, ông ta đang ngồi ăn uống tại nhà người bạn tại Đà Nẵng thì một xe Jeep chạy đến và cho biết ông và ông Châu được lệnh trình diện bộ chỉ huy gấp. Khi đến bộ chỉ huy thì được biết là ngày mai, có công tác xâm nhập vào vùng địch để giải thoát hai phi công mỹ, bị bắn rơi tại vùng Quảng Trị, sông Cam Lộ. Máy bay Cessna để thả đồ tiếp tế và liên lạc với hai phi công còn sống.

Trưởng toán Thọ cho biết là tránh xa các thùng C-ration vì có gài chất nổ, chỉ có Cessna mới biết thùng nào với ám số để phòng bị khi bộ đội Hà Nội phát hiện. Trước khi đi họ nhận quần áo bộ đội, súng AK-47 để cải trang và lương khô cho 4 ngày…. Theo người Mỹ thuật lại thì họ thả bom bi, xung quanh khu vực ông Hambleton lẫn trốn.

Ông ta liên lạc với phi cơ Cessna mỗi tiếng đồng hồ. Ông ta núp trong ruộng của người dân, ăn đậu bắp ngô của người dân để sống. Sau 11 ngày, ông ta mất 45 cân Anh.

4 giờ sáng ngày 9-4-1972, lúc 4:30 sáng có hai trực thăng do phi hành đoàn mỹ lái, bay từ đâu đến, để bốc toán Biệt Nhái người Việt , trong số người Mỹ có trung tá Andy Anderson và đại uý Tom Norris cố vấn cho nhóm Biệt Hải. Sau mấy giờ bay, trực thăng đáp xuống bộ chỉ huy tiền phương, 2 người mỹ và đại uý Thọ đi vào bộ chỉ huy, trong khi 4 biệt nhái người Việt ngồi đợi ở ngoài. Có một chuẩn tướng Việt Nam đi ngang cho biết sẽ có một chiếc M113 đến đón họ đưa đến vùng gần phi công mỹ bị bắn rơi. Trực thăng sẽ không được dùng vì phòng không của địch. Ông tướng này được lệnh giúp đỡ cuộc giải cứu nhưng không tin là hai phi công còn sống hay chưa bị bắt. Ông ta nói đang lo cả sư đoàn 3 bộ binh của ông ta, đang bị Việt Cộng đánh trong khi người Mỹ chỉ lo có 2 người của họ. Hình như ông tướng này tên Vũ Văn Giai, ông Phong chỉ nói tương chỉ huy của sư đoàn 3, nhưng người Mỹ nói tướng Vũ Văn Giai.


Không biết là hình ảnh chụp vào lúc ấy hay trong phim, thấy ông đại uý Norris., có biệt nhái người Việt bên cạnh. Chắc là phim vì dạo ấy không có phóng viên chiến trường tại đây.
Độ 11:30 sáng; có chiếc xe thiết giáp M113 đến, họ cho lên xe tất cả ba lô, súng đạn rồi xe đưa đến điểm hẹn. Đại uý Norris muốn cho toán xuất phát vào 5 giờ chiều trong khi trưởng toán Thọ đề nghị xuất phát vào ban đêm thì tốt hơn. 7:00 tối thì toán gồm 6 người bắt đầu lên đường, di hành mỗi người cách nhau 3 mét. Ông Phong và Tất đi tiền sát, cách 15 thước thì đại uý Thọ, Norris sau đó thì đến Châu và Kiệt đi sau hậu vệ. Xem như toán chỉ có 6 người. Ông Anderson ở lại để liên lạc với máy bay Cessna và toán.

Việt Cộng biết mật mã của người Mỹ nên muốn liên lạc họ phải dùng một cái gì đó để ông ta hiểu. Có người cho biết là ông Hambleton này là người chơi cù giỏi nhất không quân và từ đó họ hiểu phải dùng cách liên lạc để ông Hambleton biết và hiểu. Họ kêu ông ta khởi đầu chơi 18 lỗ của sân cù ở Tucson National, ông Hambleton hiểu là đi về phía Đông Nam 408 yards, vì sân cù này ông ta rất rành.

Họ lần mò đến Miếu Giang, độ 12:30 sáng thì toán đã đến mục tiêu và đợi. Được cho biết là tối nay sẽ có một trong 2 phi công sẽ thả trôi theo sông, khoảng từ 12 đêm đến 3:00 sáng. Việt Cộng nghe truyền tin của người Mỹ nên họ phải dùng ngôn ngữ để báo tin cho hai phi công bị bắn rơi. Như Shake (con rắn) là con sông, Esther Williams Go to Boston (đi về Boston là đi về hướng Đông) giúp phi công hiểu là bơi theo con sông về hướng Đông. Esther Williams là một nữ vận động viên bơi lội nổi tiếng Hoa Kỳ khi xưa, sau này có đóng phim đình đám. Các người truyền tin của Hà Nội, chắc không hiểu khi nghe họ dùng những nhân vật tại Hoa Kỳ nếu không thì họ đã cho người lục soát ven sông.

Bổng họ thấy giữa dòng sông có một chấm đen trôi nhanh đến chỗ họ núp, nghe cả tiếng thở. Ông cho Tất báo cho trưởng toán Thọ và ít lâu sau, ông Norris đeo chân nhái, bơi theo, độ 20 phút sau thì ông ta trở lại. Có lẽ dòng nước mạnh nên ông ta không bơi theo vật nổi kia nên quay lại. Lúc này ông Norris và ông Anderson nói chuyện qua điện đàm về sự việc này, trưởng toán Thọ ra lệnh rút lui.

Bổng nhiên họ thấy cách đó 8-10 thước có thân cây và mặt nước dao động nên theo dõi độ 10 phút sau đó ông Phong bò lại để xem xét tình hình thì nghe tiếng “no, no’ bằng anh ngữ. Ông thấy phi công mỹ đang ôm gốc cây và trông thấy hai người bận đồ bộ đội nên chới với. Ông ngồi đợi vì không biết anh ngữ, lại sợ ông mỹ rút súng ra bắn thì lại mệt, báo động cho bộ đội trong vùng và cho Tất về báo cho trưởng toán Thọ. Sau đó thì ông Norris và trưởng toán Thọ đến, ông ta chỉ vào bụi cây, ông Norris đi lại phía bụi cây, ông phi công và ông Norris ôm lấy nhau mừng rỡ. Sau 10 ngày bị truy lùng, ông này mừng như điên.

7:00 sáng thì họ đưa ông phi công mỹ này đến vùng lính Việt Nam Cộng Hoà đóng, cho uống cà phê,… 10 giờ sáng thì M113 đến đón ông ta về hậu cứ. Mọi người kiếm thức ăn rồi ngủ để chuẩn bị cho đêm hôm sau đi tìm tiếp viên phi công mất tích còn lại.

Bổng nhiên Việt Cộng pháo kích thì họ thấy trung tá Anderson và đại uý Thọ từ ngoài chạy vào hầm, bị thương. Sau đó thì M113 đến chở hai người này và Châu về đơn vị. Theo các lính bộ binh cho hay, hồi chiều, thấy 2 người đứng trước hầm, xem ống nhòm, có thể đề-lô của Việt Cộng thấy nên pháo kích. Xem như toán mất đi 3 người, chỉ còn lại 4 người. Ông Phong, ông Tất, ông Kiệt và ông Norris.

Đại uý Norris thay thế đại uý Thọ làm trưởng toán khiến mấy người Việt lo ngại vì không biết tiếng anh, trong đêm khuya, không hiểu nhau, có thể bị lộn xộn khi di chuyển khiến ông Norris hiểu lầm, cho rằng họ không muốn đi giải cứu viên phi công mỹ còn lại. 4 người lên đường và theo lời Kiệt, ông Norris nói là phi công kia kiệt sức sau 11 ngày nên chắc họ phải đi lên phía trên chỗ hôm qua để tìm kiếm. Mình đoán là ông Kiệt hiểu anh ngữ hơn.

Họ đi lại con đường hôm qua nhưng cách xa độ 50 mét vì ngại địch quân theo dõi hôm qua, và gài mìn. Theo lời Kiệt thì ông Norris bảo tối này ông Hambleton sẽ thả trôi theo dòng nước như ông Clark hôm qua. Họ đến điểm đợi và chú ý hơn hôm qua.

Ngồi đợi, đến 4 giờ sáng không thấy gì cả nên đại uý Norris bảo qua lời của Kiệt, ông Phong và ông Tất trở về tiền đồn đợi lệnh, còn ông ta và Kiệt, đi tìm ghe để chèo ngược dòng sông lên tìm kiếm ông Hambleton.

Ông Phong và ông Tất về đến tiền đồn bộ binh vào lúc 7 giờ sáng. Ngày hôm sau, 13/4/72, độ 9 giờ sáng, thấy Kiệt đi vào hầm, kêu xuống đỡ ông Hambleton vào vì bị thương và kiệt sức. Ông Norris và Kiệt, kiếm được ghe, chèo ngược lên dòng Miếu Giang, cuối cùng tìm được ông Hambleton và đem về như kể trong phim. Nếu mình không lầm thì ông Hambleton bị thương, yếu lã người nên không di chuyển được, khiến hai người đi cứu phải dấu thuyền rồi đi tìm ông ta, đưa đến ghe, hình như có cộng quân đuổi theo bắn.

Theo mình hiểu thì ông Hambleton được hướng dẫn thoát khỏi sự truy lùng của cộng quân bằng cách đi theo lộ trình đánh cù trên sân Golf, được hướng dẫn qua vô tuyến. Ông này có chơi đánh cù nên hiểu được cách đi lòng vòng 18 lỗ sân golf tại quê nhà của ông. Để tránh truyền tin của hắn nghe và biết địa điểm của ông Hambleton, họ hỏi ông này thích môn thể thao nào, ông này nói đánh cù và từ đó họ liên lạc với nhau qua ngôn ngữ chơi cù. Nhờ vậy ông ta mới thoát vòng vây của Việt Cộng.

Có điều mình không rõ là người Mỹ nêu tên Kiệt, người đi chung với ông Norris trong khi ông Phong kể, chỉ viết đến K. Không biết có phải ông Kiệt còn sống tại Việt Nam lúc ông này viết, để tránh Việt Cộng tìm kiếm ông Kiệt hay vì một lý do nào đó. Theo bài mình đọc trên trang của Nha Kỹ Thuật thì ông Phong Trần viết đăng ngày 23 tháng 6 năm 2009. Mình lại đọc trên mạng của người Mỹ thì ông Kiệt đã đến Hoa Kỳ, vào dân mỹ năm 1984.

Đâu 1 tháng sau cuộc giải cứu này, ông Phong và toán của ông ta, trên 30 người được gửi sang Phi luật Tân, tại Subic Bay để được huấn luyện thêm mấy tháng.

Theo lời ông Phong kể khi xưa, lúc ông ta được lệnh đi giải cứu hai phi công Hoa Kỳ, chỉ đi vì nhiệm vụ được giao. Chỉ khi sang Hoa Kỳ sau bao nhiêu năm ở tù ********, xem được phim Bat-21, nên kể lại những gì ông ta và người Việt chứng kiến trong vụ đi giải cứu phi công, như một chứng nhân của cuộc giải cứu tốn kiếm nhất của không lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Thường thì đại uý Thọ dẫn đường, biết anh ngữ, khi ông ta bị thương thì ông mỹ Norris làm trưởng toán nên lo ngại vì anh ngữ chớ không phải vì lo ngại mà không muốn đi tiếp cứu.

Khi Hoa Kỳ cấm không được yểm trở pháo binh cũng như không kích trong vòng 27 cây số, thì xe tăng của địch di chuyển thoải mái, và họ pháo kích các tiền đồn, cũng các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà trong vòng 2 tuần lễ mà chúng ta không được trả đũa, khiến lính Việt Nam Cộng Hoà bị thương và chết khá nhiều để cứu hai người Mỹ.
Cuộc giải cứu ông Hambleton, đã làm thiệt mạng 11 người mỹ khác, vài người Mỹ bị bắt làm tù binh, 1 người Mỹ bị thương ông Anderson và 1 người Việt là đại uý Thọ và Hoa Kỳ mất thêm 5 phi cơ khác trong cuộc giải cứu 1 phi công Hoa Kỳ. Còn lính Việt Nam Cộng Hoà bị hỏa lực Việt Cộng pháo kích chết vô số nhưng không được nhắc đến. Cho thấy người Mỹ bằng mọi cách để giải cứu người của họ, khi ra trận người Mỹ đều tin tưởng là nếu có vấn đề, họ biết là cấp chỉ huy sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.
 
Sửa lần cuối:

Có thể bạn quan tâm

Top