Có Hình Chiến Thần Lữ Bố

Lữ Bố (chữ Hán: 呂布; 158-199) còn gọi là "Lã Bố" tự là Phụng Tiên, là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã tham gia cuộc chiến quân phiệt cuối thời Đông Hán và cuối cùng bị thất bại.
Lã Bố người đất Cửu Nguyên, huyện Ngũ Nguyên thuộc Tinh châu (nay là thành phố Bao Đầu, Nội Mông Cổ ngày nay). Ông được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Lã Bố xuất hiện từ hồi 3 đến hồi 19. Lã Bố được mệnh danh là Chiến Thần, phần lớn độc giả xem Lã Bố là vị tướng dũng mãnh nhất thời Tam quốc, hơn cả Triệu Vân, Quan Vũ, Trương Phi, Hứa Chử, Mã Siêu. Hình ảnh Lã Bố có thể liên hệ tới vị anh hùng Hy Lạp Achilles về sức mạnh. Lã Bố đã từng một mình đánh đồng cân với cả 3 anh em nhà Lưu Bị (gồm Quan Vũ, Trương Phi và Lưu Bị).

img

Trên chiến trường, ông chuyên sử dụng phương thiên họa kích và cưỡi ngựa Xích Thố, như một mãnh hổ tả xung hữu đột, vạn người không địch nổi. Người ta thường nói "Nhân trung Lã Bố, mã trung Xích Thố" (Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố) để tôn vinh hai cực phẩm nhân gian này. Ngoài ra trong những bức ảnh xưa hay ở các tác phẩm liên quan đến nhân vật này, ông được miêu tả là rất tuấn tú.

Theo ghi chép trong các sách: "Tam Quốc Chí", "Ngụy Thư" và "Lã Bố truyện", cha ông là Lã Lương đã theo nghiệp tổ phụ, trấn thủ vùng biên giới. Mẹ là người họ Hoàng, là con một đại phú hào, thông minh, hiền lành, có tri thức, hiểu lễ nghĩa. Ngay từ nhỏ, Lã Bố đã thể hiện là một đứa trẻ có sức mạnh phi thường, tinh thông võ nghệ, rất hiếu thắng, luôn giành chiến thắng trong những "trận đấu" với bạn bè đồng trang lứa. Hệ quả, không ai dám chơi đùa với Lã Bố.

Lớn lên, Lã Bố được gia đình cho học cầm kì thi thư và luyện võ. Nhưng sở thích lớn nhất của ông vẫn là côn quyền, cung tên, đao kiếm và luôn muốn cho mọi người thấy mình dũng mãnh đến nhường nào. Sử sách Trung Quốc ghi lại rằng năm 11 tuổi Lã Bố đã đánh bại đại lực sĩ nổi tiếng trong dòng tộc. Sau sự kiện đó, cả quận Ngũ Nguyên đều biết đến cái tên thiếu niên anh hùng Lã Bố.

Sau khi đọc xong “Tam Quốc diễn nghĩa”, với nhiều người, ấn tượng sâu đậm nhất về “chiến thần” Lã Bố có lẽ là một kẻ hữu dũng vô mưu, trở mặt như trở bàn tay, chỉ biết đến lợi ích bản thân, không có nghĩa khí lại quỵ lụy nhan sắc, để đàn bà sai khiến… Nói chung, ngoài sức vóc thuộc loại “vô địch thiên hạ”, Lã Bố chẳng được mấy ai khen ngợi. Tuy nhiên, nếu như tìm đọc chính sử, người ta sẽ thấy rằng Lã Bố không phải là một kẻ thất phu và tiểu nhân đến như vậy…

Điều này có lẽ chẳng cần phải nói nhiều, bởi lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên người ta gọi Lã Bố là “chiến thần”. Tuy nhiên, đoạn mà tác giả “Tam Quốc Chí” viết ngay sau đó mới quan trọng: “Quan thích sử (Tính Châu) Đinh Nguyên phong cho Lã Bố là kỵ đô úy.

Khi đóng quân ở Hà Nội đã giao cho Bố chức chủ bạ, coi như một tay chân thân tín”. Đây chính là nội dung đã bị các nhà tiểu thuyết vô tình hoặc cố ý “bỏ quên”, đặc biệt là công việc “chủ bạ” mà Lã Bố được Đinh Nguyên giao phó.

Vào thời nhà Hán, chức chủ bạ là chức quan quản các việc lương thảo, công văn thư tín trong quân đội, là một chức quan văn thuần túy, công việc phải xử lý cũng rất vụn vặt. Hơn nữa, khi Lã Bố làm chức chủ bạ, được Đinh Nguyên coi như người thân tín, do vậy có thể thấy rằng, Lã Bố làm công việc của một chủ bạ không đến nỗi tệ.

Từ đó, có thể nói rằng, Lã Bố tuyệt đối không phải là một kẻ ít học, hữu dũng vô mưu như La Quán Trung đã mô tả trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Ngược lại, với vai trò của một chủ bạ, nếu nói theo cách hiện đại thì Lã Bố cũng là một “phần tử trí thức”, được ăn học đàng hoàng.

Sau khi Linh Đế băng hà, Đại tướng quân Hà Tiến cùng với Tư lệ hiệu úy Viên Thiệu bàn tính diệt trừ hoạn quan. Sau khi bàn tính, Hà Tiến cho triệu Đổng Trác mang quân vào kinh. Đinh Nguyên và Lã Bố cũng được lệnh “mang binh mã tới Lạc Dương, cùng với Hà Tiến giết bọn hoạn quan”.

Đinh Nguyên được phong làm chức “chấp kim ngô”. Chấp kim ngô là chức vị tương đương với chức tư lệnh cảnh vệ thủ đô hiện nay. Tuy nhiên, kết quả sự việc thất bại, Hà Tiến bị hoạn quan giết chết, Lạc Dương đại loạn.

Lúc đó, Đổng Trác trên đường mang quân về Lạc Dương, nghe tin Hán Thiếu Đế và em là Lưu Hiệp đã trốn ra khỏi cung, đang ở Bắc Mang bèn mang quân tới đón rồi đưa về cung. Từ đó, Đổng Trác bắt đầu lộng quyền.

Sử chép, để củng cố quyền lực, Trác buộc phải tiêu diệt những kẻ có thế lực trong triều đình. Một trong số đó chính là Đinh Nguyên. Trác thấy Lã Bố được Đinh Nguyên tin cẩn, bèn mật lệnh cho Lã Bố giết Đinh Nguyên. Lã Bố chém đầu Đinh Nguyên dâng cho Đổng Trác, Đổng Trác phong Lã Bố làm kỵ đô úy.

Trong sử sách chỉ chép đơn giản như vậy, tuy nhiên, tới “Tam Quốc diễn nghĩa” lại nói rằng, Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên nhưng sau vì tham vàng bạc châu báu và ngựa xích thố nên mới theo Đổng Trác.


img


Kỳ thực, trong sử sách, chưa ai thấy nhắc tới việc Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên hơn nữa cũng không có chuyện Đổng Trác dùng vàng bạc mua chuộc Lã Bố. Lúc bấy giờ Đổng Trác là tiền tướng quân, được phong hầu lại kiêm cả châu mục.

Luận về địa vị, Đổng Trác ở vị trí cao hơn hẳn so với chức châp kim ngô của Đinh Nguyên. Với địa vị ấy, nếu như Đổng Trác ra lệnh cho Lã Bố giết Đinh Nguyên thì Lã Bố không có cách nào từ chối. Bởi lẽ, Lã Bố không phải là người nhà của Đinh Nguyên mà là một quan lại nhà Hán.

Thêm nữa, lúc bấy giờ Đổng Trác vừa có công hộ giá, lại đang nắm sinh mạng của hoàng đế trong tay, một khi Đổng Trác nói rằng, giết Đinh Nguyên là chiếu chỉ của thánh thượng thì việc Lã Bố có muốn hay không không còn quan trọng nữa.

Ngoài ra còn một điểm rất quan trọng khác mà nhiều người thường bỏ quên, đó là vào thời kỳ vào kinh, Đổng Trác nổi tiếng là một “hiền thần”, hết lòng vì dân, vì nước.

Ngay khi vừa vào cung, Đổng Trác đã giới thiệu rất nhiều danh sĩ nổi tiếng trong thiên hạ giữ những chức vị cao trong triều đình còn bản thân thuộc hạ của mình, Đổng Trác đều chỉ phong cho chức vụ rất thấp. Một người biết chuộng hiền tài như vậy, đương nhiên, Lã Bố không khỏi không hy vọng sẽ được Trác trọng dụng mà thăng tiến.

Sau này, Vương Doãn và Tôn Thụy bày mưu để Lã Bố giết Đổng Trác là vì mâu thuẫn giữa Đổng Trác và Lã Bố, tuy nhiên, mâu thuẫn đó không hề bắt nguồn từ Điêu Thuyền như những gì sách “Tam Quốc diễn nghĩa” đã mô tả.

Sử chép, “Đổng Trác gặp người khác thường không giữ lễ, sợ có người mưu hại mình, vì thế khi đi đâu đều sai Lã Bố làm hộ vệ. Tuy nhiên, Đổng Trác tính nóng nảy lại hẹp hòi, nên không nghĩ trước sau. Có lần vì chuyện nhỏ mà cầm kích lao về phía Lã Bố.

Lã Bố nhanh nhẹn tránh được, sau đó tạ lỗi với Đổng Trác, Đổng Trác cũng cho qua. Từ đó, Lã Bố âm thầm oán hận Đổng Trác. Đổng Trác thường xuyên sai Lã Bố vào phủ canh giữ, Lã Bố đã tư thông với một tì nữ trong phủ của Đổng Trác. Lã Bố luôn sợ bị phát giác nên luôn lo lắng”.

Cũng vì Lã Bố âm thầm oán hận Đổng Trác, lại thêm luôn trong tâm trạng lo sợ bị Đổng Trác phát hiện chuyện tư thông của mình nên Vương Doãn và Tôn Thụy mới lợi dụng Lã Bố để giết Đổng Trác.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác không giống với Lã Bố và Đinh Nguyên trước kia. Sử chép: “Đổng Trác rất tin yêu Lã Bố, nhận làm con nuôi”. Vì thế, khi Vương Doãn nói chuyện giết Đổng Trác, Lã Bố đã nói: “Làm thế thì còn gì là cha con!”.

Vương Doãn nghe vậy đã nói với Lã Bố rằng: “Ngài vốn họ Lã chứ đâu phải họ Đổng, nào có quan hệ ruột thịt gì. Nay Đổng Trác chỉ lo cho ông ta, sao gọi là cha con được”. Nghe thế, Lã Bố bèn đồng ý. Đoạn mô tả trong sử sách này cho thấy, Lã Bố khi đó vẫn nhớ đến tình cha con giữa mình và Đổng Trác.

Tuy nhiên, khi đó, Đổng Trác đã trở thành một kẻ chuyên quyền, hung hãn, tàn bạo, một tên “quốc tặc” làm loạn thiên hạ, các chư hầu ở Quan Đông đều đã khởi binh thảo phạt Đổng Trác.

Có thể nói, lúc bấy giờ, việc giết Đổng Trác là việc ai cũng có thể làm. Vì vậy, nếu có gì đáng chê trách Lã Bố thì chính là Lã Bố đã lấy việc công để trả thù riêng của mình.

Sự kiện diễn ra sau đó mới thể hiện hết tính cách của Lã Bố. Sau khi Đổng Trác chết, do Vương Doãn không tha cho thuộc hạ của Đổng Trác, vì thế, thuộc hạ của Đổng Trác là Lý Thôi, Phàn Trù, Lý Mông dẫn hơn 10 vạn binh mã vây thành Trường An.

Lúc bấy giờ, tại Lạc Dương, dưới sự hoạch định của Vương Doãn, Lã Bố được phong là Phấn uy đại tướng, tước là Ôn hầu, cùng tham dự việc chính sự. Tuy nhiên, khi Lý Thôi, Quách Dĩ mang quân tới bao vây Trường An, Lã Bố tự mở cửa thành xông ra đơn thân độc mã đánh nhau với Quách Dĩ.

Với tư cách là một vị chủ soái, Lã Bố không nhất định phải đơn thương độc mã mở cửa thành ra đánh với Quách Dĩ. Hành động này cho thấy, Lã Bố là kẻ không quan tâm nhiều tới đại cục, chỉ coi việc chém tướng đoạt cờ là quan trọng, giống với một hiệp khách giang hồ hơn là của một đại tướng quân.

Khi thành Lạc Dương bị phá, Lã Bố bỏ chạy. Lã Bố yêu cầu Vương Doãn chạy theo mình nhưng Vương Doãn nhất định không đi.

Sau trốn khỏi thành Lạc Dương, đầu tiên Lã Bố tới đầu quân cho Viên Thuật. Tuy nhiên, Viên Thuật cự tuyệt không nhận Lã Bố. Bắt đầu từ đây, Lã Bố trải qua quãng thời gian bất đắc chí và không được may mắn.

Rời khỏi chỗ Viên Thuật, Lã Bố đi một mạch dài, qua sông Hoàng Hà tới quận Hà Nội thuộc Tính Châu, theo thái thú Hà Nội là Trương Dương - người vốn từng cùng ông phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên.

Tuy nhiên, quân của Lý Thôi, Quách Dĩ đuổi quá gấp, Lã Bố lại phải rời Hà Nội đi về phía Nam, vượt sông tới chỗ Viên Thiệu. Tại đây, Lã Bố giúp Viên Thiệu đánh tướng Khăn Vàng là Trương Yên ở Thường Sơn. Trương Yên có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn quân kỵ.

Lã Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố vì thế thường xuyên cưỡi ngựa mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Quân Trương Yên thua tan tác, bản thân Trương Yên nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình.


Lã Bố lập công, có ý coi khinh những thuộc hạ của Viên Thiệu, liên tiếp sai người giục Viên Thiệu thăng chức cho mình. Tuy nhiên, Viên Thiệu có ý nghi kỵ Lã Bố, cứ ậm ờ không chịu phong chức. Thấy Viên Thiệu không đáp ứng, Bố bèn xin về Lạc Dương. Viên Thiệu ngoài mặt đồng ý, phong Lã Bố làm Tư lệ hiệu úy, nhưng sau lưng lại dặn các tướng thừa cơ giết ông.

Lã Bố đoán biết Viên Thiệu nghi ngờ mình, nên sắp đặt kế thoát thân. Ban đầu Lã Bố giả cách ngồi trong trướng gảy đàn tranh, nhưng sau đó đưa đàn cho người khác gảy tiếp để lừa thủ hạ của Viên Thiệu, còn mình thì bí mật nhân trời tối lẻn chạy trốn.

Một lúc sau thủ hạ của Viên Thiệu đi thám thính nghe tiếng đàn tắt tưởng Lã Bố đã ngủ bèn đi báo cho các tướng của Viên Thiệu. Các tướng ập đến mới biết bị lừa.

Viên Thiệu nghe tin báo không giết được Bố bèn sai người đuổi theo, nhưng những người đuổi theo đều không địch nổi Lã Bố, bị đánh phải quay trở về. Cùng đường, Lã Bố lại đành phải tìm đến chỗ Trương Dương. Trương Dương không nhắc lại việc trước đây Lã Bố ra đi không từ biệt, cho Lã Bố quay trở lại.

Từ đây có thể thấy, nguyên nhân Lã Bố bỏ Viên Thiệu là do Viên Thiệu đã có ý nghi kỵ Lã Bố từ trước. Hơn nữa, Lã Bố khinh thường những thuộc hạ của Viên Thiệu là không xứng đáng ngang hàng với mình.

Kỳ thực, chuyện này không thể trách được Lã Bố, bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả chức xa kỵ tướng quân của Viên Thiệu cũng là tự phong chứ không phải là do triều đình sắc phong. Vì thế, những chức quan dưới trướng của Viên Thiệu đều do ông ta tự phong cho cả.

Những chức quan này đương nhiên không thể sánh ngang với chức phấn uy tướng quân, tước ôn hầu của Lã Bố do triều đình phong cho. Vì thế, Lã Bố có nói rằng, những thuộc hạ của Viên Thiệu không thể sánh ngang với mình cũng chẳng có gì sai cả.

Thêm vào đó, khi Lã Bố tham gia quân của Viên Thiệu đã lập nhiều công lớn. Chỉ riêng chuyện một mình một ngựa Xích Thố xông vào trại quân Trương Yên rồi đánh cho chúng tan tác cũng đủ thấy Lã Bố uy dũng thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà sử chép rằng, mọi người “đều sợ Lã Bố”. Một vị tướng do triều đình phong, lại có công lớn đương nhiên có tư cách để cao ngạo một chút.

Lại nói chuyện Lã Bố sau khi trở lại với Trương Dương vẫn không được an toàn, bởi lẽ Lý Thôi, Quách Dĩ vẫn không chịu buông tha, còn ban lệnh treo thưởng truy nã Bố. Thuộc hạ của Trương Dương đều bị bọn Lý Thôi, Quách Dĩ mua chuộc, định hợp mưu bắt Lã Bố giao nộp.

Sau khi Lã Bố biết chuyện, đã nghĩ ra một nước cờ cực kỳ cao minh. Lã Bố biết Trương Dương là người nghĩa khí vì thế đã nhắm vào điểm yếu này của Trương. Chuyện kể rằng, Trương Dương là người khoan dung, quản thuộc hạ không nghiêm.

Ngay cả khi có người mưu phản, bị phát giác nhưng Trương Dương không xử tội mà chỉ khóc. Một hôm, Lã Bố nói với Dương rằng: “Nay Lã Bố này ở trong châu của ông. Ông giết tôi thì quân của ông sẽ yếu đi. Chi bằng bắt tôi giao cho bọn Quách Dĩ sẽ được bổng lộc”.

Trương Dương vốn không có chủ ý này, tuy nhiên, Lã Bố nói không hề sai chút nào. Vì thế, Dương ngoài mặt thì hứa với bọn Quách Dĩ sẽ bắt Lã Bố nhưng thực tế bên trong vẫn bảo vệ Lã Bố. Nhờ cách này, Lã Bố đã thoát được khỏi lệnh truy nã của triều đình, thoát khỏi thân phận của một tội phạm.

Từ đó, có thể thấy, Lã Bố rất biết cách nhìn nhận thế cục cũng như nắm bắt tính cách con người. Do đó, việc Lã Bố được giao cho chức chủ bạ đồng thời được Đinh Nguyên yêu thích cũng không phải là chuyện nói bừa.

Chẳng bao lâu sau, Duyễn Châu có nội loạn, lại cho Lã Bố một cơ hội để dựng lại sự nghiệp. Tuy nhiên, cuộc nội loạn này cũng bắt đầu từ Lã Bố. Trong thời gian Lã Bố trốn khỏi chỗ của Viên Thuật về với Trương Dương từng đi qua chỗ của Trương Mạc khi đó làm thái thú Trần Lưu.

Khi chia tay, hai người đã nắm tay thề sẽ tương trợ lẫn nhau. Viên Thiệu nghe tin rất giận dữ. Trần Lưu khi đó thuộc quyền cai trị của Tào Tháo, vì thế, Trương Mạc rất sợ Tào Tháo sẽ giúp Viên Thiệu đánh mình.

Tới năm Hưng Bình thứ nhất, tức năm 194, Tào Tháo do nghi ngờ châu mục Từ Châu là Đào Khiêm giết cha mình, bèn mang quân đánh Từ Châu. Không giết được Đào Khiêm, Tào Tháo sát hại rất nhiều người dân vô tội ở Từ Châu.

Trần Cung và Trương Siêu, em của Trương Mạc cùng nhau khuyên Mạc khởi binh làm phản, chống lại Tào Tháo. Cung khuyên Mạc rằng: “Nay thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi lên ở khắp nơi, thiên đế thì ở nơi xa không nên ngu trung.

Nay Lã Bố là kẻ tráng sĩ, thiện chiến, nếu như đón được người này về, cùng nhau cai quản Duyễn Châu thì có thể xưng hùng một phương”. Lý do mà Trần Cung khuyên Trương Mạc hợp tác với Lã Bố, chống lại Tào Tháo là vì Lã Bố là người “tráng sĩ, thiện chiến”. Điều này một lần nữa chứng minh, Lã Bố là một kẻ sức vóc, uy dũng hơn hẳn người thường.

Sau nhiều lần giao tranh với Tào Tháo, Lã Bố cuối cùng đã không địch lại được nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc, đành phải bỏ chạy theo về với Lưu Bị. Một người cả đời phải vào vai một chính nhân quân tử như Lưu Bị đương nhiên không thích thú một kẻ giang hồ, theo chủ nghĩa cá nhân như Lã Bố.

Sách “Anh hùng ký” có chép rằng: Lưu Bị gặp Lã Bố, rất vui mừng kính trọng, nói với Lã Bố rằng: “Tôi và tướng quân là người cùng quê. Khi quân Quan đông khởi nghĩa, muốn giết Đổng Trác, tướng quân giết Đổng Trác theo về Quan Đông. Quân Quan đông lại lo lắng vì tướng quân, đều muốn giết ngài”.

Lã Bố nghe Lưu Bị nói vậy, mời vào trong trướng, ngồi lên giường vợ mình, ra lệnh cho vợ bái Lưu Bị, rồi rót rượu cho Lưu Bị và Lã Bố ăn uống. Trong tiệc rượu Lã Bố gọi Lưu Bị là em. Lưu Bị thấy Lã Bố lời nói và hành động không bình thường, bề ngoài thì vẫn vui cười nhưng trong lòng không vui.

Thực tế thì lúc bấy giờ, Lã Bố thực sự rất kính trọng Lưu Bị, hơn nữa, Lưu Bị với Bố cùng là người miền Bắc vì thế mới có chuyện mời Lưu Bị vào nhà sau, ngồi lên giường vợ mà lệnh cho vợ ra bái chào.

Hơn nữa, vào thời nhà Hán, quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân” vẫn chưa thực sự nặng nề như sau này vì thế, việc Lã Bố mời Lưu Bị vào nhà sau uống rượu cũng có thể là để thể hiện sự thân mật.

Vào thời điểm lúc bấy giờ, Lưu Bị 34 tuổi, Lã Bố hơn Lưu Bị 2 tuổi, do vậy Lã Bố gọi Lưu Bị là em cũng không có gì sai. Tuy nhiên, Lưu Bị lại không nghĩ như vậy. Lưu Bị cho rằng, Lã Bố là kẻ tới hàng mình, do vậy gọi mình là “em”, lại cho vợ ra ngồi cùng uống rượu là việc không hợp lễ nghĩa vì thế mới nói rằng, “Lã Bố lời nói bất thường” mà không lấy làm vui.

Sau này, để chia rẽ Lã Bố và Lưu Bị, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp nhận. Lã Bố thấy Lưu Bị hợp tác với Tào Tháo, sợ hai bên liên kết đối phó với mình nên bắt đầu lo lắng. Về sau, Viên Thuật ở Dương Châu mang quân tấn công Từ Châu.

Lưu Bị mang quân ra chống cự ở Hoài Âm. Viên Thuật viết thư cho Lã Bố xúi Lã Bố đánh úp Từ châu thì sẽ tạ ơn bằng 20 vạn hộc lương. Lã Bố nghe theo, nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì (thủ phủ Từ châu) là Trương Phi và Tào Báo bất hòa bèn mang quân đánh úp thành.

Tào Báo bị Trương Phi giết, thủ hạ là Hứa Đam và Chương Luống đến gặp Lã Bố, khuyên nhân lúc đêm tối đánh ngay thì ở trong thành sẽ làm nội ứng. Lã Bố bèn tiến quân, Hứa Đam mở cửa thành, Lã Bố chiếm được Hạ Bì.

Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại, phải lui quân về Quảng Lăng. Trong lúc thất thế lại bị Viên Thuật đánh bại một trận nữa, phải chạy ra Hải Tây. Lúc bấy giờ, Lưu Bị rơi vào tình thế khốn quẫn không còn đường nào để đi được nữa.

Trong tình thế ấy, Lã Bố vẫn không đuổi tận giết tuyệt Lưu Bị, ngược lại, chấp nhận cho Lưu Bị đầu hàng và cho về giữ Tiểu Bái theo yêu cầu của Lưu Bị. Sau này, Lã Bố tự xưng là châu mục Từ châu vẫn cho mời Lưu Bị xưng là thứ sử Dự Châu.

Từ cách ứng xử với Lưu Bị, đủ thấy, Lã Bố vẫn là một kẻ giữ đúng tính cách giang hồ trượng nghĩa của mình, không nhỏ nhen như Viên Thiệu, cũng không cạn nhân tình như Tào Tháo. Nhưng Lã Bố cũng chết cũng vì cái nghĩa khí giang hồ ấy.

Tháng 9.198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Khi quân Tào kéo tới Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Quảng, Lã Bố thua Lưu Bị mấy trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.

Tào Tháo bèn gửi thư dụ hàng ông. Lã Bố muốn hàng, nhưng Trần Cung cho rằng không nên, và hiến kế chia quân chống lại. Lã Bố ban đầu nghe theo, nhưng nghe lời vợ can không nên đi lại thay đổi ý định không đi nữa, chỉ sai Hứa Dĩ, Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật lần nữa.

Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được Hạ Bì, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Úc và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì.

Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Trong khi đó viện binh của Viên Thuật và Trương Dương vẫn không thấy đến.Trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng, hy vọng Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo.

Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình, nhưng vẫn vây đánh thành. Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo.

Trong lúc đó, một thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn bắt trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc quân vào.

Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, nói với các thủ hạ hãy chặt đầu mình nộp cho Tào Tháo lấy thưởng, nhưng các thủ hạ của ông không nỡ làm.

Quân Tào tiến lên lầu bắt trói được Lã Bố. Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết Lã Bố vì Lã Bố là người hay trở mặt, từng giết Đinh Nguyên và Đổng Trác. Tào Tháo nghe theo, bèn sai mang Lã Bố giết chết.

Rõ ràng, nếu như lúc trước, Lã Bố nhẫn tâm tận diệt Lưu Bị có lẽ sẽ không bị một lời của Lưu Bị mà mất đi tính mạng. Bi kịch của Lã Bố ấy là bi kịch của một kẻ sinh không hợp thời.

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”?
Dù chưa từng giết được danh tướng nhưng Lã Bố vẫn được xưng tụng là “chiến thần”, đệ nhất dũng tướng trong Tam Quốc. Đâu là nguyên nhân?

Từ nhỏ, Lã Bố đã là một đứa trẻ có sức mạnh phi thường. Tuy được gia đình cho học cả văn, võ và vẽ tranh, nhưng sở thích lớn nhất của Lã Bố là cung tên, côn quyền… Năm 11 tuổi, Lã Bố đã đánh bại được đại lực sĩ nổi tiếng ở trong dòng tộc. Kể từ đó, Lã Bố trở nên nổi tiếng khắp quận Ngũ Nguyên.

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, ngoài võ nghệ, sự dũng mãnh hơn người, Lã Bố còn sở hữu hai báu vật hiếm có trên đời là Phương Thiên Họa Kích ngựa Xích Thố, chiến mã nổi tiếng với khả năng di chuyển tuyệt vời. Người đương thời có câu "Nhân trung Lã Bố, mã trung Xích Thố" (tạm dịch là "Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố"). Câu nói này nhằm ca ngợi tài năng của Lã Bố và sự ưu việt của ngựa Xích Thố.

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”? - Ảnh 1.
Lã Bố vô cùng dũng mãnh trên chiến trường.

Lã Bố được sử sách mô tả là người có công diệt trừ gian thần Đổng Trác nên được phong tước hiệu Ôn hầu, ban giả tiết và nghi trượng ngang hàng bậc Tam công. Lã Bố cũng tham gia vào cuộc chiến quân phiệt vào cuối thời Đông Hán, tranh chấp với những thế lực chư hầu lân cận khác như Lý Thôi – Quách Dĩ, Tào Tháo, Lưu Bị và Viên Thuật. Tuy nhiên, cuối cùng kết cục là chịu thất bại.

Lã Bố có võ nghệ cao, tài bắn tên thiện xạ và khả năng chiến đấu vô cùng dũng mãnh trên chiến trường. Mỗi trận đấu có sự xuất hiện của Lã Bố đều khiến quân địch khiếp sợ, đặc biệt là trong các trận đơn đả độc đấu.

Vào thời Tam Quốc, trong dân gian có lưu truyền một câu nói nổi tiếng là "Nhất Lã, nhị Triệu, tam Điển Vi, tứ Quan, ngũ Mã, lục Trương Phi". Câu nói này nhằm ca ngợi tài năng và sức mạnh của 6 võ tướng hàng đầu Tam Quốc.

Nếu theo sự sắp xếp của câu nói này, Lã Bố là danh tướng đứng đầu Tam Quốc, người đứng thứ hai là Triệu Vân, tiếp theo lần lượt là Điển Vi, Quan Vũ, Mã Siêu và cuối cùng là Trương Phi.

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”? - Ảnh 2.
Lã Bố là danh tướng khiến quân địch phải khiếp sợ trên chiến trường.

Vậy, theo câu nói được lưu truyền trong dân gian, Lã Bố là danh tướng số một trong Tam Quốc. Sở dĩ câu nói này nhận định như vậy là do có thể bị ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Tài năng và sức mạnh của Lã Bố đã được chứng minh qua nhiều cuộc chiến, đặc biệt là trong các trận đơn đấu với các võ tướng như Trương Phi, Hứa Chử, Điển Vi… và đặc biệt là "tam anh chiến Lã Bố". Trận đấu kinh điển ở Hổ Lao Quan, khi Lã Bố một mình giao chiến với ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi.

Tuy nhiên, trong chính sử, Lã Bố chưa từng giết được một danh tướng nào. Thay vào đó, Lã Bố chỉ từng chém hai tướng là Đinh Nguyên và Đổng Trác. Theo ghi chép trong lịch sử, Lã Bố từng có cơ hội giao đấu với các võ tướng mạnh nhất Tam Quốc như Quan Vũ, Trương Phi, Hứa Chử... Nhưng dù đơn đấu hay liên thủ tấn công thì những người này đều không thể đánh bại được Lã Bố.

Vì sao Lã Bố được xưng tụng là chiến tướng đứng đầu Tam Quốc?​

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”? - Ảnh 3.
Tào Tháo từng suýt bị Lã Bố bắt sống trên đường tháo chạy.

Ngoài võ nghệ cao, Lã Bố còn khiến tất cả các võ tướng đương thời phải kiềng nể vì khả năng bắn cung vô song. Theo Tam Quốc diễn nghĩa, vào năm 196, khi dẹp Hác Manh, một bộ tướng dưới trướng, Lã Bố đã tra ra được việc người này nghe theo Viên Thuật xúi bẩy. Lúc này, Viên Thuật trở mặt làm thân và xin kết thông gia với Lã Bố.

Khi Viên Thuật thấy Lã Bố ngả theo mình nên sai tướng dưới quyền tấn công Tiểu Bái để tiêu diệt Lưu Bị. Để tránh mang tiếng là thất tín, Lã Bố chỉ mang theo 1000 quân và 200 kỵ binh tới Tiểu Bái để bắt hai bên phải hòa giải. Lã Bố cho người cắm kích từ xa 150 bước và giao hẹn sẽ bắn tên. Nếu Lã Bố bắn trúng vào ngạnh kích thì hai bên phải tiến hành giảng hòa.

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”? - Ảnh 4.
Ngoài võ nghệ cao, Lã Bố còn có tài bắn tên thiện xạ.

Kết quả, Lã Bố giương cung bắn trúng ngay vào ngạnh kích khiến binh lính và hai bên tham chiến đều phải khâm phục. Tướng dưới quyền của Viên Thuật thấy Lã Bố kiêu dũng vô song nên không dám trái ý, đành phải mang quân về.

Rõ ràng việc bắn trúng ngạnh kích ở khoảng cách hơn 100 bước là điều hiếm thấy trong Tam Quốc. Tuy nhiên, Lã Bố đã làm được và cho thấy khả năng bắn cung tuyệt vời của ông.

Theo nhận định của các chuyên gia, việc Lã Bố có thể một mình giao đấu với cả Quan Vũ và Trương Phi ở Hổ Lao Quan cho thấy khả năng cận chiến của danh tướng này. Đồng thời, khả năng bắn kích Viên môn trên lại là minh chứng cho thấy khả năng tấn công tầm xa lợi hại của Lã Bố. Từ đó có thể thấy, võ nghệ cao và khả năng chiến đấu của Lã Bố quả thật không phải hữu danh vô thực.

Lã Bố cả đời chưa từng giết danh tướng, vì sao vẫn được xưng tụng là “đệ nhất dũng tướng”? - Ảnh 5.
Lã Bố được người đương thời xưng tụng là danh tướng hàng đầu trong Tam Quốc.

Hơn nữa, dựa theo những ghi chép trong lịch sử, ngoài khả năng chiến đấu mạnh mẽ, Lã Bố còn là một vị tướng có khả năng chỉ huy, có mưu lược trong quân đội, đặc biệt là khi thống lĩnh kỵ binh. Trận chiến ở Bộc Dương chính là minh chứng. Lã Bố sử dụng mưu kế, thống lĩnh đại quân đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Trong trận chiến này, Tào Tháo không chỉ chịu thua lớn và bản thân còn suýt bị Lã Bố bắt sống trên đường chạy trốn.

Lã Bố nổi danh kiêu dũng, thiện chiến. Cả đời Lã Bố tuy không giết được danh tướng nào, nhưng các võ tướng mạnh nhất đương thời, trong đó người từng chém được danh tướng, cũng không thể đánh bại được ông. Do đó, việc Lã Bố được người đương thời xưng tụng là chiến tướng dũng mãnh đứng đầu thời Tam Quốc là hoàn toàn xứng đáng.

Lữ Bố là đệ nhất mãnh tướng trong Tam Quốc, từng đánh ngang ngửa cùng lúc với Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, thế nhưng ông lại từng thất bại trước một tướng vô danh. Vậy kẻ đó là ai?​

Những độc giả yêu thích “Tam quốc diễn nghĩa” đều biết đến bảng xếp hạng các vị danh tướng thời Tam Quốc: “Nhất Lữ, nhị Triệu, tam Điển Vi, tứ Quan, ngũ Mã, lục Trương Phi. Hoàng, Hứa, Tôn, Thái, hai vị Hạ Hầu, hai vị họ Trương, Từ, Bàng, Cam, Chu, Ngụy”. Như vậy, Lữ Bố là vị tướng dũng mãnh nhất thời Tam quốc, không hổ danh là bậc “Chiến thần”. Người ta vẫn thường nói: “Nhân trung Lữ Bố, mã trung Xích Thố” (Người có Lữ Bố, ngựa có Xích Thố) để nói rằng Lữ Bố và con ngựa Xích Thố của ông là hai cực phẩm đệ nhất chốn nhân gian.


img


"Chiến thần" Lữ Bố. Ảnh trên phim.​

Lữ Bố đệ nhất chiến thần, nếu có bại trận cũng là bại trận trước các bậc danh tướng

Trong Tam Quốc, rất ít khi xuất hiện cảnh đơn đả độc đấu, nhưng Quan Vũ trảm Nhan Lương lại là chuyện như vậy. Chính sử viết rằng: Khi Quan Vũ nhìn thấy Nhan Lương, ông đã thúc ngựa xuyên qua vạn quân chém đầu Nhan Lương. Chư tướng không thể tiếp tục chống cự, đành để ông phá vòng vây Bạch Mã. Có thể thấy không một ai ngăn cản nổi sự dũng mãnh của ông.

Trong Tam Quốc cũng có người từng giao đấu và đánh bại Lữ Bố, đó là Tôn Kiên. Lúc đó Tôn Kiên là tướng tiên phong của liên quân thảo phạt Đổng Trác. Trong quá trình tiến quân, Tôn Kiên đã nhiều lần đánh bại quân của Đổng Trác, hơn nữa còn hai lần đánh bại Lữ Bố.

“Đổng Trác liệt truyện” đệ 62, quyển 72 của Hậu Hán Thư viết rằng, Tôn Kiên tập hợp binh sĩ trở về hàng ngũ, tiến về phía huyện Lương. Lữ Bố và Hồ Chẩn (một vị tướng của Đổng Trác) cùng công đánh Tôn Kiên. Nhưng Hồ Chẩn và Lữ Bố bất hòa, khiến lòng quân không yên, lại thêm lo sợ, phân tán. Đến khi Tôn Kiên công kích, quân Hồ Chẩn và Lữ Bố đều bại trận rồi tán loạn bỏ chạy. Tướng của Đổng Trác là Lý Giác đến bái Tôn Kiên để cầu hòa, nhưng bị Tôn Kiên từ chối, sau đó ông thúc quân tiến đến Đại Cốc cách Lạc Dương 90 dặm hạ trại. Đổng Trác sau khi biết tin liền tự mình dẫn quân cùng giao chiến với Tôn Kiên, nhưng bại trận nên đành rút quân về Mãnh Trì (nay là địa phận Hà Nam, Trung Quốc).

img

Đến khi Tôn Kiên công kích, quân Hồ Chẩn và Lữ Bố đều bại trận rồi tán loạn bỏ chạy (Ảnh: Zisundingzhi).

Tôn Kiên tiến vào thành Lạc Dương, giao chiến với Lữ Bố đang giữ cổng thành. Lữ Bố không chống cự nổi nên cũng phải rút quân. Khi chiếm được thành Lạc Dương, Tôn Kiên cho người quét dọn Tông miếu nhà Hán và cúng tế, sai một cánh quân ra khỏi cửa Hàm Cốc, vòng tới giữa Tân An và Mãnh Trì để cắt đứt đường đi của Đổng Trác.


Lữ Bố dũng mãnh kiêu hùng, lại phải chịu khuất phục trước một “kẻ vô danh”

Lữ Bố bách chiến bách thắng, nếu có thua trận thì cũng chỉ là thua trận trước những bậc danh tướng tiếng tăm lừng lẫy. Ấy vậy mà vẫn còn có một nhân vật vô danh từng đánh bại Lữ Bố, đó là Lý Tiến.

“Tư Trị Thông Giám” quyển thứ 61 viết rằng: “Tháng chín, Tào Tháo trở lại Quyên Thành, Lữ Bố thừa cơ đến đánh, bị người trong huyện là Lý Tiến đánh bại, phải rút quân về phía Đông đóng đồn ở Sơn Dương“. Điều này cho thấy võ nghệ cao cường của “thường nhân” Lý Tiến.

Theo Sử Ký, vào thời điểm đó Lý Tiến chỉ một thân một mình nhưng vẫn đánh bại được Lữ Bố, người đang suất lĩnh một ngàn kỵ binh của Tinh Châu. Có thể nói Lý Tiến đã tạo nên chiến tích huy hoàng trong lịch sử, là nhân vật duy nhất đánh bại Lữ Bố một cách chính diện.

Trận chiến ấy được miêu tả như sau:

Tào Tháo nghe tin Duyện Châu sắp thất thủ, vô cùng kinh sợ, nhanh chóng vứt bỏ Từ Châu, trở về tìm Lữ Bố để lấy lại Duyện Châu. Tào Tháo dụng binh thao lược, còn Lữ Bố thì giỏi giao chiến. Cuối cùng Lữ Bố thiếu hụt lương thảo, bèn dẫn theo tám binh sĩ, âm thầm cưỡi ngựa chạy trốn trong đêm, rời khỏi Bộc Dương thành.

Nhưng lúc này đột nhiên nghe thấy tiếng vang, từ trong vùng hoang dã xuất hiện một số dân chúng cầm theo đao, thương, chỉ vào Lữ Bố hét lớn: “Chúng ta và Lý Tiến đều là người trong huyện, ngươi mau đầu hàng“.

Đây thật sự là “Long du thiển thủy tao hà hí, hổ lạc bình dương bị khuyển khi” (rồng gặp nước nông tôm bỡn cợt, hổ xuống đồng bằng bị chó khinh). Lữ Bố thịnh nộ, cùng tám viên tướng giao chiến với Lý Tiến, nhưng bởi vì người của Lữ Bố đã đói khát nhiều ngày nên chịu thua trận này, đành phải chật vật bỏ chạy thoát thân.

Nhân vật Lý Tiến chỉ xuất hiện một thoáng, sau đó không còn được nhắc đến nữa, giống như đã hoàn toàn mai danh ẩn tích, khiến cho người đời sau cảm thấy khó mà lý giải cho được. Tục ngữ có câu: “Loạn thế xuất kiêu hùng”, Tam quốc là thời kỳ có nhiều mãnh tướng nhất, được ví là mãnh tướng và mưu thần như mây, không chỉ có những vị anh hùng lĩnh quân ra trận, mà còn có rất nhiều anh hùng vô danh ẩn mình trong dân gian.
 
Top