Cuộc chiến tranh "không kết quả" khốc liệt nhất Trung Đông giữa Iran- Iraq 1980-1988

Iraq coi cuộc cách mạng Hồi giáo Iran là mối đe dọa với họ. Ông Ayatollah Khomeini, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979, vốn “ngậm trái đắng” sau khi bị trục xuất khỏi Iraq năm 1977 sau 15 năm sống ở An Najaf, đã thề trả thù cho các nạn nhân người Shiite sống dưới chế độ đàn áp của đảng Baath cầm quyền ở Iraq.

debc0df524_odna-iz-demonstracij-1979-goda.webp


Tuy nhiên, Iraq tự tin hơn trước chiến dịch quân sự chống Iran khi Iran gặp nhiều vấn đề: quân đội tan rã, phần lớn quan chức cấp cao nhất đều bị hành quyết; bạo loạn do tranh chấp lao động do chính tình báo Iraq kích động, phong trào nổi dậy ở khu vực người Kurd. Iran thời điểm đó không chỉ thiếu sự lãnh đạo mà lực lượng vũ trang Iran còn thiếu phụ tùng thay thế cho các trang thiết bị quân sự do Mỹ sản xuất.

Các vấn đề này khiến chính phủ của ông Khomeini lâm vào thách thức nghiêm trọng. Trái lại, lúc đó, người Iraq có thể huy động tới 12 sư đoàn vũ trang đầy đủ những vũ khí tân tiến nhất của Liên Xô. Quân đội Iraq có 190.000 binh sĩ, 2.200 xe tăng và 450 máy bay. Thêm nữa, khu vực bên kia sông Arvand-Roud cũng không gây trở ngại gì lớn cho Iran. Quân đội Iraq lại còn có trang thiết bị vượt sông của Liên Xô.

Các tướng lĩnh Iraq cho rằng khu vực Iran ở bên kia sông Kharkheh và Karoun chỉ được phòng thủ mỏng, không thể đối chọi với các sư đoàn thiết giáp vũ trang tận răng của Iraq. Tình báo Iraq cũng cho biết lực lượng Iran ở Khoizestan trước đây gồm hai sư đoàn nằm ở Ahvaz và Abadan giờ chỉ còn là những đội hình nhỏ cỡ tiểu đoàn, trang bị mỏng. Điều duy nhất người Iraq không chắc chắn là khả năng chiến đấu của không quân Iran vốn có những máy bay tinh vi nhất do Mỹ chế tạo.

Về phần mình, lãnh đạo Ayatollah Ruhollah Khomeini cho rằng người Hồi giáo dòng Shiite ở Iraq, Saudi Arabia và Kuwait có thể đi theo con đường của người Iran là nổi dậy lật đổ chính phủ và cùng lập ra một quốc gia Hồi giáo thống nhất. Ông Khomeini và những nhà cách mạng Hồi giáo Iran khác coi chủ nghĩa thế tục của ông Saddam là “phi Hồi giáo”, là “con rối của quỷ Satan”, đồng thời kêu gọi người Iraq lật đổ chế độ của ông Saddam Hussein.

Từ tháng 3/1980, quan hệ giữa hai nước đi xuống nghiêm trọng. Iran đơn phương giáng cấp quan hệ ngoại giao xuống mức đại biện, rút đại sứ về nước và yêu cầu phía Iraq có hành động tương ứng.

Căng thẳng dâng cao vào tháng 4/1980, khi xảy ra vụ ám sát hụt Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Iraq Tariq Aziz và 3 ngày sau là vụ đánh bom nhằm vào đoàn tang lễ trên đường đến nghĩa trang mai táng những sinh viên thiệt mạng trong vụ tấn công trước đó. Iraq đổ lỗi cho Iran đứng sau các vụ việc trên.
Saddam Hussein

Ngày 17/9/1980, trong một bài phát biểu trước quốc hội, ông Saddam Hussein nói: “Những hành động thường xuyên và rõ ràng của Iran vi phạm chủ quyền của Iraq… đã khiến cho Hiệp định Algiers 1975 không còn giá trị… Dòng sông Shatt al-Arab phải được trả lại cái tên Arab mà nó đã mang suốt chiều dài lịch sử và Iraq phải được trả lại toàn bộ các quyền chủ quyền đối với dòng sông”.

img


Chiến tranh Iraq - Iran là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến

Ngày 22/9/1980, Iraq đã mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran. Ngày 22/9/1980, một phi đội MiG-23 và MiG-21 của Iraq đã tấn công căn cứ không quân của Iran. Mục đích của họ là phá hủy lực lượng không quân của Iran ngay từ trên mặt đất. Iraq đã phá hủy đường băng, kho nhiên liệu và đạn dược, nhưng phần lớn máy bay của Iran vẫn nguyên vẹn.

Nguyên nhân là máy bay của Iran đều được bảo vệ trong các nhà chứa máy bay được gia cố đặc biệt. Chỉ trong vài giờ, máy bay F-4 Phantom của Iran đã cất cánh từ các căn cứ bị không kích, tấn công đáp trả thành công các mục tiêu chiến lược quan trọng gần các thành phố lớn của Iraq, và trở về hầu như không tổn thất gì.

Cùng thời điểm không kích các sân bay của Iran, 6 sư đoàn của Iraq đã xâm nhập vào Iran theo 3 mũi trong một cuộc tấn công bất ngờ. Iraq đã thành công bước đầu khi tiến sâu vào trong lãnh thổ Iran 8 km và chiếm được một khu vực 1.000 km2 của Iran.

Nhằm nghi binh trên mặt trận phía bắc, một sư đoàn bộ binh sơn cước cơ giới hoạt động tại vùng núi Iraq đã tràn san tấn công các đơn vị đồn trú ở Qasr-e Shirin và chiếm đóng một khu vực trải dài 30 km về hướng đông đến chân núi Zagros.

Khu vực này có ý nghĩa quan trọng chiến lược bởi vì các đường cao tốc chính nối Baghdad-Tehran đi qua đây. Ở mũi tấn công trung tâm, quân đội Iraq chiếm đóng Mehran, khu vực đồng bằng phía tây của dãy núi Zagros tại tỉnh Ilam, đồng thời tiến về phía đông đến chân núi.

Mehran là một vị trí quan trọng trên con đường chính từ bắc vào nam, gần biên giới phía Iran. Mũi tấn công chính là ở phía nam, nơi mà 5 sư đoàn thiết giáp và cơ giới đánh chiếm Khouzestan theo hai hướng, một hướng vượt qua sông Arvand-roud gần Basra, bao vây và cuối cùng là chiếm đóng Khorramshahr, còn hướng thứ hai nhằm vào Sousangerd là có Ahvaz-căn cứ quân sự chính yếu ở Khouzestan.

Trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, xương sống của Không quân Iran (IRIAF) thời điểm đó chính là các máy bay F-14 Tomcat mà Iran vẫn đang còn sử dụng cho tới tận ngày nay.
Được mua từ trước khi bùng phát cuộc Cách mạng Hồi giáo, Không quân Iran sở hữu hàng chục chiếc tiêm kích hai ghế ngồi, giúp họ có lợi thế lớn trong cuộc chiến trên không với nước láng giềng Iraq.
Tuy nhiên, ưu điểm về công nghệ thì cũng chỉ dừng ở đó. Chính kỹ năng tuyệt hảo của các phi công Iran mới giúp IRIAF tiêu diệt được 3 mục tiêu đối phương chỉ bằng một quả tên lửa.
Người Iran thực sự rất xuất sắc đằng sau cần lái máy bay Tomcat. Lịch sử đã cho thấy, điểm thi cao nhất giành danh hiệu phi công đẳng cập (Ace) với tiêm kích Tomcat thuộc về người Iran mang tên Jalil Zandi. Theo ghi nhận của Không quân Mỹ, Zandi từng lập kỷ lục bắn hạ 11 mục tiêu bằng F-14 - một thành tích đáng kinh ngạc với bất cứ phi công chiến đấu nào. Tất nhiên, trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, Zandi đã được hỗ trợ rất tốt từ các phi công đồng nghiệp trong việc giữ cho bầu trời Iran sạch bóng máy bay Iraq.

Đây chính là cảm hứng Marverik - Tom Cruise trong Top Gun.

F-14 Tomcat tiêu diệt cùng lúc 3 MiG-23 chỉ bằng 1 tên lửa: Sự xuất sắc của phi công Iran - Ảnh 1.
Các phi công Iran bên chiếc tiêm kích F-14


Vào thời điểm cuối năm 1981, cuộc chiến tranh Iran-Iraq vẫn đang ở thế bế tắc và các trận chiến dưới mặt đất diễn ra rất khốc liệt. Iraq xâm lược Iran năm 1980 vì nhiều lý do khác nhau nhưng chủ yếu là giành lợi thế từ bất ổn sau sự sụp đổ của đế chế Shah, đồng thời không để cho cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran lan sang các quốc gia láng giềng.
Trước khi bộ binh Iraq tràn qua biên giới, các lực lượng không quân của Tổng thống Saddam Hussein tìm mọi cách hủy diệt không quân Iran ngay từ khi họ vẫn đang còn ở dưới mặt đất.

[COLOR=rgba(79, 50, 28, 0.9)]F-14 Tomcat tiêu diệt cùng lúc 3 MiG-23 chỉ bằng 1 tên lửa: Sự xuất sắc của phi công Iran - Ảnh 2.
Máy bay F-14 Tomcat của Iran mang tên lửa Phoenix cứu nguy cả quốc gia Iran


Trong những ngày đầu mở màn cuộc chiến, Tomcat đã gây thiệt hại nặng nề cho Không quân Iraq, bắn hạ cả máy bay tiêm kích và máy bay ném bom. Vũ khí sát thủ nhất của Tomcat - tên lửa Phoenix trang bị đầu đạn nổ công phá lớn, mạnh hơn các loại tên lửa chống máy bay khác cùng thời.
Chúng được thiết kế để tiêu diệt các máy bay ném bom Tupolev của Liên Xô, loại mà khi đó Iraq sử dụng để bay trên bầu trời Tehran.
Đến năm 1981 khi cuộc chiến dưới mặt đất bước vào giai đoạn kịch tính thì cuộc chiến trên không cũng vô cùng ác liệt. Trong thế đối đầu này, Tomcat đã mang lại cho Iran một lợi thế quyết định.
Chỉ cần một chiếc F-14 duy nhất xuất hiện trong khu vực cũng đủ khiến các phi công Iraq phải tản ra và quay đầu trở về căn cứ. Những gì xảy ra vào ngày 7/1/1981 là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều này.
Phi công Iran Asadullah Adeli cùng sĩ quan radar Mohammed Masbough nhận được thông tin về các máy bay không xác định danh tính đang tiến về phía đảo Kharg trên Vịnh Péc-xích và họ được lệnh hành động.
Tomcat xác định kẻ xâm phạm là 3 chiếc MiG-23của Iraq, khi đó được nhận định là đang bay về hướng một giàn khoan gần đảo Kharg. Radar mặt đất của Iran không thể quan sát thấy cả 3 chiếc MiG-23 nhưng Adeli và Masbough được chỉ thị tấn công những chiếc MiG đột nhập này bằng mọi giá.

Masbough đề nghị Adeli tiêu diệt chiếc ở giữa, chỉ với hy vọng sẽ làm hư hại được 2 chiếc kia khi tên lửa phát nổ. Mọi việc diễn ra gần như thế. Đạn tên lửa Phoenix do Mỹ chế tạo mạnh tới mức nó tiêu diệt cả 3 máy bay. Xác của cả 3 chiếc máy bay MiG được tìm thấy trên đảo Kharg vào ngày hôm sau.
 
img


Iraq muốn tận dụng việc Iran vừa trải qua cuộc Cách mạng Hồi giáo để tấn công phủ đầu

Được hỗ trợ bởi hỏa lực pháo binh hạng nặng, quân đội Iraq ở hướng này đã có những bước tiến nhanh chóng và đáng kể-tiến sâu gần 80 km chỉ trong vài ngày đầu tiên. Trong cuộc chiến ở Dezful thuộc Khouzestan, nơi có một căn cứ không quân lớn, chỉ huy quân đội Iran tại đây đã yêu cầu không quân hỗ trợ để không bị thất thủ. Với sự gia tăng lực lượng không quân của Iran, các bước tiến của Iraq đã phần nào bị chậm lại.

Iraq tiến hành một trận đánh chiếm lãnh thổ quy mô lớn cuối cùng vào đầu tháng 11/1980. Vào ngày mùng 3/11, lực lượng Iraq đã tiến tới Abadan nhưng bị đẩy lui. Mặc dù họ đã bao vây Abadan từ ba phía và chiếm đóng một phần của thành phố, người Iraq đã không thể vượt qua sức kháng cự mạnh mẽ tại đây; các khu vực của thành phố vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Iran và được tiếp tế bằng thuyền vào ban đêm.

Ngày 10/11, Iraq chiếm được Khorramshahr sau một cuộc chiến đẫm máu với người dân địa phương. Thương vong trong trận đánh này với cả hai bên đều rất lớn. Iraq có 6.000 binh sĩ thương vong còn con số thương vong của Iran còn cao hơn. Các cuộc tấn công chớp nhoáng của Iraq nhằm vào các lực lượng phân tán của Iran khiến nhiều nhà quan sát nghĩ rằng Iraq sẽ giành chiến thắng chỉ trong vòng vài tuần.
Tuy có được yếu tố bất ngờ và lực lượng vượt trội (21 sư đoàn chính quy so với 13 sư đoàn của Iran), thế nhưng tới năm 1981, cuộc tấn công của Iraq dần bị đẩy lùi. Hai bên sử dụng các loại vũ khí đại diện cho hai cường quốc đối nghịch. Cụ thể, Quân đội Iraq sử dụng chủ yếu hệ vũ khí Liên Xô trong khi Iran lại dùng vũ khí Mỹ. Việc bị đẩy lùi từ đầu năm 1981 và chuyển dần vào thế phòng thủ đã khiến binh lính Iraq dần mất đi tinh thần.

Sau khi đánh mất hầu hết các lãnh thổ mà họ giành được vào tháng 5/1982 (khi Iran tái chiếm được Khorramshahr), Saddam Hussein đã có phản ứng chiến lược là tuyên bố đơn phương ngừng bắn (vào ngày 10/6/1982) và đề nghị Iran ngừng bắn với cái cớ hai bên cần hợp tác giúp Palestine chống Israel xâm lược Lebanon.

Tưởng như cuộc chiến tranh tới đây là kết thúc và các binh lính sắp được về nhà, thế nhưng nhà lãnh đạo Khomeini đã không đồng ý chấm dứt cuộc chiến. Ngày 22/6/1982, Tổng tư lệnh Quân đội Iran tướng Shirazi tuyên bố “tiếp tục đánh cho đến khi lật đổ chế độ Saddam Hussein để chúng ta có thể cầu nguyện ở Karbala và Jerusalem”.

Quân đội Iraq thì sử dụng chiến thuật đào hào, lập các trận địa pháo dày đặc phòng thủ, trong khi Quân đội Iran dùng chiến thuật biển người phối hợp với ưu thế máy bay và xe tăng.

Tuy nhiên, ưu thế vượt trội của lực lượng phòng thủ Iraq khiến hàng chục nghìn binh sĩ Iran thiệt mạng trong hầu hết các chiến dịch sau năm 1982, và lực lượng phòng thủ Iraq vẫn giữ được hầu hết các vị trí. Trong cuộc tấn công Basra năm 1982, năm cuộc tấn công biển người đã bị chặn lại bởi hỏa lực của Iraq. Các binh sĩ trẻ của Iran thiệt hại rất nhiều, đặc biệt khi họ tình nguyện lao ra chiến trường mà không hề có kinh nghiệm, chỉ để dọn đường cho các chiến binh Iran phía sau. Người Iran cũng bị thiệt hại lớn bởi các vũ khí hóa học và hơi cay do phía Iraq sử dụng.

Dù thất bại nặng nề, thế nhưng nhà lãnh đạo Iran Khomeini vẫn không thay đổi lập trường và vẫn yêu cầu quân đội của ông tấn công dữ dội Iraq. Lúc đó ông ta ra lệnh cho các đơn vị quân đội Iraq rút về biên giới. Nhưng Iran bác bỏ lệnh ngừng bắn này, yêu cầu Iraq phải loại bỏ Tổng thống Saddam Hussein và đền bù thiệt hại chiến tranh.

Khi Iraq từ chối yêu sách này, Iran mở cuộc tiến công vào lãnh thổ Iraq, bằng chiến dịch Ramadan vào ngày 13/7/1982, mở đầu các nỗ lực đánh chiếm thành phố Basra của Iraq. Đỉnh điểm khốc liệt là năm 1982, hai nước đã cho máy bay oanh tạc các mục tiêu kinh tế, quân sự và công trình kiến trúc ở các thành phố nằm sâu trong lãnh thổ của nhau.

Từ đó cho tới năm 1985, hai bên tổ chức cuộc tấn công quy mô nhưng hầu như đều không mang lại ưu thế rõ rệt nào. Cuối năm 1985, Iraq quay sang sử dụng các cuộc không kích dữ dội vào thành phố lớn của Iran bằng máy bay ném bom và đặc biệt là tên lửa đạn đạo Scud. Tổng cộng, Iraq đã bắn 520 tên lửa Scud và Al-Hussein (phiên bản của Scud do Iraq chế tạo).

Phía Iran cũng phản cộng bằng 177 quả Scud mua được từ Triều Tiên. Năm 1987, Iran tiếp tục mở cuộc tấn công dữ dội vào miền bắc và miền Nam Iran và giành được một ít thắng lợi nhưng không thể giữ được lâu.

Chiến tranh Iran – Iraq còn sử dụng nhiều chiến thuật thời Thế chiến 1 như đào đắp công sự, tháp súng máy, lưỡi lê và tấn công biển người. Phía Iraq còn sử dụng rộng rãi vũ khí hóa học chống lại kẻ thù. Mặc dù Iraq bị rơi vào thế phòng ngự chiến lược, Iran không thể khôi phục lại lực lượng thiết giáp hiệu quả và không thể thọc sâu qua biên giới Iraq để đạt được hiệu quả quyết định.

Vào năm 1988, Iran đã trở nên nản chí do phát động nhiều cuộc tấn công “cuối cùng” trong nhiều năm mà không đạt được mục đích, do viễn cảnh thương vong bất tận, và do suy giảm năng lực nhập hàng hóa dân sự lẫn quân sự, cũng như do các cuộc tấn công bằng tên lửa Scud của Iraq nhằm vào thủ đô Tehran của Iran.

Một yếu tố giúp chiến tranh kết thúc là Iraq đã phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào tháng 4/1988. Được sự hỗ trợ của các nước Ảrập, Iraq tiếp tục đứng vững trong khi Iran chịu thiệt hại nặng nề cả về nhân lực lẫn vật lực, buộc phải chấp nhận nghị quyết đình chiến do Liên Hợp Quốc đưa ra.

Khi đó Iraq đã giữ gìn lực lượng trong thời gian dài và đã cơ giới hóa lực lượng của họ để ngăn ngừa tình trạng ngại đối mặt với hỏa lực đối phương. Cuộc chiến chấm dứt vào tháng 7/1988 với nghị quyết 598 của Liên Hợp Quốc. Ngày 20/8/1988, cuộc chiến kết thúc.
chien-cong-ky-la-cua-f-14-iran-mot-ten-lua-ha-ba-may-bay-iraq.jpg

F-14 Mỹ, cứu tinh toàn bộ Iran
Trong 8 năm từ khi Iraq chính thức tuyên chiến vào ngày 22/9/1980 đến khi Iran chấp nhận ngừng bắn vào ngày 20/7/1988. Các bên đã chi trực tiếp khoảng 228 tỷ USD cho cuộc chiến và chịu thiệt hại lên tới hơn 400 tỷ USD, chủ yếu do pháo kích. Số người chết và bị thương lên tới hơn 1,5 triệu, chưa kể hàng triệu người khác rơi vào cảnh nghèo đói, tàn phế, bệnh tật và mất nhà cửa.

Iraq còn bị thiệt ở chỗ: Họ từng khiến Iran công nhận chủ quyền của Iraq đối với sông Shatt-el-Arab (nơi các con sông Tigris và Euphrates nhập làm một), nhưng sau chiến tranh, vào năm 1988 Tổng thống Saddam Hussein nhượng lại sông Shatt-el-Arab này để đổi lấy sự trung lập của Iran trước khi diễn ra Chiến tranh Vùng Vịnh vào năm 1991.

Có 3 điều tạo nên nét khác biệt của Chiến tranh Iran-Iraq: Trước tiên, nó kéo dài hơn cả hai cuộc thế chiến. Nguyên nhân là vì Iran không muốn chấm dứt chiến tranh, còn Iraq thì không thể. Thứ hai, cuộc chiến này là cực kỳ bất đối xứng về phương tiện mà mỗi bên sử dụng. Mặc dù cả hai nước đều xuất khẩu dầu và nhập vũ khí của nước ngoài, trên thực tế Iraq được hỗ trợ nhiều hơn, được Kuwait và Saudi Arabia hậu thuẫn, giúp họ mua được vũ khí hiện đại ở quy mô lớn hơn Iran rất nhiều. Thứ ba, có 3 phương thức chiến tranh mới chưa từng có trong các cuộc chiến trước đó, tính từ năm 1945: 1- hai bên phóng tên lửa đạn đạo vô tội vạ vào các thành phố của nhau (nhưng Iraq phóng nhiều hơn hẳn); 2- Iraq sử dụng chủ yếu máy bay có người lái với tên lửa chống hạm để tấn công các tàu chở dầu từ các cảng của Iran; 3- Iran sử dụng thủy lôi, pháo hạm, tên lửa phóng từ bờ, và máy bay trực thăng để tấn công các tàu chở dầu xuất phát từ các cảng của các nước Arab hậu thuẫn cho Iraq.

Saddam Hussein đã tính toán lầm khi tấn công Iran: 1- Iran lúc đó là một đất nước vừa trải qua cách mạng Hồi giáo, chế độ chính trị của nước này đã được củng cố đầy khí thế bằng một cuộc chiến tranh “ái quốc” kéo dài. 2- Ở cấp chiến lược, lãnh thổ Iran có chiều sâu chiến lược mà Iraq khó có thể đâm xuyên bằng một cuộc xâm lược bất ngờ.
Do vậy, cho đến tận những tháng cuối cùng của cuộc chiến 8 năm này, Iraq đã bị đẩy vào thế phòng ngự chiến lược, phải đối mặt với các cuộc tấn công của Iran vào nơi này nơi kia, hết năm này qua năm khác.

Nước Iran cách mạng khi ấy gặp nhiều giới hạn về phương tiện tiến công chiến thuật. Khi đó Mỹ đã ngừng cung cấp hàng hóa cho quân đội Iran. Iran cũng mất các sĩ quan thời Quốc vương Iran – những sĩ quan này đã bị tống giam, giết hoặc đào tẩu ra nước ngoài (sau Cách mạng Hồi giáo 1979). Iran không thể khôi phục lực lượng thiết giáp và lực lượng không quân như trước đó. Các đơn vị lục quân và vệ binh Pasdaran của Iran chỉ có thể mở các cuộc tấn công bộ binh được hỗ trợ bằng hỏa lực pháo binh mạnh.

Iran tận dụng lợi thế tinh thần và dân số (40 triệu dân Iran so với 13 triệu dân Iraq). Mặc dù bộ binh Iran thỉnh thoảng có thể xâm nhập qua tuyến phòng ngự của Iraq, họ vẫn không thể tiến sâu vào trong lãnh thổ Iraq để giành chiến thắng quyết định.
 
Tháng 4/1988, Quân đội Iraq tập hợp lực lượng lớn mở hàng loạt các cuộc tấn công vào các địa bàn chiến lược của Iran. Đặc biệt họ đã sử dụng cả vũ khí hóa học nhắm vào các khu vực dân cư ở Iran.

Cuộc phòng thủ thần thánh của Iran

Chiến tranh Iran-Iraq từ năm 1980-1988 đã vĩnh viễn thay đổi tiến trình lịch sử của Iraq, gây căng thẳng về chính trị và xã hội cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của nước này.

Nhìn từ góc độ lịch sử, cuộc chiến năm 1980 thực ra chỉ là một giai đoạn khác của cuộc xung đột Arab-Ba Tư cổ đại và được thổi bùng lên bởi các tranh chấp biên giới trong thế kỷ 20. Nhiều nhà quan sát cho rằng quyết định đưa quân vào Iran của nhà lãnh đạo Iraq Saddam Hussein là một tính toán cá nhân sai lầm.

Ông Saddam Hussein lo sợ rằng lãnh đạo phong trào cách mạng mới của Iran sẽ đe dọa sự cân bằng mong manh giữa hai dòng Hồi giáo Sunni và Shiite ở Iraq, đồng thời lợi dụng những điểm yếu địa chiến lược của nước này.

Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Iran-Iraq tương đối rộng, bao gồm cả chia rẽ tôn giáo, tranh chấp biên giới và khác biệt về chính trị, nhưng trên hết Iraq đã phát động cuộc chiến nhằm củng cố quyền lực đang lên của mình trong thế giới Arab và để thay thế Iran trở thành nước thống trị vịnh Ba Tư.
 

Iran tiêu diệt Hải quân Iraq chỉ trong một ngày bằng 'Chiến dịch Ngọc trai'​

Chiến dịch Morvarid (tiếng Ba Tư nghĩa là “Ngọc trai”) là một trong những trận chiến không-hải quân khốc liệt nhất sau Thế chiến II, khi Iran tiêu diệt 80% sức mạnh Hải quân Iraq chỉ trong một ngày, chủ yếu bằng máy bay do Mỹ chế tạo.​

Chú thích ảnh
Máy bay F-14 Tomcat, cùng loại tham gia chiến dịch "Ngọc trai" của Iran.
Vào ngày 22/9/1980, nhà lãnh đạo Saddam Hussein đã đưa Iraq vào một cuộc tấn công toàn diện nhằm vào Iran - với hy vọng lợi dụng sự bất ổn của Iran sau cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979.

Khorramshahr và Abadan, hai thành phố cảng lớn của Iran nằm ở hạ lưu sông Shatt-al-Arab, ngay bên kia cảng xuất khẩu dầu lớn Basra của Iraq, là những mục tiêu ưu tiên. Sông Shatt-al-Arab chảy vào Vịnh Ba Tư cùng với những tuyến đường vận chuyển dầu quan trọng.

Các lực lượng Iraq được tăng cường bảo vệ hai giàn khoan dầu tại Mina al-Bakr (ngay nay là Al-Basrah Oilt Terminal) và Khor al-Omayah, cả hai đều ở mũi bán đảo al-Faw. Những radar cảnh báo sớm được trang bị phía trên giàn khoan giúp Không quân Iraq được cảnh báo kịp thời về các hoạt động của Không quân Iran. Chúng cũng hỗ trợ cho các cuộc tấn công tên lửa và tàu phóng lôi của Iraq nhằm vào tàu Iran.

Vì thế, nhiệm vụ của Hải quân Iran đã rõ ràng: hạ gục cả hai giàn khoan dầu.

Hải quân Iran đã giao sứ mạng này cho 3 trong số các tàu tên lửa lớp La Commandante, gồm Joshan, Gordouneh và Paykan. Những con tàu nhỏ nặng 265 tấn do Đức chế tạo này chỉ chở theo thuỷ thủ đoàn 13 người, di chuyển với vận tốc 65km/giờ. Mỗi chiếc được gắn một tháp pháo kép 76 ly đối đất và đối không, một pháo 40 ly bắn nhanh và hai bệ phóng tên lửa hai ray được trang bị tên lửa Harpoon do Mỹ sản xuất. Ngoài ra, hỏa lực phòng không bổ sung còn có các thuỷ thủ trên boong sử dụng tên lửa phòng không vác vai SA-7.

Chú thích ảnh
Tàu tấn công nhanh Joshan và Paykan của Iran.
Trận chiến quanh giếng dầu

Tuy nhiên, hai cuộc tấn công đầu tiên của đội tàu tấn công nhanh Iran nhằm vào các giàn khoan Iraq chỉ thành công ở mức độ vừa phải.

Trong Chiến dịch Kafka vào ngày 28/10/1980, tàu Paykan đảm bảo phòng không trong khi tàu Joshan bắn phá giàn khoan al-Omayah và Gordouneh tấn công giàn khoan al-Bakr. Các tàu tốc độ của Iran né được tên lửa chống hạm của Iraq bắn ở tầm xa quá mức và bắn hạ 3 máy bay chiến đấu Iraq, nhưng dù rất nhiều đạn pháo từ tàu Iran nã về phía các giàn khoan dầu, mà vẫn không thể khiến chúng ngừng hoạt động.

Ba ngày sau, một cuộc tấn công tiếp theo, được gọi là Chiến dịch Ashkan, cũng có kết quả tương tự. Dù bị hư hại, các giàn khoan và hệ thống radar quý báu của Iraq tỏ ra quá kiên cường trước những khẩu pháo của ba con tàu Iran.

Cuối tháng 11, pháo binh Iraq bắn phá kho dầu Abadan của Iran, làm giảm một nửa sản lượng nhiên liệu của nước này. Bị ảnh hưởng bởi khó khăn kinh tế, quân đội Iran nhận ra rằng Iraq thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn trước các cuộc tấn công nhằm vào kho dầu như vậy.

Nổi tiếng với những thành công trong khả năng chống đỡ trước các lực lượng trên không và trên biển của Iraq, Lục quân, Hải quân và Không quân Iran đã ấp ủ một kế hoạch tham vọng hơn, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ hơn.

Trong Chiến dịch Morvarid (nghĩa là “Ngọc trai” trong tiếng Ba Tư), họ không chỉ đặt mục tiêu loại bỏ các radar của Iraq mà còn cả cơ sở hạ tầng dầu mỏ quan trọng của Baghdad. Quân đội Iran cũng hy vọng sẽ tiêu diệt được Hải quân Iraq trong chiến dịch táo bạo này.

Chú thích ảnh
Máy bay F-4D Phantom II Không quân Iran, mang theo tên lửa AGM-65 Maverick chuẩn bị cho một sứ mạng chiến đấu. Ảnh: Topwar
Chiến dịch "Ngọc trai" - trận không hải chiến ác liệt

Chiến dịch “Ngọc trai” bắt đầu vào ngày 28/11/1980 với cuộc tấn công nghi binh của các máy bay phản lực F-5 và F-4 Iran vào căn cứ không quân Basra của Iraq, trong khi đội tàu tên lửa Joshan và Paykan tiếp tục bắn phá hai giàn khoan. Khi hai tàu tên lửa Osa II nặng 235 tấn của Iraq phóng tên lửa P-15 Termti ở tầm xa, các tàu Iran đã né tránh thành công rồi lập tức điều động đội tàu nhỏ trang bị tên lửa Harpoon đáng tin cậy hơn của họ.

Sau đó, vào rạng sáng ngày 29/11, loạt máy bay trực thăng Chinook của Iran lao nhanh về phía giàn khoan Iraq cùng với các trực thăng tấn công AH-1J Sea Cobra. Một máy bay tác chiến điện tử EC-130 bay trên đầu, gây nhiễu bất kỳ tín hiệu báo động nào.

Trong khi các phi công trực thăng chiến đấu Sea Cobra, trang bị kính nhìn đêm, bắn phá sàn giàn khoan với pháo 20 ly, thì lính biệt kích Iran đổ bộ xuống từ trực thăng Chinook, tấn công giàn khoan bằng hoả lực súng trường tấn công, giết chết hoặc bắt giữ toàn bộ lực lượng Iraq, và chỉ chịu thương vong 12 người.

Chú thích ảnh
Chiến đấu cơ F-5 của Iran trong chiến dịch "Ngọc trai". Ảnh: Topwar
Lực lượng biệt kích gài thuốc nổ khắp giàn khoan, sử dụng tên lửa vác vai tấn công hai máy bay phản lực Iran, rồi tẩu thoát bằng sáu thuỷ phi cơ tấn công đổ bộ trong lúc các giàn khoan Iraq nổ tứ tung trên bầu trời.

Vào thời điểm đó, các tàu tên lửa Osa của Hải quân Iraq và tàu phóng lôi P-6 dài 25 mét lao đến hiện trường, tìm cách trả thù cho tội ác phá huỷ giàn khoan. Ba tàu của Iran, dù gần hết đạn, đã cố gắng hết sức sử dụng các giàn khoan dầu vừa bị phá để che chắn trước hàng loạt tên lửa của Iraq.

Sau đó, mọi thứ trở nên rối ren trên không khi các phi đội máy bay ném bom chiến đấu hai động cơ MiG-23BN và máy bay đánh chặn MiG-23MF của Iraq lao vào trận chiến cùng với trực thăng hải quân Super Frelon do Pháp chế tạo được trang bị tên lửa Exocet.

Chú thích ảnh
Tàu tấn công nhanh Paykan của Iran (giữa) trong một cuộc diễn tập.
Tàu Paykan tránh được một số quả tên lửa trước khi hứng đòn nặng khi một quả tên lửa Termit nặng 2.500kg nổ ngay bên cạnh. Dù vậy, khẩu súng trên boong thuyền vẫn hạ gục được một chiếc Su-22 bay qua trên đầu. Paykan bắn đến quả tên lửa Harpoon cuối cùng và đánh chìm một thuyền Iraq khác, rồi mới chìm vì trúng tên lửa từ trực thăng địch.
Mặc dù vậy, Bộ Tư lệnh Hải quân Iran vẫn từ chối yêu cầu xin rút lui từ chỉ huy đội thuyền tên lửa. Đó là bởi vì nhiệm vụ của họ là hạ gục Hải quân Iraq đến mức lực lượng này không thể gượng dậy trước đòn phản công từ Không quân Iran.

Các máy bay phản lực Phantom nhào tới để giải cứu Paykan và nhanh chóng đánh chìm hai hoặc ba tàu phóng lôi P-6 của Iraq bằng tên lửa Maverick. Cuối ngày hôm đó, một hải đội Iraq từ Umm Qasr bao gồm một tàu đổ bộ và ba tàu tuần tra nhỏ cũng đã bị phá hủy bởi một cuộc tấn công khác của phi đội Phantom.

Một cuộc tấn công riêng biệt của F-4 Phantoms và F-5 Freedom Fighters thuộc Không quân Iran đã nhằm vào Basra, hạ gục các khẩu đội tên lửa đất đối không có thể cản trở cuộc tấn công trên không, đồng thời phá hủy thêm một số tàu thuyền và máy bay trực thăng Frelon đang đậu.

Nhưng những chiếc Phantom can thiệp quá muộn khi tàu tên lửa Paykan đã bị hư hại nặng. Trong lúc các máy bay MiG và trực thăng Iraq vây quanh nó, hai tàu tên lửa Osa của Iraq cuối cùng đã tiêu diệt được con tàu nhỏ thương tích đầy mình bằng 4 quả tên lửa Termit tầm ngắn.

Trong khi đó, một trận không chiến nổ ra giữa tiêm kích MiG – Iraq và Phantom – Iran, vốn được hỗ trợ bởi phi đội máy bay chiến đấu F-14 Tomcat tiên tiến trang bị radar AWG-9 mạnh mẽ.

Chú thích ảnh
Phi đội F-14 của Không quân Iran.
Hải quân Iraq gánh tổn thất nặng nề

Tuyên bố của hai bên về chiến công của họ rất khác nhau. Iran mất từ một đến ba chiếc Phantom trong các trận địa pháo và máy bay MiG. Khoảng sáu chiếc MiG-23 của Iraq bị phá hủy bởi cả Phantom và tàu tên lửa Iran, và một chiếc MiG bị bắn hạ bởi F-14 Tomcat.

Về phần mình, để đánh chìm tàu Paykan, Hải quân Iraq mất 5 tàu tên lửa Osa và 4 tàu phóng ngư lôi P6, tương đương khoảng 80% sức mạnh của họ. Hải quân Iraq sau đó không đóng vai trò gì nhiều trong thời gian còn lại của cuộc chiến, để mình Không quân Iraq mở các cuộc tấn công nhằm vào tàu vận tải biển của Iran.

Chú thích ảnh
Tranh cổ động của Iran cho Chiến dịch "Ngọc trai".
Đáng kể hơn nữa, việc mất các giàn khoan đã làm giảm sản lượng dầu của Iraq xuống chỉ còn 17% so với sản lượng trước chiến tranh: từ 3,25 triệu thùng/ngày xuống còn 550.000 thùng. Khi nhà lãnh đạo Saddam Hussein tìm mọi cách để xâm lược Iran, ông tiếp tục phải vay những khoản khổng lồ từ các quốc gia Arab láng giềng để mua một lượng lớn thiết bị quân sự phục vụ cuộc chiến.

Tám năm sau, chính Hải quân Iran đã chứng kiến phần lớn sức mạnh chiến đấu của mình bị phá hủy bởi Chiến dịch "Bọ ngựa" của Hải quân Mỹ trong một chiến dịch có nhiều nét tương đồng với chiến dịch “Ngọc trai”.

Các tàu mặt nước của Hải quân Mỹ đã bắn phá hai giàn khoan dầu của Iran được sử dụng làm căn cứ quân sự và radar; cả hai đều bị đặc nhiệm Mỹ nhảy từ trực thăng xuống phá huỷ, sau đó không quân Mỹ đánh chìm phần lớn sức mạnh của Hải quân Iran — bao gồm cả tàu Joshan thiện chiến
 

Vai trò sống còn của: Vị cứu tinh F-14 mua từ Mỹ cùng các phi công Top Gun​

Điều gì tạo nên sức mạnh phi đội F-14 của Iran? (Ảnh: Military Watch Magazine)

Điều gì tạo nên sức mạnh phi đội F-14 của Iran? (Ảnh: Military Watch Magazine
Giáp với Liên Xô ở phía đông và các quốc gia Ả Rập theo chủ nghĩa dân tộc liên kết với Liên Xô ở phía tây, và làm giàu nhờ giá dầu tăng vọt trong những năm 1970, Iran nổi lên như một khách hàng hàng đầu cho các loại vũ khí tối tân của Mỹ và Anh trong suốt thập kỷ đó. Điều này không chỉ mang lại lợi ích lớn cho các ngành công nghiệp quốc phòng phương Tây, mà còn gây thêm áp lực lên hệ thống phòng thủ của các đối thủ NATO khi khả năng tấn công của Iran đã tăng lên đáng kể.
Có nhiều yếu tố tạo nên sức mạnh quân sự của Iran, từ phi đội máy bay chở dầu tiên tiến để tiếp nhiên liệu trên không cho đến các đơn vị xe tăng Chieftain đông hơn của quân đội Anh, nhưng có lẽ tài sản đáng chú ý nhất mà Iran đưa vào thực địa là máy bay chiến đấu hạng nặng F-14 Tomcat.
F-14 là dòng máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư đầu tiên được đưa vào phục vụ ở nhiều nơi trên thế giới và là máy bay đầu tiên thuộc thế hệ của nó từng được xuất khẩu, trong đó Iran là khách hàng duy nhất do chi phí quá vận hành cực cao. F-14 cho đến nay là máy bay chiến đấu lớn nhất và nặng nhất trên thế giới, và sẽ vẫn giữ được vị trí đó trong vài thập kỷ, điều này cho phép nó giữ được tầm bay xa hơn nhiều và mang theo các cảm biến và tên lửa lớn, đem đến cho máy bay khả năng chiến đấu vượt trội. F-14 có chi phí vận hành rất cao, không có lực lượng không quân nào khác ngoài Iran sẵn sàng chi trả. Ngay đến cả Anh cũng không đủ khả năng chi trả và thậm chí Mỹ cũng chỉ sử dụng F-15 một biến thể nhỏ hơn và rẻ hơn nhiều so với F-14.

Máy bay chiến đấu F-14 và F-15 (Ảnh: Military Watch Magazine)
Máy bay chiến đấu F-14 và F-15 (Ảnh: Military Watch Magazine)

Việc cung cấp F-14 khiến Iran trở thành nhà khai thác thứ hai của máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư sau Quân đội Mỹ. Hải quân Mỹ được trang bị F-14 từ năm 1974 và Không quân thì được trang bị F-15. Lợi thế về năng lực của F-14 so với các đối thủ chủ yếu tập trung vào bộ cảm biến và tên lửa của nó, trong đó chỉ có MiG-31 của Liên Xô được đưa vào hoạt động năm 1981 được coi là đối trọng duy nhất.
Tên lửa AIM-54 Phoenix được trang bị trên F-14 là loại tên lửa duy nhất trên thế giới có khả năng 'bắn và quên' nhờ khả năng dẫn đường bằng radar chủ động, kết hợp với đầu đạn cực lớn, tốc độ Mach 5 và tầm bắn cực xa 190 km. Tên lửa AIM-54 Phoenix có trọng lượng rất nặng, vì vậy nó không thể trang bị trên các dòng máy bay khác, tuy nhiên F-14 lại thiếu các cảm biến đủ mạnh để sử dụng loại tên lửa này một cách hiệu quả.
Để làm rõ sức mạnh của AIM-54, chúng ta có thể so sánh với tên lửa AIM-7 của F-15. Tên lửa AIM-7 cần được dẫn đường trong suốt hành trình của nó bằng radar của máy bay chiến đấu do hệ thống dẫn đường kém hơn và chỉ có thể tác chiến trong phạm vi 70 km. Với 79 chiếc F-14 được phân chia giữa hai đơn vị đóng tại Esfahan và Shiraz, không có nghi ngờ gì về việc Không quân Iran sở hữu một lớp máy bay chiến đấu có năng lực hơn bất kỳ lực lượng không quân nào trên thế giới.

Máy bay chiến đấu F-14 phóng tên lửa AIM-54 (Ảnh: Military Watch Magazine)
Máy bay chiến đấu F-14 phóng tên lửa AIM-54 (Ảnh: Military Watch Magazine)

Phi đội F-14 của Iran đã thể hiện khả năng tối tân của mình trong Chiến tranh Iran-Iraq từ 1980-1988, khi các máy bay phản lực trở thành mục tiêu ưu tiên cho các cuộc tấn công của Iraq trong cuộc chiến.
Máy bay ném bom Tu-16 của Iraq, không được thiết kế để ném bom ở độ cao thấp, nhắm mục tiêu vào Sân bay Esfahan có 39 chiếc F-14 nhưng không phá hủy được bất kỳ đường băng nào hoặc bất kỳ máy bay chiến đấu nào, trong khi 4 chiếc Tu-22 tầm xa hơn của Iraq đã tấn công căn cứ không quân Shiraz, nơi những chiếc F-14 còn lại đang đỗ, nhưng cũng không phá hủy được bất cứ chiếc nào.
Mặc dù các lực lượng Iran bị áp đảo trên bộ bởi các xe tăng do Liên Xô cung cấp của Iraq và trên không, các máy bay chiến đấu F-4 và F-5 cũ hơn của họ đã thất bại trong các cuộc giao tranh ban đầu trước MiG-21 của Iraq, nhưng việc triển khai F-14 mang lại một sự thúc đẩy rất cần thiết. Lần tiêu diệt máy bay địch đầu tiên của F-14 là vào ngày ngày 10/9/1980 khi sử dụng tên lửa AIM-54 để vô hiệu hóa máy bay chiến đấu tấn công Su-22 của Iraq. Điều này gây bất ngờ cho Quân đội Iraq vốn đánh giá những chiếc F-14 là đã hết hạn sử dụng.
Trong cuộc giao tranh đầu tiên giữa MiG-25 và F-14 vào ngày 15/2/1982, cả hai đều hư hỏng nhưng không thể sửa chữa được, các khả năng độc đáo của AIM-54 kết hợp với các cảm biến của F-14 đã khiến nó trở thành máy bay chiến đấu duy nhất trên thế giới có khả năng vô hiệu hóa tiêm kích MiG-25, ước tính đã có khoảng 6 chiếc bị bắn rơi trong cuộc chiến giữa Iran và Iraq.

Máy bay chiến đấu F-14 của Không quân Iran (Ảnh: Military Watch Magazine)
Máy bay chiến đấu F-14 của Không quân Iran (Ảnh: Military Watch Magazine)

Bất chấp nhu cầu bảo dưỡng khắc nghiệt của F-14 và tỷ lệ sẵn sàng thấp, những chiếc F-14 đã tiêu diệt được số lượng máy bay chiến đấu của Iraq nhiều hơn tất cả các loại khí tài của Iran cộng lại - ước tính khoảng 140 lần tiêu diệt trong các cuộc không chiến. Khả năng chịu đựng cao của máy bay này cũng cho phép nó hộ tống các máy bay F-4 và máy bay tiếp dầu thực hiện các nhiệm vụ tấn công sâu vào không phận Iraq mà không cần tự tiếp nhiên liệu, trong khi tất cả các máy bay Iraq trừ MiG-25 đều chịu tổn thất nặng nề trước nó.
MiG-23 của Liên Xô và Mirage F1 của Pháp đã chịu tổn thất nặng nề trước sức tấn công của F-14 trong cuộc chiến Iran-Iraq. Tuy nhiên, MiG-23ML của Iraq vẫn chứng tỏ được khả năng khi đối đầu với F-14. Các máy bay MiG-23 đã bắn hạ F-14 vào ngày 11/8/1984, ngày 2/9/1986 và có thể vào ngày 17/1/1987 mặc dù một số nguồn tin cho rằng tổn thất này là do một chiếc MIG-25. Việc Iraq triển khai máy bay phản lực tấn công điện tử MiG-25BM với số lượng hạn chế trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến đã cung cấp cho nước này khả năng tấn công vào các mục tiêu quan trọng của Iran.
Cuối cùng, F-14 vẫn là tài sản nổi bật nhất của Iran trong suốt Chiến tranh Iran-Iraq, và do không có các thương vụ mua lại sau đó, nó vẫn là máy bay chiến đấu hàng đầu của Không quân Iran cho đến ngày nay. Mặc dù đã có những nâng cấp đáng kể bao gồm phát triển các phiên bản ưu việt hơn cho tên lửa AIM-54, vị thế của F-14 trên thế giới đã bị suy giảm do tuổi đời của nó.
 

Có thể bạn quan tâm

Top