Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Iraq coi cuộc cách mạng Hồi giáo Iran là mối đe dọa với họ. Ông Ayatollah Khomeini, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979, vốn “ngậm trái đắng” sau khi bị trục xuất khỏi Iraq năm 1977 sau 15 năm sống ở An Najaf, đã thề trả thù cho các nạn nhân người Shiite sống dưới chế độ đàn áp của đảng Baath cầm quyền ở Iraq.
Tuy nhiên, Iraq tự tin hơn trước chiến dịch quân sự chống Iran khi Iran gặp nhiều vấn đề: quân đội tan rã, phần lớn quan chức cấp cao nhất đều bị hành quyết; bạo loạn do tranh chấp lao động do chính tình báo Iraq kích động, phong trào nổi dậy ở khu vực người Kurd. Iran thời điểm đó không chỉ thiếu sự lãnh đạo mà lực lượng vũ trang Iran còn thiếu phụ tùng thay thế cho các trang thiết bị quân sự do Mỹ sản xuất.
Các vấn đề này khiến chính phủ của ông Khomeini lâm vào thách thức nghiêm trọng. Trái lại, lúc đó, người Iraq có thể huy động tới 12 sư đoàn vũ trang đầy đủ những vũ khí tân tiến nhất của Liên Xô. Quân đội Iraq có 190.000 binh sĩ, 2.200 xe tăng và 450 máy bay. Thêm nữa, khu vực bên kia sông Arvand-Roud cũng không gây trở ngại gì lớn cho Iran. Quân đội Iraq lại còn có trang thiết bị vượt sông của Liên Xô.
Các tướng lĩnh Iraq cho rằng khu vực Iran ở bên kia sông Kharkheh và Karoun chỉ được phòng thủ mỏng, không thể đối chọi với các sư đoàn thiết giáp vũ trang tận răng của Iraq. Tình báo Iraq cũng cho biết lực lượng Iran ở Khoizestan trước đây gồm hai sư đoàn nằm ở Ahvaz và Abadan giờ chỉ còn là những đội hình nhỏ cỡ tiểu đoàn, trang bị mỏng. Điều duy nhất người Iraq không chắc chắn là khả năng chiến đấu của không quân Iran vốn có những máy bay tinh vi nhất do Mỹ chế tạo.
Về phần mình, lãnh đạo Ayatollah Ruhollah Khomeini cho rằng người Hồi giáo dòng Shiite ở Iraq, Saudi Arabia và Kuwait có thể đi theo con đường của người Iran là nổi dậy lật đổ chính phủ và cùng lập ra một quốc gia Hồi giáo thống nhất. Ông Khomeini và những nhà cách mạng Hồi giáo Iran khác coi chủ nghĩa thế tục của ông Saddam là “phi Hồi giáo”, là “con rối của quỷ Satan”, đồng thời kêu gọi người Iraq lật đổ chế độ của ông Saddam Hussein.
Từ tháng 3/1980, quan hệ giữa hai nước đi xuống nghiêm trọng. Iran đơn phương giáng cấp quan hệ ngoại giao xuống mức đại biện, rút đại sứ về nước và yêu cầu phía Iraq có hành động tương ứng.
Căng thẳng dâng cao vào tháng 4/1980, khi xảy ra vụ ám sát hụt Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Iraq Tariq Aziz và 3 ngày sau là vụ đánh bom nhằm vào đoàn tang lễ trên đường đến nghĩa trang mai táng những sinh viên thiệt mạng trong vụ tấn công trước đó. Iraq đổ lỗi cho Iran đứng sau các vụ việc trên.
Ngày 17/9/1980, trong một bài phát biểu trước quốc hội, ông Saddam Hussein nói: “Những hành động thường xuyên và rõ ràng của Iran vi phạm chủ quyền của Iraq… đã khiến cho Hiệp định Algiers 1975 không còn giá trị… Dòng sông Shatt al-Arab phải được trả lại cái tên Arab mà nó đã mang suốt chiều dài lịch sử và Iraq phải được trả lại toàn bộ các quyền chủ quyền đối với dòng sông”.
Chiến tranh Iraq - Iran là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến
Ngày 22/9/1980, Iraq đã mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran. Ngày 22/9/1980, một phi đội MiG-23 và MiG-21 của Iraq đã tấn công căn cứ không quân của Iran. Mục đích của họ là phá hủy lực lượng không quân của Iran ngay từ trên mặt đất. Iraq đã phá hủy đường băng, kho nhiên liệu và đạn dược, nhưng phần lớn máy bay của Iran vẫn nguyên vẹn.
Nguyên nhân là máy bay của Iran đều được bảo vệ trong các nhà chứa máy bay được gia cố đặc biệt. Chỉ trong vài giờ, máy bay F-4 Phantom của Iran đã cất cánh từ các căn cứ bị không kích, tấn công đáp trả thành công các mục tiêu chiến lược quan trọng gần các thành phố lớn của Iraq, và trở về hầu như không tổn thất gì.
Cùng thời điểm không kích các sân bay của Iran, 6 sư đoàn của Iraq đã xâm nhập vào Iran theo 3 mũi trong một cuộc tấn công bất ngờ. Iraq đã thành công bước đầu khi tiến sâu vào trong lãnh thổ Iran 8 km và chiếm được một khu vực 1.000 km2 của Iran.
Nhằm nghi binh trên mặt trận phía bắc, một sư đoàn bộ binh sơn cước cơ giới hoạt động tại vùng núi Iraq đã tràn san tấn công các đơn vị đồn trú ở Qasr-e Shirin và chiếm đóng một khu vực trải dài 30 km về hướng đông đến chân núi Zagros.
Khu vực này có ý nghĩa quan trọng chiến lược bởi vì các đường cao tốc chính nối Baghdad-Tehran đi qua đây. Ở mũi tấn công trung tâm, quân đội Iraq chiếm đóng Mehran, khu vực đồng bằng phía tây của dãy núi Zagros tại tỉnh Ilam, đồng thời tiến về phía đông đến chân núi.
Mehran là một vị trí quan trọng trên con đường chính từ bắc vào nam, gần biên giới phía Iran. Mũi tấn công chính là ở phía nam, nơi mà 5 sư đoàn thiết giáp và cơ giới đánh chiếm Khouzestan theo hai hướng, một hướng vượt qua sông Arvand-roud gần Basra, bao vây và cuối cùng là chiếm đóng Khorramshahr, còn hướng thứ hai nhằm vào Sousangerd là có Ahvaz-căn cứ quân sự chính yếu ở Khouzestan.
Trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, xương sống của Không quân Iran (IRIAF) thời điểm đó chính là các máy bay F-14 Tomcat mà Iran vẫn đang còn sử dụng cho tới tận ngày nay.
Được mua từ trước khi bùng phát cuộc Cách mạng Hồi giáo, Không quân Iran sở hữu hàng chục chiếc tiêm kích hai ghế ngồi, giúp họ có lợi thế lớn trong cuộc chiến trên không với nước láng giềng Iraq.
Tuy nhiên, ưu điểm về công nghệ thì cũng chỉ dừng ở đó. Chính kỹ năng tuyệt hảo của các phi công Iran mới giúp IRIAF tiêu diệt được 3 mục tiêu đối phương chỉ bằng một quả tên lửa.
Người Iran thực sự rất xuất sắc đằng sau cần lái máy bay Tomcat. Lịch sử đã cho thấy, điểm thi cao nhất giành danh hiệu phi công đẳng cập (Ace) với tiêm kích Tomcat thuộc về người Iran mang tên Jalil Zandi. Theo ghi nhận của Không quân Mỹ, Zandi từng lập kỷ lục bắn hạ 11 mục tiêu bằng F-14 - một thành tích đáng kinh ngạc với bất cứ phi công chiến đấu nào. Tất nhiên, trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, Zandi đã được hỗ trợ rất tốt từ các phi công đồng nghiệp trong việc giữ cho bầu trời Iran sạch bóng máy bay Iraq.
Đây chính là cảm hứng Marverik - Tom Cruise trong Top Gun.

Các phi công Iran bên chiếc tiêm kích F-14
Vào thời điểm cuối năm 1981, cuộc chiến tranh Iran-Iraq vẫn đang ở thế bế tắc và các trận chiến dưới mặt đất diễn ra rất khốc liệt. Iraq xâm lược Iran năm 1980 vì nhiều lý do khác nhau nhưng chủ yếu là giành lợi thế từ bất ổn sau sự sụp đổ của đế chế Shah, đồng thời không để cho cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran lan sang các quốc gia láng giềng.
Trước khi bộ binh Iraq tràn qua biên giới, các lực lượng không quân của Tổng thống Saddam Hussein tìm mọi cách hủy diệt không quân Iran ngay từ khi họ vẫn đang còn ở dưới mặt đất.
[COLOR=rgba(79, 50, 28, 0.9)]
Máy bay F-14 Tomcat của Iran mang tên lửa Phoenix cứu nguy cả quốc gia Iran
Trong những ngày đầu mở màn cuộc chiến, Tomcat đã gây thiệt hại nặng nề cho Không quân Iraq, bắn hạ cả máy bay tiêm kích và máy bay ném bom. Vũ khí sát thủ nhất của Tomcat - tên lửa Phoenix trang bị đầu đạn nổ công phá lớn, mạnh hơn các loại tên lửa chống máy bay khác cùng thời.
Chúng được thiết kế để tiêu diệt các máy bay ném bom Tupolev của Liên Xô, loại mà khi đó Iraq sử dụng để bay trên bầu trời Tehran.
Đến năm 1981 khi cuộc chiến dưới mặt đất bước vào giai đoạn kịch tính thì cuộc chiến trên không cũng vô cùng ác liệt. Trong thế đối đầu này, Tomcat đã mang lại cho Iran một lợi thế quyết định.
Chỉ cần một chiếc F-14 duy nhất xuất hiện trong khu vực cũng đủ khiến các phi công Iraq phải tản ra và quay đầu trở về căn cứ. Những gì xảy ra vào ngày 7/1/1981 là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều này.
Phi công Iran Asadullah Adeli cùng sĩ quan radar Mohammed Masbough nhận được thông tin về các máy bay không xác định danh tính đang tiến về phía đảo Kharg trên Vịnh Péc-xích và họ được lệnh hành động.
Tomcat xác định kẻ xâm phạm là 3 chiếc MiG-23của Iraq, khi đó được nhận định là đang bay về hướng một giàn khoan gần đảo Kharg. Radar mặt đất của Iran không thể quan sát thấy cả 3 chiếc MiG-23 nhưng Adeli và Masbough được chỉ thị tấn công những chiếc MiG đột nhập này bằng mọi giá.
Masbough đề nghị Adeli tiêu diệt chiếc ở giữa, chỉ với hy vọng sẽ làm hư hại được 2 chiếc kia khi tên lửa phát nổ. Mọi việc diễn ra gần như thế. Đạn tên lửa Phoenix do Mỹ chế tạo mạnh tới mức nó tiêu diệt cả 3 máy bay. Xác của cả 3 chiếc máy bay MiG được tìm thấy trên đảo Kharg vào ngày hôm sau.

Tuy nhiên, Iraq tự tin hơn trước chiến dịch quân sự chống Iran khi Iran gặp nhiều vấn đề: quân đội tan rã, phần lớn quan chức cấp cao nhất đều bị hành quyết; bạo loạn do tranh chấp lao động do chính tình báo Iraq kích động, phong trào nổi dậy ở khu vực người Kurd. Iran thời điểm đó không chỉ thiếu sự lãnh đạo mà lực lượng vũ trang Iran còn thiếu phụ tùng thay thế cho các trang thiết bị quân sự do Mỹ sản xuất.
Các vấn đề này khiến chính phủ của ông Khomeini lâm vào thách thức nghiêm trọng. Trái lại, lúc đó, người Iraq có thể huy động tới 12 sư đoàn vũ trang đầy đủ những vũ khí tân tiến nhất của Liên Xô. Quân đội Iraq có 190.000 binh sĩ, 2.200 xe tăng và 450 máy bay. Thêm nữa, khu vực bên kia sông Arvand-Roud cũng không gây trở ngại gì lớn cho Iran. Quân đội Iraq lại còn có trang thiết bị vượt sông của Liên Xô.
Các tướng lĩnh Iraq cho rằng khu vực Iran ở bên kia sông Kharkheh và Karoun chỉ được phòng thủ mỏng, không thể đối chọi với các sư đoàn thiết giáp vũ trang tận răng của Iraq. Tình báo Iraq cũng cho biết lực lượng Iran ở Khoizestan trước đây gồm hai sư đoàn nằm ở Ahvaz và Abadan giờ chỉ còn là những đội hình nhỏ cỡ tiểu đoàn, trang bị mỏng. Điều duy nhất người Iraq không chắc chắn là khả năng chiến đấu của không quân Iran vốn có những máy bay tinh vi nhất do Mỹ chế tạo.
Về phần mình, lãnh đạo Ayatollah Ruhollah Khomeini cho rằng người Hồi giáo dòng Shiite ở Iraq, Saudi Arabia và Kuwait có thể đi theo con đường của người Iran là nổi dậy lật đổ chính phủ và cùng lập ra một quốc gia Hồi giáo thống nhất. Ông Khomeini và những nhà cách mạng Hồi giáo Iran khác coi chủ nghĩa thế tục của ông Saddam là “phi Hồi giáo”, là “con rối của quỷ Satan”, đồng thời kêu gọi người Iraq lật đổ chế độ của ông Saddam Hussein.
Từ tháng 3/1980, quan hệ giữa hai nước đi xuống nghiêm trọng. Iran đơn phương giáng cấp quan hệ ngoại giao xuống mức đại biện, rút đại sứ về nước và yêu cầu phía Iraq có hành động tương ứng.
Căng thẳng dâng cao vào tháng 4/1980, khi xảy ra vụ ám sát hụt Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Iraq Tariq Aziz và 3 ngày sau là vụ đánh bom nhằm vào đoàn tang lễ trên đường đến nghĩa trang mai táng những sinh viên thiệt mạng trong vụ tấn công trước đó. Iraq đổ lỗi cho Iran đứng sau các vụ việc trên.

Ngày 17/9/1980, trong một bài phát biểu trước quốc hội, ông Saddam Hussein nói: “Những hành động thường xuyên và rõ ràng của Iran vi phạm chủ quyền của Iraq… đã khiến cho Hiệp định Algiers 1975 không còn giá trị… Dòng sông Shatt al-Arab phải được trả lại cái tên Arab mà nó đã mang suốt chiều dài lịch sử và Iraq phải được trả lại toàn bộ các quyền chủ quyền đối với dòng sông”.

Chiến tranh Iraq - Iran là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến
Ngày 22/9/1980, Iraq đã mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran. Ngày 22/9/1980, một phi đội MiG-23 và MiG-21 của Iraq đã tấn công căn cứ không quân của Iran. Mục đích của họ là phá hủy lực lượng không quân của Iran ngay từ trên mặt đất. Iraq đã phá hủy đường băng, kho nhiên liệu và đạn dược, nhưng phần lớn máy bay của Iran vẫn nguyên vẹn.
Nguyên nhân là máy bay của Iran đều được bảo vệ trong các nhà chứa máy bay được gia cố đặc biệt. Chỉ trong vài giờ, máy bay F-4 Phantom của Iran đã cất cánh từ các căn cứ bị không kích, tấn công đáp trả thành công các mục tiêu chiến lược quan trọng gần các thành phố lớn của Iraq, và trở về hầu như không tổn thất gì.
Cùng thời điểm không kích các sân bay của Iran, 6 sư đoàn của Iraq đã xâm nhập vào Iran theo 3 mũi trong một cuộc tấn công bất ngờ. Iraq đã thành công bước đầu khi tiến sâu vào trong lãnh thổ Iran 8 km và chiếm được một khu vực 1.000 km2 của Iran.
Nhằm nghi binh trên mặt trận phía bắc, một sư đoàn bộ binh sơn cước cơ giới hoạt động tại vùng núi Iraq đã tràn san tấn công các đơn vị đồn trú ở Qasr-e Shirin và chiếm đóng một khu vực trải dài 30 km về hướng đông đến chân núi Zagros.
Khu vực này có ý nghĩa quan trọng chiến lược bởi vì các đường cao tốc chính nối Baghdad-Tehran đi qua đây. Ở mũi tấn công trung tâm, quân đội Iraq chiếm đóng Mehran, khu vực đồng bằng phía tây của dãy núi Zagros tại tỉnh Ilam, đồng thời tiến về phía đông đến chân núi.
Mehran là một vị trí quan trọng trên con đường chính từ bắc vào nam, gần biên giới phía Iran. Mũi tấn công chính là ở phía nam, nơi mà 5 sư đoàn thiết giáp và cơ giới đánh chiếm Khouzestan theo hai hướng, một hướng vượt qua sông Arvand-roud gần Basra, bao vây và cuối cùng là chiếm đóng Khorramshahr, còn hướng thứ hai nhằm vào Sousangerd là có Ahvaz-căn cứ quân sự chính yếu ở Khouzestan.
Trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, xương sống của Không quân Iran (IRIAF) thời điểm đó chính là các máy bay F-14 Tomcat mà Iran vẫn đang còn sử dụng cho tới tận ngày nay.
Được mua từ trước khi bùng phát cuộc Cách mạng Hồi giáo, Không quân Iran sở hữu hàng chục chiếc tiêm kích hai ghế ngồi, giúp họ có lợi thế lớn trong cuộc chiến trên không với nước láng giềng Iraq.
Tuy nhiên, ưu điểm về công nghệ thì cũng chỉ dừng ở đó. Chính kỹ năng tuyệt hảo của các phi công Iran mới giúp IRIAF tiêu diệt được 3 mục tiêu đối phương chỉ bằng một quả tên lửa.
Người Iran thực sự rất xuất sắc đằng sau cần lái máy bay Tomcat. Lịch sử đã cho thấy, điểm thi cao nhất giành danh hiệu phi công đẳng cập (Ace) với tiêm kích Tomcat thuộc về người Iran mang tên Jalil Zandi. Theo ghi nhận của Không quân Mỹ, Zandi từng lập kỷ lục bắn hạ 11 mục tiêu bằng F-14 - một thành tích đáng kinh ngạc với bất cứ phi công chiến đấu nào. Tất nhiên, trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, Zandi đã được hỗ trợ rất tốt từ các phi công đồng nghiệp trong việc giữ cho bầu trời Iran sạch bóng máy bay Iraq.
Đây chính là cảm hứng Marverik - Tom Cruise trong Top Gun.

Các phi công Iran bên chiếc tiêm kích F-14
Vào thời điểm cuối năm 1981, cuộc chiến tranh Iran-Iraq vẫn đang ở thế bế tắc và các trận chiến dưới mặt đất diễn ra rất khốc liệt. Iraq xâm lược Iran năm 1980 vì nhiều lý do khác nhau nhưng chủ yếu là giành lợi thế từ bất ổn sau sự sụp đổ của đế chế Shah, đồng thời không để cho cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran lan sang các quốc gia láng giềng.
Trước khi bộ binh Iraq tràn qua biên giới, các lực lượng không quân của Tổng thống Saddam Hussein tìm mọi cách hủy diệt không quân Iran ngay từ khi họ vẫn đang còn ở dưới mặt đất.
[COLOR=rgba(79, 50, 28, 0.9)]

Máy bay F-14 Tomcat của Iran mang tên lửa Phoenix cứu nguy cả quốc gia Iran
Trong những ngày đầu mở màn cuộc chiến, Tomcat đã gây thiệt hại nặng nề cho Không quân Iraq, bắn hạ cả máy bay tiêm kích và máy bay ném bom. Vũ khí sát thủ nhất của Tomcat - tên lửa Phoenix trang bị đầu đạn nổ công phá lớn, mạnh hơn các loại tên lửa chống máy bay khác cùng thời.
Chúng được thiết kế để tiêu diệt các máy bay ném bom Tupolev của Liên Xô, loại mà khi đó Iraq sử dụng để bay trên bầu trời Tehran.
Đến năm 1981 khi cuộc chiến dưới mặt đất bước vào giai đoạn kịch tính thì cuộc chiến trên không cũng vô cùng ác liệt. Trong thế đối đầu này, Tomcat đã mang lại cho Iran một lợi thế quyết định.
Chỉ cần một chiếc F-14 duy nhất xuất hiện trong khu vực cũng đủ khiến các phi công Iraq phải tản ra và quay đầu trở về căn cứ. Những gì xảy ra vào ngày 7/1/1981 là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều này.
Phi công Iran Asadullah Adeli cùng sĩ quan radar Mohammed Masbough nhận được thông tin về các máy bay không xác định danh tính đang tiến về phía đảo Kharg trên Vịnh Péc-xích và họ được lệnh hành động.
Tomcat xác định kẻ xâm phạm là 3 chiếc MiG-23của Iraq, khi đó được nhận định là đang bay về hướng một giàn khoan gần đảo Kharg. Radar mặt đất của Iran không thể quan sát thấy cả 3 chiếc MiG-23 nhưng Adeli và Masbough được chỉ thị tấn công những chiếc MiG đột nhập này bằng mọi giá.
Masbough đề nghị Adeli tiêu diệt chiếc ở giữa, chỉ với hy vọng sẽ làm hư hại được 2 chiếc kia khi tên lửa phát nổ. Mọi việc diễn ra gần như thế. Đạn tên lửa Phoenix do Mỹ chế tạo mạnh tới mức nó tiêu diệt cả 3 máy bay. Xác của cả 3 chiếc máy bay MiG được tìm thấy trên đảo Kharg vào ngày hôm sau.