Đại chiến Thanh - Nhật so sánh và diễn tiến

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 1.

Vào cuối thế kỷ 19, vũ khí của quân triều đình nhà Thanh không hề kém cạnh quân đội các nhiệm vụ phương Tây; thậm chí trong chiến tranh Trung-Nhật, vũ khí của quân Thanh thậm chí còn tốt hơn cả quân đội Nhật Bản khi đó. Ảnh: Quân đội nhà Thanh

Vào cuối thế kỷ 19, vũ khí của quân triều đình nhà Thanh không hề kém cạnh quân đội các nhiệm vụ phương Tây; thậm chí trong chiến tranh Trung-Nhật, vũ khí của quân Thanh thậm chí còn tốt hơn cả quân đội Nhật Bản khi đó. Ảnh: Quân đội nhà Thanh

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 2.

Trong tài liệu của Bộ tham mưu liên quân của Mỹ khi đó đánh giá, sức mạnh quân sự của Quân đội Nhà Thanh đứng trong top ba thế giới, các quan đại thần nhà Thanh cũng tự hào về điều đó, từng viết trong bia kỷ niệm: "Thời nhà Thanh có rất nhiều súng ống hiện đại". Ảnh: Hải quân nhà Thanh trên tàu chiến Haiqi, tất cả đều dùng súng trường Mauser -

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 3.

Trước Chiến tranh Trung-Nhật 1894-1895, quân Thanh đã cơ bản hoàn thành việc hiện đại hóa quân đội; trừ các tiểu đoàn địa phương, trang bị vũ khí cho quân chính quy đều là loại hiện đại và được trang bị với số lượng lớn, sánh ngang với các đế quốc châu Âu lúc bấy giờ. Ảnh: Đội nghi lễ Quân đội nhà Thanh
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 4.

Đặc biệt nhà Thanh rất quan tâm đến vũ khí tối tân của nước ngoài; năm 1874, Lý Hồng Chương (1823-1901, là một nhà chính trị, quân sự, ngoại giao nổi tiếng của triều đình nhà Thanh) đã mua hàng chục khẩu súng máy đa nòng Gatling, thứ được coi vũ khí giết người hàng loạt khi đó. Ảnh: Súng máy Gatling
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 5.

Vào năm 1884, Cục máy móc Kim Lăng của triều đình nhà Thanh bắt đầu "sao chép" súng máy Gatling, và trang bị rộng cho quân đội nước này. Điều thú vị là những món đồ nhái này đã được cải tiến với những đặc điểm rất riêng của Trung Quốc. Ảnh: Quân đội nhà Thanh với thử nghiệm súng máy Gatling

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 6.

Súng máy Gatling do Trung Quốc sản xuất được gắn trên xe cút kít (hiện thường gọi là xe rùa) độc nhất vô nhị, nên một người có thể vận chuyển nó; đây có thể được mô tả là người đi tiên phong trong việc chế vũ khí "nhái" của Trung Quốc. Ảnh: Súng máy Gatling được Trung Quốc sao chép từ phương Tây
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 7.

Ngoài ra Cục sản xuất Jinling cũng đã sản xuất "nhái" một loại vũ khí nhiều nòng, loại súng này từng bị nhiều người nhầm lẫn với súng Gatling, nhưng thực chất là một khẩu hỏa lực trung đội Montigny 37 nòng, không phải súng Gatling, thậm chí không thể được coi là một khẩu súng máy thực sự. Ảnh: Khẩu Montigny 37

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 9.

Để nhanh chóng thay đổi các loại vũ khí "năm cha - ba mẹ" trong Quân đội nhà Thanh khi đó, Lý Hồng Chương đã chỉ đạo Cục chế tạo Giang Nam kết hợp thiết kế của 2 mẫu súng trường Manlyxia và Mauser, để cho ra đời loại súng trường Quieli của Trung Quốc. Ảnh: Quân đội nhà Thanh với súng trường Mauser 1871
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 14.

Ngoài ra, quân Thanh còn được trang bị nhiều mẫu súng đòn bẩy Winchester 1866, còn được gọi là súng bắn nhanh bảy viên. Đặc điểm nổi bật nhất của súng trường Winchester 1866 là nguyên lý hoạt động của súng đòn bẩy. Trong thời đại mà nhiều quân đội vẫn đang sử dụng súng trường nạp đạn viên một, khẩu Winchester đã là "hỏa lực bán tự động."
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 10.

Quieli là loại súng trường sử dụng đạn dùng thuốc súng không khói đầu tiên ở Trung Quốc, có băng đạn và có thể nạp nhanh. Tổng cộng đã có hơn hơn 11.600 khẩu Quieli đã được sản xuất và trang bị cho Quân đội nhà Thanh. Ảnh: Súng trường Quili được sao chép từ khẩu Manrexia

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 11.

Không chỉ có súng trường Mauser, súng trường Remington của Mỹ khi đó cũng được Quân đội nhà Thanh trang bị. Khẩu Remington bắt đầu được sản xuất vào năm 1867 và kéo dài đến năm 1918. Đây là loại súng nạp đạn viên một, với độ chính xác, hoạt động tương đối tin cậy. Ảnh: Súng trường Remington 1867

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 12.

Rất nhanh chóng, Cục sản xuất Thượng Hải bắt đầu sản xuất nhái khẩu Remington từ năm 1873, đến năm 1889 đã sản xuất hơn một triệu khẩu. Tuy nhiên súng do nhà Thanh sản xuất chất lượng kém, nhiều khẩu vỡ nòng, thậm chí cướp cò và "không chính xác lắm". Ảnh: Khóa nòng của khẩu Remington 1867

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 13.

Loại súng trường Martini của Anh, được trang bị trong Quân đội Anh từ năm 1871, đây là loại súng trường cỡ nòng lớn, nạp đạn theo kiểu đòn bẩy cũng được Cục Máy móc Sơn Đông và Cục Máy móc Tứ Xuyên, cả hai đều được sao chép và sản xuất. Nó được sử dụng trong Chiến tranh Trung-Pháp và Chiến tranh Trung-Nhật.

Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 16.

Mặc dù đã thực hiện cải cách quân đội, nhưng khi đó Quân đội Nhật chỉ được trang bị súng trường Murata nạp đạn từng phát. Mặc dù trang bị hiện đại hơn quân Nhật, nhưng kết cục Quân đội triều đình phong kiến nhà Thanh đã đại bại dưới tay người Nhật. Ảnh: Súng trường Murata của Nhật Bản
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 17.

Nguyên nhân thất bại là do chính con người, chứ không phải do vũ khí quyết định kết quả của một cuộc chiến tranh. Huấn luyện quân đội, yếu tố tinh thần và biên chế tổ chức đều có ảnh hưởng lớn đến kết quả chiến đấu. Mặc dù thời nhà Thanh, được trang bị nhiều vũ khí tối tân, nhưng chất lượng tổng thể của binh lính còn kém xa so với trình độ chỉ huy của các sĩ quan. Ảnh: Pháo hạng nặng còn nguyên vẹn, bị quân Thanh bỏ rơi trong trận chiến với quân Nhật
Vì sao Quân đội nhà Thanh có vũ khí hiện đại vẫn thua quân Nhật? - Ảnh 18.

So với quân đội nhà Thanh, đội quân của Nhật Bản được tổ chức theo quân đội phương Tây, không chỉ có kỷ luật quân sự nghiêm ngặt, được huấn luyện chuyên nghiệp mà còn có ý chí chiến đấu mạnh mẽ hơn. Quân Thanh về bản chất vẫn là quân đội phong kiến, chiến thuật, ý chí chiến đấu kém, nên thương vong, thất bại là điều tất yếu

 

Từ ngày 1/8/1894 cho đến ngày 17/4/1895, nhà Thanh ở Trung Hoa đối đầu với đế quốc Nhật dưới thời Nhật Hoàng Minh Trị một lần nữa để tranh giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên mà kết quả vượt ngoài dự đoán ban đầu.​

img

Trong các cuộc hải chiến, Hạm đội Nhật Bản tỏ ra vượt trội hoàn toàn so với Hạm đội nhà Thanh.

Đây không phải là lần đầu tiên Nhật Bản muốn áp đặt ảnh hưởng tới bán đảo Triều Tiên. Cuối thế kỷ 16, dưới thời Totoyomi Hideyoshi, Nhật Bản từng kiểm soát gần như hoàn toàn bán đảo Triều Tiên nhưng cuối cùng bị quân nhà Minh đánh bật trở lại.

Nhưng lần này, cán cân quyền lực ở châu Á đã sang một trang mới. Nhật Bản sau gần 30 năm cải cách mạnh mẽ, đã trở thành một thế lực quân sự. Ngược lại, nhà Thanh ngày càng suy yếu sau hai cuộc Chiến tranh Nha phiến với phương Tây, mất dần ảnh hưởng ở Đông Á.

Đối với Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên luôn được coi là "con dao chĩa vào trái tim nước Nhật", nơi đạo quân Mông Cổ hùng mạnh một thời từng tìm cách vượt biển tấn công giai đoạn năm 1274 -1281.

Năm 1876, Nhật Bản đã ký một hiệp ước với Triều Tiên để đổi lấy một số đặc quyền, bao gồm việc Nhật Bản được phép đóng quân ở Triều Tiên. Điều này được nhà Thanh coi là mối đe dọa, vì các vương triều Triều Tiên trong hàng trăm năm luôn là chư hầu của Trung Hoa.

Chiến tranh cũng được thúc đẩy bởi cuộc cách mạng nông dân Donghak, nổ ra vào năm 1894 tại Triều Tiên. Những người nổi dậy kêu gọi chấm dứt ảnh hưởng của nước ngoài để thúc đẩy các giá trị truyền thống ở Triều Tiên.

Phe nổi dậy được nhà Thanh hậu thuẫn còn Nhật Bản coi đây là mối đe dọa với lợi ích quốc gia, nên tăng quân tới Triều Tiên để đối phó.

Ngày 23/7/1894, Nhật Bản bắt sống vua Gojong ở thủ đô Seoul, đổi tên thành hoàng đế Gwangmu để thể hiện rằng Triều Tiên không còn chịu sự ảnh hưởng của nhà Thanh.

2 ngày sau, 4.000 quân Nhật tiến về phía cảng Asan ở phía nam, nơi có 3.800 quân nhà Thanh đồn trú. Asan là cảng biển chủ chốt, nơi lực lượng nhà Thanh ở Triều Tiên nhận được hàng hóa và vật tư tiếp tế.

Trận hải chiến Pungdo là trận đánh trên biển đầu tiên trong Chiến tranh Nhật - Thanh, diễn ra ở ngoài khơi Asan.

img

Thắng lợi trong chiến tranh Thanh - Nhật khiến phương Tây phải đánh giá lại sức mạnh của Nhật Bản.

Hạm đội Trung Quốc sở hữu số tàu chiến gấp đôi nhưng sự chênh lệch về công nghệ quân sự là quá lớn, trong đó các tàu chiến Nhật vượt trội hoàn toàn nhờ công nghệ đóng tàu của Anh. Ngược lại, số tiền lẽ ra được dùng để nâng cấp hạm đội đã được Từ Hi Thái Hậu dùng để nâng cấp cung điện ở Bắc Kinh.

Trong trận Pungdo, Nhật Bản chỉ có một tàu bị hư hại còn nhà Thanh mất 3 tàu và hơn 1.100 thủy thủ thiệt mạng.

Mất quyền kiểm soát vịnh Asan, quân Thanh rơi vào tình huống bị bao vây. Ngày 28/7/1894, quân Nhật tiến công Asan, khiến quân Thanh thương vong gấp 5 lần.

Hai cuộc đụng độ liên tiếp khiến quan hệ Nhật - Thanh rơi xuống mức không thể đảo ngược. Hai bên lần lượt tuyên chiến vào ngày 31/7 và 1/8.

Trận đánh lớn tiếp theo diễn ra ở Bình Nhưỡng, vào ngày 15/9/1894. Quân Nhật do tướng Oshima Yoshimasa chỉ huy tấn công quân Thanh ở thành Bình Nhưỡng từ 3 hướng. Sau một ngày giao tranh ác liệt, quân Nhật kiểm soát thành phố. Phía nhà Thanh tổn thất 2.000 quân và 4.000 người bị thương hoặc mất tích. Phía Nhật Bản chỉ thương vong 568 người. Một ngày sau, hạm đội Nhật và hạm đội nhà Thanh đụng độ trong trận chiến sông Áp Lục, trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Thanh - Nhật. Mặc dù mang tên là trận chiến sông Áp Lục nhưng giao tranh diễn ra trên biển Hoàng Hải, ngoài cửa sông Áp Lục.

Hạm đội Bắc Dương vang danh một thời của nhà Thanh chịu thiệt hại nặng nề với 1/3 số tàu bị đánh chìm. Phía Nhật không bị chìm bất cứ tàu nào mà chỉ có 5 chiến hạm bị hư hại.

img

Cuối thế kỷ 19, nhà Thanh ở Trung Hoa ngày càng suy yếu còn Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ.

Ở thời đại mà các tàu chiến rất khó để bắn trúng tàu đối phương từ khoảng cách xa, Nhật Bản vượt trội hơn nhờ vào hỏa lực, đặc biệt là tốc độ nạp đạn và khai hỏa. Nhiều tờ báo lớn ở châu Âu khi đó đăng bài trang nhất mô tả về chiến thắng của hạm đội Nhật, cho rằng Nhật Bản thắng lợi là nhờ việc học hỏi chiến thuật và công nghệ phương Tây.

Sau hai trận đánh quyết định ở Bình Nhưỡng và trận sông Áp lục, quân Thanh rút khỏi Triều Tiên. Tháng 10/1894, quân Nhật tiến tới vùng Mãn Châu và bán đảo Liêu Đông, kiểm soát thành phố Mukden và thành phố cảng Lushunkou của Trung Quốc.

Quân Nhật đã gây ra cuộc thảm sát ở thành phố cảng Lushunkou vào ngày 21/11/1894. Phần lớn dân thường đã sơ tán khi đó nhưng vẫn còn khoảng vài ngàn người ở lại, cùng với binh sĩ nhà Thanh.

"Khi chúng tôi tới thành phố cảng, chúng tôi thấy đầu của một binh sĩ Nhật được đặt trên một cọc gỗ. Điều này khiến chúng tôi tức giận và chúng tôi đã sát hại bất cứ ai mà chúng tôi nhìn thấy. Rải rác trên đường phố là các thi thể. Nhà nào cũng có vài ba người chết", Makio Okabe, binh sĩ thuộc sư đoàn bộ binh số 1 của quân Nhật, viết trong nhật ký.

Tổng số người bị sát hại không được xác định cụ thể, nhưng theo các tài liệu lịch sử, số dân thường thiệt mạng là khoảng 2.600.

Hạm đội nhà Thanh rút về cảng Uy Hải Vệ ở tỉnh Sơn Đông, vùng duyên hải phía đông Trung Hoa. Đây là trận tiến công đánh dấu hải quân Nhật và lục quân phối hợp tác chiến một cách tinh vi. 10.600 quân Thanh cố thủ ở cảng Uy Hải Vệ cùng 2 thiết giáp hạm, 1 tàu khu trục và 13 tàu rải ngư lôi. Ở phía bên kia chiến tuyến, Nhật Bản huy động 25.000 quân cùng 3 tàu tuần dương.

3 chiến hạm Nhật nã pháo ở phía tây Uy Hải Vệ nhằm đánh lạc hướng, giúp sư đoàn số 2 và số 6 của Nhật Bản đổ bộ thành công xuống phía đông Uy Hải Vệ.

img

Thất bại trong chiến tranh Thanh - Nhật khiến nhà Thanh mất quyền kiểm soát nhiều vùng lãnh thổ, mất ảnh hưởng ở bán đảo Triều Tiên.

Quân Nhật chia làm hai hướng tiến sâu vào Uy Hải Vệ. Đợt tiến công diễn ra đúng dịp Tết âm lịch và ý chí chiến đấu của quân Thanh đã giảm sút nên quân Nhật hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào.

Trong trận đánh ở Uy Hải Vệ, Hạm đội Bắc Dương bị hủy diệt hoàn toàn. Đô đốc Đinh Nhữ Xương và cấp dưới là Đô đốc Lưu Bộ Thiềm đều tự sát. Với việc kiểm soát vùng ven biển tỉnh Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông, Nhật Bản tạo thế gọng kìm với mục tiêu là Bắc Kinh.

Mối đe họa hiện hữu ngay trước mắt khiến nhà Thanh buộc phải cầu hòa, chấm dứt chiến tranh. Theo các điều khoản trong Hiệp ước hòa bình Shimonoseki được ký vào ngày 17/4/1895, nhà Thanh công nhận độc lập ở bán đảo Triều Tiên, từ bỏ kiểm soát đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Nhà Thanh cũng đồng ý chi trả chiến phí lên tới 600 triệu USD (theo quy đổi tiền tệ ngày nay).

Kết chúc chiến tranh kéo dài một năm, Nhật Bản tuyên bố bảo hộ bán đảo Triều Tiên trước khi sáp nhập hoàn toàn vào năm 1910. Quân Nhật cũng kiểm soát đảo Đài Loan sau chiến dịch đổ bộ kéo dài từ tháng 5 cho đến tháng 10/1895, kiểm soát đảo Bành Hồ và bán đảo Liêu Đông.

Trong toàn bộ chiến dịch, quân Thanh chịu tổn thất 35.000 người còn phía Nhật chỉ thương vong khoảng 5.000.

Việc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ, giành thắng lợi quá dễ dàng khiến 3 cường quốc khi đó gồm Nga, Đức và Pháp bày tỏ sự lo ngại. 3 cường quốc đồng loạt phản đối Nhật kiểm soát bán đảo Liêu Đông, một phần do đế quốc Nga đã nhăm nhe kiểm soát bán đảo này từ lâu.

Trước sức ép từ phương Tây, Nhật Bản buộc phải nhượng lại bán đảo Liêu Đông cho Nga để đổi lấy 30 triệu lạng bạc. Giới quân phiệt Nhật coi đây là sự chèn ép quá mức, là ngọn lửa châm ngòi cho cuộc chiến tranh Nga - Nhật giai đoạn năm 1904 - 1905.
 

Chiến tranh Trung - Nhật lần 2 (1937-1945): 14-20 triệu người thiệt mạng​

Ước tính trong 8 năm chiến tranh Trung-Nhật lần 2, Trung Quốc đã mất tổng cộng 14-20 triệu người, bao gồm cả binh sĩ và dân thường. Đây được coi là cuộc chiến đẫm máu nhất ở châu Á trong lịch sử hiện đại.
Các nhà sử học cho rằng nguồn gốc của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần 2 năm 1937 bắt nguồn từ cuộc chiến lần đầu tiên giữa nhà Thanh với đế quốc Nhật trước đó khoảng 50 năm.

Sau cuộc chiến lần thứ nhất, đế quốc Nhật đánh bại Trung Quốc, chiếm đóng Hàn Quốc. Năm 1931, Nhật Bản thừa thắng đem quân chiếm đóng hoàn toàn Mãn Châu – vùng đất ở đông bắc Trung Quốc, nơi khởi nguồn của nhà Thanh. Đây là nơi có trữ lượng khoáng sản dồi dào, nhưng được phòng thủ hết sức yếu kém vì ở vùng đông bắc hoang sơ, giá lạnh.

Chiến tranh Trung - Nhật lần 2 (1937-1945): 14-20 triệu người thiệt mạng - Ảnh 1.

Nguyên nhân khơi mào chiến tranh Trung-Nhật lần 2

Nhật Bản trong giai đoạn trước Thế chiến 2 đánh dấu bước phát triển mạnh, rất khát tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là kim loại, dầu mỏ.

Trung Quốc khi đó rơi vào cuộc nội chiến căng thẳng, giữa phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và đảng ******** do lãnh tụ Mao Trạch Đông lãnh đạo.

Năm 1937, binh sĩ Nhật đóng quân ở Phong Đài (Fengtai), khi đó là khu rừng biệt lập nằm ở phía tây nam Bắc Kinh. Một trong những thành trì bảo vệ Bắc Kinh ở Phong Đài là thành Uyển Bình. Nơi đây có cây cầu Marco Polo dẫn thẳng đến Bắc Kinh.

Quân Nhật khi đó liên tục tập trận, khuếch trương thanh thế nhưng chính quyền Trung Quốc không có ý định ngăn chặn, chỉ yêu cầu phía Nhật thông báo trước các cuộc tập trận để trấn an dân chúng.

Nhật Bản chỉ đồng ý lấy lệ. Quân Nhật càng ngày càng tiến gần cầu Marco Polo hơn.

Những gì người Nhật cần là một cái cớ, giống như vụ đánh bom tuyến đường sắt ở Mãn Châu. Đêm ngày 7/7/1937, quân Nhật tổ chức một cuộc tập trận bất ngờ gần cầu Marco Polo. Binh nhì Shimura Kikujiro trong khi tập trận đã tách đội hình, đi vào rừng để giải quyết nhu cầu vệ sinh.

Khi Kikujiro quay trở lại, các binh sĩ đã rời đi. Binh nhì này phải mất nhiều giờ mò mẫm trong đêm tối mới trở về được doanh trại. Trong khi đó, phía Nhật yêu cầu người Trung Quốc mở cổng thành Uyển Bình để tìm binh nhì đi lạc.

Phía Trung Quốc quyết không mở cổng vì cho rằng không thể có chuyện binh sĩ Nhật đi lạc được vào trong thành. Lính Trung Quốc đề nghị sẽ tự tìm kiếm nhưng vẫn không được quân Nhật đồng ý.

Các tài liệu mật được Thư viện Quốc hội Nhật Bản (NDL) công khai năm 2013 cho thấy các tướng lĩnh Nhật đã muốn lợi dụng sự cố này để phát động tấn công, dù binh nhì Kikujiro sau đó đã trở về đơn vị an toàn.

Trong đêm đó, giao tranh nổ ra nhưng không rõ bên nào nổ súng trước. Đến rạng sáng ngày 8/7/1937, một đơn vị lính Nhật tìm cách mở đường máu tiến vào thành, nhưng bị đẩy lùi.

Phía Trung Quốc một mặt tìm cách đàm phán, mặt khác huy động quân hỗ trợ thành Uyển Bình. Đến 4 giờ 50 phút sáng, chiến tranh Trung-Nhật lần hai bùng nổ.

Chỉ trong vòng một tháng, Bắc Kinh và cảng Thiên Tân – cảng biển lớn nhất miền bắc Trung Quốc rơi vào tay quân Nhật.

Cuộc chiến Trung Quốc chưa bao giờ thắng

Lãnh thổ Trung Quốc giai đoạn này chủ yếu do Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch kiểm soát. Năm 1937, Quốc dân Đảng có 1,7 triệu quân, so với Nhật Bản ở giai đoạn đầu chỉ có 600.000 quân.

Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Mao Trạch Đông lúc này vừa hoàn thành cuộc Vạn Lý Trường Chinh, chưa sẵn sàng kháng chiến chống Nhật.

Ngược lại, Tưởng Giới Thạch lại chủ trương phát động chiến tranh quy ước với quân Nhật. Kết quả là Quốc Dân Đảng liên tục hứng chịu những thất bại nặng nề.

Ước tính trong 8 năm chiến tranh Trung-Nhật, Trung Quốc đã mất tổng cộng 14-20 triệu người, bao gồm cả binh sĩ và dân thường. Đây được coi là cuộc chiến đẫm máu nhất ở châu Á trong lịch sử hiện đại.

Giai đoạn đầu cuộc chiến, Tưởng Giới Thạch phải một mình chống Nhật dù đã liên minh với Mao Trạch Đông, do cả Liên Xô và Mỹ khi đó đều chưa tham chiến.

Khi Liên Xô mở mặt trận chống phát xít Đức trong Thế chiến 2, sự giúp đỡ đối với Trung Quốc vẫn rất hạn chế vì Moskva không muốn phải vừa chống Đức ở mặt trận phía tây, vừa đối phó quân Nhật ở phía đông.

Phải tới tận khi Mỹ quyết định tham chiến, Washington mới bắt đầu tác động lên Liên Xô về vấn đề Trung Quốc để tăng cường viện trợ cho các lực lượng quân sự Trung Quốc chống Nhật.

Trên thực tế, phe Quốc dân Đảng đã liên tiếp thất bại trong các trận chiến lớn với quân Nhật, để mất các thành phố quan trọng như Thượng Hải, Quảng Châu, khiến uy tín của Tưởng Giới Thạch giảm sút.

Đến năm 1941, quân Nhật kiểm soát toàn bộ các vùng ven biển trù phú ở Trung Quốc và gần như án binh bất động, chuyển hướng sang mặt trận Thái Bình Dương chống Mỹ.

Sau khi cục diện Thế chiến 2 an bài với chiến thắng thuộc về phe Đồng Minh, đội quân do Mao Trạch Đông lãnh đạo giành chính quyền, buộc Tưởng Giới Thạch rút sang Đài Loan.

Đây là lý do các nhà sử học trên thế giới đều đồng tình rằng Trung Quốc chưa bao giờ thắng Nhật Bản trong cuộc chiến lần 2. Nhật rút quân khỏi Trung Quốc là do đầu hàng Đồng Minh. Trung Quốc với tư cách là đồng minh chống phát xít, nghiễm nhiên là phe chiến thắng.

Ngày nay, chính sử Trung Quốc thừa nhận vai trò kháng chiến chống Nhật với tổn thất nặng nề của phe Quốc dân Đảng. Các lực lượng của Mao Trạch Đông khi đó có quân số ít ỏi hơn, chủ yếu chiến đấu ở khu vực Đông Bắc với chiến thuật chiến tranh du kích.

Nước Nhật đã từng áp đảo ‘người khổng lồ’ Trung Quốc như thế nào?​

Dù dân số chỉ bằng 1/10 Trung Quốc nhưng Nhật Bản luôn thể hiện được ưu thế trong giai đoạn đầu cuộc Thế chiến lớn nhất lịch sử.

Thập niên 1930, nước Nhật nhỏ bé đã áp đảo ‘người khổng lồ’ Trung Quốc như thế nào?


Nhật Bản ở thời điểm trước Thế chiến II dân số khoảng 65 triệu người, rất nhỏ nếu so với Trung Quốc có 511 triệu dân. Tuy nhiên nước này lại chiếm được một vùng diện tích cực lớn và áp đảo hoàn toàn Bắc Kinh. Có rất nhiều nguyên nhân lí giải vì sao Nhật Bản lại hùng mạnh và chiếm ưu thế tới vậy.

Vào thời điểm quân Nhật xâm chiếm Trung Quốc năm 1937, Tokyo đã thành lập một loạt khu vực đồn trú dọc phạm vi Trung Quốc. Trong những năm đầu chiến tranh, Nhật Bản chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía đông Trung Quốc, nơi có những đồng bằng phì nhiêu.

Quân đội Nhật Bản từng đồn trú số lượng ít ở cảng Đại Liên ngày nay. Họ chiếm được khu cảng này sau khi đánh thắng Nga năm 1900 và sau đó trở thành cường quốc khu vực Đông Á. Đạo quân Quan Đông có số lượng khoảng 10 tới 20.000 người, một con số tương đối khiêm tốn. Khi tướng quân Ishiwara Kanji, người thống lĩnh đạo quân đế quốc chỉ huy đánh chiếm Mãn Châu và thành lập Mãn Châu Quốc, đạo quân Quan Đông trở thành lực lượng chính với số lượng lúc này đạt một triệu lính.

Khi đánh chiếm Trung Quốc, Nhật Bản thành lập nhiều đơn vị viễn chinh khác nhau ở những khu vực, địa hình riêng biệt. Sau này, các đạo quân lẻ tẻ tách ra từ quân Quan Đông được hợp lại thành quân đội viễn chinh Nhật Bản ở Trung Quốc và quân Quan Đông ở Mãn Châu Quốc.

Mãn Châu Quốc là chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản lập nên, cai trị trên danh nghĩa Mãn Châu và phía đông Nội Mông, do các quan chức nhà Thanh cũ tạo ra với sự giúp đỡ của Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932.

Trước và trong Thế chiến II, các chuyên gia dự đoán Nhật chiếm khoảng 1,5 đến 3,5 triệu km2 đất đai Trung Quốc. Cần nhớ rằng diện tích Trung Quốc thời đó khoảng 10 triệu km2, đồng nghĩa bị mất gần 1/3 lãnh thổ vào tay người Nhật.

Một điều quan trọng nữa là thời điểm thập niên 30 của thế kỷ XX, Trung Quốc chưa thống nhất về mặt chính trị. Chính phủ trung ương không thể quản lý được Tây Tạng, Tân Cương, cao nguyên Thanh Hải và phần lớn miền bắc nước này.

Tổng lãnh thổ không được quản lý ước chừng 1/3 tới một nửa diện tích. Khi chiến tranh nổ ra năm 1937, thực chất là cuộc chiến giữa miền đông Trung Quốc và đế chế Nhật Bản hùng mạnh.

Thế mạnh công nghiệp, quốc phòng của Nhật Bản là một ưu thế cực lớn giúp san bằng cách biệt về mặt diện tích và số dân.

Dù Nhật Bản chiếm được thế thượng phong từ đầu với vũ khí hiện đại nhưng họ lại không đủ tiềm lực công nghiệp để duy trì một cuộc chiến dài hơi.

Khi Nhật Bản quyết định leo thang quân sự với Trung Quốc, nhà quân sự Ishiwara Kanji nhận định Nhật Bản đã thua từ trước đó. Kanji khuyên Nhật Bản nên củng cố quan hệ công nghiệp với Trung Quốc bằng cách tận dùng tài nguyên giàu có và đợi thời cơ để xâm chiếm vùng lãnh thổ Siberia chưa khai phá. Sau đó, Nhật Bản có thể tấn công Mỹ để đạt vị thế bá chủ toàn cầu. Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản không lắng nghe ý kiến này của Kanji.

Trung Quốc cũng biết sẽ rất khó khăn trong cuộc chiến với Nhật Bản nên rút lui vào sâu phía bắc, mang theo cơ sở vật chất, nhà máy đi cùng. Sau một hai năm đầu giao tranh, hai bên hầu như không có trận đánh nào nổ ra.

Nhật Bản có được quân sự và công nghiệp vững mạnh từ sau thời cải cách Minh Trị. Với các cơ sở quốc phòng, quân sự trải dọc đất nước, Nhật Bản mau chóng trở thành cường quốc trên thế giới.

Trung Quốc từng có vị thế ngang bằng với Nhật Bản thập niên 1800, nhưng sau đó không đạt được thành công như Nhật Bản. Chỉ cần xem khả năng Nhật điều động hàng triệu quân tấn công vào phía đông Trung Quốc năm 1938 trong khi vẫn dàn quân khắp chiến trường Mỹ, Anh, Australia là đủ thấy sự khác biệt rất lớn giữa quân đội hai quốc gia.

Khi trận chiến Thượng Hải nổ ra, chính quyền Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn điều quân từ những cùng xa xôi vào thành phố do thiếu…đường ray xe lửa.

Dù lớn về diện tích nhưng Trung Quốc thời đó lại không phải là nước lớn và ngược lại, Nhật Bản chưa hề là nước nhỏ ở thời điểm chiến tranh. Điều này cũng giống như Anh trước đây, một đảo quốc nhỏ bé nhưng sở hữu hơn 30 triệu km2 thuộc địa cách đây 200 năm. Trước khi Thế chiến II kết thúc, Nhật đã kịp rút hết sĩ quan, binh lính tinh nhuệ về nước nên khi Liên Xô tấn công Mãn Châu, quân đội Quan Đông mau chóng thua cuộc. Dù thua nhưng Nhật Bản giữ được số lượng người thiệt mạng ở con số tối thiểu khi phe phát xít tan rã trong Thế chiến II.
 
Thằng trung quốc thời đấy nhiều vấn đề nội bộ, quyền lực dần rơi vào tay bọn đại thân người hán nên chúng nó xoay sang muốn làm phản, bật lại hoàng đế mãn thanh trước
 

Có thể bạn quan tâm

Top