Đại đế quốc Khmer vĩ đại, niềm tự hào của con dân Campuchia

vna_potal_campuchia_cai_nhin_moi_ve_su_suy_tan_co_do_angkor_cua_de_quoc_khmer___stand.jpg

Đế quốc Khmer hay Đế quốc Angkor là đế quốc rộng lớn nhất phía Nam và Đông Nam Á với diện tích lên đến 1,2 triệu km², bao gồm cả Miến Điện (Myanmar), Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, và vùng Nam Bộ thuộc Việt Nam ngày nay. Trong khi đó, diện tích của Đại Việt thời nhà Lý chưa đến 111.000 km².
Đế quốc hùng bá Đông Nam Á (Phần 1): 5 lần thảm bại trước Đại Việt - Ảnh 1.

Bản đồ Đế quốc Ankor so sánh với Đại Việt và Chiêm Thành.

Đế quốc Angkor cực thịnh​

Di sản lớn nhất của đế quốc Angkor là kinh đô Angkor Wat. Năm 2007 các nhà nghiên cứu trên thế giới đã kết luận rằng Angkor là thành phố thuộc thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất thế giới với diện tích 1.150 dặm vuông. Thành phố cạnh tranh tiêu chí này gần nhất với Angkor là thành phố Tikal của văn hóa Maya ở Guatemala, có tổng diện tích khoảng 50 dặm vuông.

Năm 1113, vua Suryavarman II của đế quốc Angkor lên ngôi, đây được xem là một trong những vị Vua vĩ đại nhất của đế quốc này. Kinh đô Angkor Wat được khởi công xây dựng, là quần thể kiến trúc mang tầm cỡ thế giới đương thời.

Đế quốc hùng bá Đông Nam Á (Phần 1): 5 lần thảm bại trước Đại Việt - Ảnh 2.

Angkor Wat.

Với sự hưng thịnh của mình, vua Suryavarman II liên tiếp tổ chức những cuộc hành quân xâm lấn các nước láng giềng để bành trướng lãnh thổ, vùng đất phía tây Chiêm Thành cũng liên tục bị tấn công cướp phá. Tham vọng bành trướng của vua vua Suryavarman II hầu như không có điểm dừng, và Đại Việt cũng nằm trong số đó.

Địa hình Campuchia nói chung bằng phẳng, nhưng đồi Kulen nhô lên trên vùng đồng bằng phía bắc Tonle Sap, lợi thế phòng thủ của khu vực này là rõ ràng đối với vị hoàng đế mới thống nhất các quốc gia nhỏ. Nhưng Phnom Kulen không chỉ mang lại lợi thế về mặt quân sự, nó còn được người Khmer tôn sùng là nơi linh thiêng và cung cấp hai nguồn tài nguyên mà người Khmer có thể khai thác để mang lại lợi ích cho họ: đá và nước.

Jayavarman II đã dành phần lớn thời gian trị vì của mình để chinh phục và củng cố đế chế mới, ông đã xây dựng thủ đô Mahendraparvata trên Phnom Kulen. Những người kế vị ông được an toàn hơn nhiều và đã chuyển thành phố từ vùng đồi núi đến vùng đồng bằng phía bắc của vùng lũ Tonle Sap, ngày nay được gọi là Roluos. Sau đó, thủ đô lại dời đến Angkor khi các kỹ sư thủy lực trở thành những người hoàn toàn làm chủ khí hậu và cảnh quan trong hàng trăm năm.

Campuchia cổ đại chủ yếu là một quốc gia theo đạo Hindu được Ấn Độ hóa hàng trăm năm trước khi Đế chế Khmer ra đời. Do đó, Jayavarman II quyết định tổ chức lễ đăng quang tại Phnom Kulen để hợp pháp hóa quyền cai trị của mình. Sau đó, nó được gọi là Phnom Mahendra. Đây là mô tả về núi Meru trong vũ trụ học Ấn Độ giáo. Mahendraparvata, tên thành phố của Jayavarman có nghĩa là "Ngọn núi của Indra vĩ đại".

Núi Meru là nơi ở của các vị thần, hơi giống với đỉnh Olympus của người Hy Lạp cổ đại. Người được trao vương miện ở đó không chỉ trở thành một người cai trị, mà còn là một vị thần (Thần hoàng đế), những người kế vị ông cũng là Thần vương, nhưng đã chuyển sang Phật giáo.

Khí hậu của Campuchia cho thấy rằng ít công việc nông nghiệp được yêu cầu trong mùa khô. Việc xây dựng những ngôi đền không chỉ khiến dân chúng bận rộn mà còn củng cố ý tưởng rằng người cai trị cũng là Ông Trời. Đối với người dân của ngài, điều này có nghĩa làm việc cho hoàng đế là làm việc cho Ông Trời và tích lũy điểm công đức cho kiếp sau.

Ở Đế chế Khmer từng tồn tại một nền văn hóa bình đẳng giới tương đối: có các nhà khoa học và quân nhân nữ. Hai người vợ của Jayavarman VII - Hoàng hậu Indradevi và Hoàng hậu Jayarajadevi - là kiến trúc sư và giáo viên tại trường đại học của ngài, là bậc thầy trong nghề. Như vậy, Đế chế đã sử dụng tài năng của toàn dân chứ không riêng của một giới nào và còn bổ sung điều này bằng sức lao động của một lượng lớn nô lệ. Tất cả, trừ những gia đình nghèo nhất đều có nô lệ.

Hồ Tonle Sap cung cấp một lượng lớn các loài cá và động vật biển khác nhau. Các sản phẩm từ hồ, bao gồm cả cá khô, được Đế chế Khmer xuất khẩu sang những nước láng giềng. Lúa là cây trồng chính, Đế chế Khmer đã vượt trội trong việc trồng lúa. Do làm chủ nguồn nước, họ có thể thu hoạch ba vụ một năm. Họ trồng lúa nước sâu, trung bình và cạn. Một loại cây trồng ở vùng nước nông sẽ phát triển và được thu hoạch trước, sau đó - ở vùng nước trung bình và sâu, điều này mang lại cho họ gạo quanh năm và thặng dư để xuất khẩu. Người Khmer trồng các loại thảo mộc và rau xung quanh nhà của họ, trong bất cứ thứ gì có thể chứa cây trồng, và họ quản lý nước đảm bảo để có thể tưới cho cây rau và cây ăn quả quanh năm.

Khí hậu nhiệt đới với hai mùa do gió mùa: ẩm ướt và khô. Do đất nước được bao quanh bởi các ngọn núi nên bị hạn chế lượng mưa khu vực phía Bắc Tonle Sap trong mùa khô. Điều này dẫn đến cảnh đầm lầy trong mùa mưa hoặc khô và bụi trong mùa khô, nó có thể kéo dài hàng tháng mà không có mưa.

Campuchia về cơ bản là sự tích tụ của phù sa do sông Mekong rửa trôi qua hàng triệu năm. Trong quá khứ, đây là một vùng đồng bằng ngập nước rộng lớn được bao quanh bởi những ngọn núi, nhưng phần lớn đất nước bằng phẳng, và ở trung tâm là hồ Tonle Sap. Sông Mekong ở giữa, chia tách Campuchia hiện đại và hợp lưu với sông Tonle Sap tại Phnom Penh. Trong mùa mưa, do một lượng lớn nước từ phía bắc chảy vào, sông Mekong làm cho sông Tonle Sap xoay chuyển và làm cho hồ lớn phình ra.

Phần lớn miền trung Campuchia vẫn là vùng đồng bằng ngập nước, hồ Tonle Sap có thể tăng kích thước lên 16 lần trong mùa mưa. Lượng phù sa khổng lồ này được bồi đắp hàng năm đã làm cho vùng quê trở nên màu mỡ, còn vào mùa khô, phù sa biến thành cát bụi khi đất khô cằn, nứt nẻ. Nhưng người Khmer cũng đã tìm ra lối thoát ở đây.

Đồi Kulen nhô lên trên cảnh quan bằng phẳng này và có thể nhìn thấy xung quanh hàng dặm. Chúng được cấu tạo bằng đá sa thạch, và trên đỉnh có một cao nguyên rộng lớn. Đá sa thạch hấp thụ gió mùa, giữ lại nước và phân hủy để cung cấp đủ diện tích đất sâu màu mỡ hỗ trợ cho một lượng lớn dân số.

Đế chế Khmer với nền văn minh đá và nước -0
Angkor Wat, di tích tôn giáo lớn nhất thế giới và là biểu tượng của Đế chế Khmer. (Ảnh: nytimes.com)
Những công trình khổng lồ từ đá và nước

Thiên tài của Đế chế Khmer nằm ở khả năng xây dựng những công trình kiến trúc khổng lồ như Angkor Wat trên vùng đất ngày càng lớn hơn và hàng năm thu hẹp lại. Người Khmer đã thiết kế các ngôi đền nổi, được hỗ trợ bởi nước ngầm, giúp chúng không bị chìm dưới sức nặng của chính mình. Các hồ chứa khổng lồ được xây dựng, các dòng sông được chuyển hướng và một hệ thống kênh đào xuất hiện, làm thay đổi toàn bộ cảnh quan.

Con sông chảy qua Siem Reap là một trong những động mạch kênh đào chính nối thủ đô Angkor với Tonle Sap. Nó hiện đã hơn 1.000 năm tuổi và chỉ thay đổi một chút về hướng nam của thành phố, minh chứng cho sự thiên tài của những người xây dựng.

Con sông chỉ là một trong những mạng lưới kênh lớn được đào khắp khu vực. Các con kênh là một mạng lưới giao thông vận chuyển mọi thứ từ con người đến những tảng đá khổng lồ cần thiết để xây dựng các ngôi đền và di tích ở thành phố Angkor. Chúng cũng là nguồn thức ăn, nước và chất thải cho những ngôi nhà được xây dựng bên cạnh.

Baray Tây nằm theo hướng đông - tây và ở ngay phía tây của thành Angkor Thom là hồ chứa duy nhất còn lại, lớn đến mức có thể nhìn thấy nó từ không gian. Trong thời Đế chế Khmer còn tồn tại hồ Baray Đông có cùng kích thước và ít nhất hai hồ chứa nhỏ hơn khác trong khu vực. Những hồ nhân tạo khổng lồ này đã thu thập một lượng nước khổng lồ trong các đợt gió mùa và giúp ngăn chặn lũ lụt. Đấy là nguồn cung cấp nước quanh năm để giữ cho các con kênh chảy và tưới cho cây trồng trong vườn tược.

Bay đến Siem Reap vào những thời điểm nhất định trong năm, bạn có thể nhìn thấy những dòng kênh chằng chịt trên những cánh đồng lúa xanh tốt. Trên thực tế, quy mô của hệ thống thủy lực của Đế chế Khmer chỉ có thể được đánh giá từ trên không. Những gì được phát hiện là một cảnh quan không tự nhiên chút nào, mà đã được sửa đổi rất nhiều từ Đồi Kulen đến Tonle Sap. Nó cũng cho thấy bằng chứng về một mạng lưới đường sá dẫn đến Đế chế Khmer rộng lớn hơn. Điều này cần được khám phá thêm một cách thật chi tiết. Lần quét đầu tiên cho một cuộc khảo sát cảnh quan khảo cổ học đã được thực hiện vào năm 2013 và 2015 cho thấy một thành phố trên Phnom Kulen - thành phố Mahendraparvata Jayavarman II - có dân số ước tính khoảng 80.000 người, và một thành phố lớn khác là Angkor. Thành phố này đã vượt qua mọi thứ ở châu Âu vào thời điểm đó.

Đế chế Khmer đã điều chỉnh cảnh quan của đất nước mình để hạn chế nhịp điệu của gió mùa và là một cường quốc ở châu Á trong suốt 500 năm. Nền văn minh của Đế chế Khmer sánh ngang với người La Mã về những thành tựu kỹ thuật và thậm chí còn vượt qua họ về một số mặt.
 
Bọn Cam hiện tại chắc chỉ là bọn nô lệ của đế chế ngày xưa chứ với tính cách của người Cam thì có lol mà làm được gì lớn lao.
Cam, Lào , Việt.
Cả 3 đều thiếu đầu óc , kỹ năng, sự tỉ mỉ, để có thể làm được những công trình to lớn.
 
Bọn Cam hiện tại chắc chỉ là bọn nô lệ của đế chế ngày xưa chứ với tính cách của người Cam thì có lol mà làm được gì lớn lao.
Cam, Lào , Việt.
Cả 3 đều thiếu đầu óc , kỹ năng, sự tỉ mỉ, để có thể làm được những công trình to lớn.
Tao cũng thắc mắc sao hậu bối của đế chế gì mà chán quá, hay tinh anh bị pốt nó tiễn hết đúng nghĩa, để cả một dân tộc tự bóp dái mình :haha: :haha: :haha:
 
Tao cũng thắc mắc sao hậu bối của đế chế gì mà chán quá, hay tinh anh bị pốt nó tiễn hết đúng nghĩa, để cả một dân tộc tự bóp dái mình :haha: :haha: :haha:
Bình thường thôi chứ có mẹ gì, có là tinh anh thì cũng chỉ là một nhúm nhỏ cai trị chứ có phải cả dân tộc đâu mà đòi truyền đời cái tinh anh đó, như bọn ai cập la mã, hi lạp, mông cổ , lữ chân rồi cũng bị diệt sạch hết bây giờ cũng chỉ là đám cóc ké ăn mày quá khứ
 
Angkor chắc nó được cai trị bởi 1 dân tộc gì đó phải đẳng cấp và kinh khủng về mặt trí tuệ lắm mới tạo ra được angkor wat. Bằng chứng là tụi miên mọi sau xây lại angkor thom rep 1:1 của angkor wat nhìn như cái đầu buồi. Khả năng trị thuỷ của dân angkor cổ vẫn là một sự đẳng cấp khác biệt so với tụi miên mọi, khi gần như tụi miên mọi không biết cách để trị thuỷ và khai phá đất đai hoang luôn.
 
người campuchia sau này kp người xây lên kiến trúc này, nhìn những tượng sau này có độ chênh lệch về kỹ thuật rất cao, và đặc biệt là cái này làm trên nền đất yếu mà qua bao năm đéo xụt lún trình độ xây dựng phải nói thượng thừa rồi!
 
ko hiểu sao đế chế này sụm 1 cách lặng lẽ, đến Ankor cũng do bọn Fap phát hiện :vozvn (21):
Lý do chính Anco bị sụp đổ là vì ko phải anco yếu mà vì vương quốc Ayuthaya quá mạnh
Đền ankor siêu rộng lớn là một biểu tượng quyền lực của vua ankor, ban đầu người kiến trúc sư định xây đền đó để tìm cách kết nối với người ngoài hành tinh, nhưng vua (hay chúa hay người đứng đầu ko rõ tên gọi chức vị lúc đó là gì) không quan tâm tới khoa học mà chỉ nghĩ rằng xây ngôi đền thỏa mãn tín ngưỡng là được, nên sau đó xây những ngôi tháp không cao mấy, điêu khắc thêm hình hoa sen, hoa trạng nguyên.....vốn tượng trưng cho đạo Phật, nhưng lại không có kết cấu kỹ thuật, không thể hấp thị năng lượng mặt trời, không tích tụ nội lực cho đất nước, binh sĩ được.

Về phía nước Siêm, xuất hiện một lực lượng hùng mạnh là vương quốc ayuthaya với những binh sĩ kì bí, khoác bộ áo quần đen ngòm như bóng ma (ảnh), đeo đầy trang sức đắt tiền, với vũ khí là những thanh đao dài 2 mét vô cùng sắc bén, tràn vào ngôi đền tấn công trước và chiếm cứ, quân ăn-co tuy có kinh nghiệm chiến đấu nhưng ko thể địch lại sức mạnh kì bí của quân ayuthaya ma mị, cuối cùng để lại châu báu và tháo chạy về thủ đô, tuy nhiên do quan binh trước đó toàn ăn nhậu nên giờ cũng không còn trí lực để chiến đấu, sau một vài năm họ đã hoàn toàn thất thủ và tản mác, để tránh sự truy sát, những người lính chức vị thấp đã thay đổi tên họ và không còn muốn nhận mình là người ăn-co nữa, vương quốc ăn-co lãng quên từ đó.
XlzpeKO.png


Về phía ayuthaya, họ ko chỉ đánh phá ăn co, mà còn chinh phục cả vùng đất Siêm là quê hương của họ luôn, tại siêm lúc này cũng chưa thật sự thống nhất, có 3-4 phe phái tại đây gồm có sukhothai (mà sau này thành thái lan) lanna, và thamarat và một số phiến quân nhỏ lẻ đang nhú lên. Nhưng vua của ayuthaya giàu có (lại chuyện giàu nghèo) nên đã thuê và chiêu mộ được nhiều nhân tài thần bí của vùng đất Siêm, từ thầy bùa, thầy bói, cho đến các pháp sư biến dị, cho tới các võ sĩ chân tu (kiểu dao kiếm chém hoài ko đứt) cho tới các sát thủ áo đen.... Vua ayuthaya gần như đánh bại toàn bộ các lực lượng từ 4 hướng 4 vương quốc, nhưng vẫn chưa thống nhất được Thái Lan do vì vị Vua này cũng khá tham lam và đang bắt đầu nghiện tà thuật. Vua ayuthaya sau đó thấy bản thân mình cũng muốn có sức mạnh như các pháp sư hắc ám kia, liền xin hỏi cách luyện tà thuật, sau đó cũng giống bao vị vua khác, cho bản thân và các quan binh ăn nhậu tẹt ga và sa đà vào gái gú, tà thuật, thuốc lá........cuộc sống thiếu lành mạnh đó đã làm cho dân-binh không phục, nô lệ ca thán, tiền lương cho các sát thủ thì bóp dần lại (lại là vấn đề tiền nong), cuối cùng, các nhân tài của ayuthaya sinh BẤT MÃN VÀ LÀM PHản, một số chọn bỏ đi, một số chọn ở lại và quậy tung lâu đài của vua. Sau vài năm lục đục, gặp quân Miến Điện tiến vào, không còn nhân tài để đưa ra chiến tuyến, Vua ayuthaya thất thủ và bỏ chạy, để lại châu báu và những tài liệu tà thuật khó hiểu.

Sau một vài chục năm nữa, vua Taksin lên ngôi, người này theo hệ Ánh Sáng nên lại quy tụ được nhiều nhân tài, tuy các nhân tài hệ trong sáng đó không hề mạnh mẽ như nhóm sát thủ ayuthaya trước kia, nhưng với lòng kiên trì, cộng với lợi thế sân nhà, quân Miến ĐIện một phần nhớ mẹ ở quê, một phần đi chinh phạt đã lâu, nên khá mệt mỏi và thiếu chiến khí, cuối cùng đành đầu hàng và rút về nước, trả lại miền đất Siêm sự hòa bình, Taksin lập ra hòa bình từ đó và sau này mới có Thái Lan.

Lại nói về các nhân tài hắc ám của ayuthaya, gần như vô địch, bách chiến bách thắng lúc bấy giờ, cho đến nay sức mạnh của họ vẫn còn là bí ẩn
 
La mã Hy lạp cũng sụm bà chè đó thôi
Nhưng ít ra dấu tích của nền văn minh và những ảnh hưởng trong kiến trúc văn hoá tính thế tục của các nền văn minh này vẫn còn tồn tại tới tận nay. Còn Angkor là gần như là biến mất mấy trăm năm trong rừng sâu đến nổi mà tụi miên mọi nó ko hề biết sự tồn tại luôn mà, đến khi tụi Pháp nó tìm ra trong rừng sâu thì mới biết có cái nền văn minh đó
 
Tao cũng thắc mắc sao hậu bối của đế chế gì mà chán quá, hay tinh anh bị pốt nó tiễn hết đúng nghĩa, để cả một dân tộc tự bóp dái mình :haha: :haha: :haha:
Chả phải đâu .
Tinh anh éo giề 😄 😄. Kam thì tinh anh toàn gốc Hoa chứ lũ mọi miên thì lấy đâu tinh anh .
Cũng chỉ là cách nói để bào chữa, nói giảm nói tránh về gen thôi .
Giống như Việt vẫn hay nói là bị đốt và phá hết tất cả sách vở rồi các công trình, vv cho nên không có được những gì lớn lao.
Tinh anh thì đời nào chả có, tre già thì măng mọc thôi .
Cứ có tố chất và gen thì sau thời Pot bọn tinh anh sẽ lại xuất hiện thôi .
Cứ vin vào lý do là do Pot thì không đúng chút nào.
 
Mọi Miên chắc nô lệ của đế chế Angkor, sau này vì biến cố gì đó nên mới ở lại vùng đất đó mà phát triển còn đế chế Angkor thì biến mất:vozvn (14):
phi thăng tập thể chăng =)) chứ cam mọi dek bh có khả năng xây mấy công trình ntn
 
Angkor chắc nó được cai trị bởi 1 dân tộc gì đó phải đẳng cấp và kinh khủng về mặt trí tuệ lắm mới tạo ra được angkor wat. Bằng chứng là tụi miên mọi sau xây lại angkor thom rep 1:1 của angkor wat nhìn như cái đầu buồi. Khả năng trị thuỷ của dân angkor cổ vẫn là một sự đẳng cấp khác biệt so với tụi miên mọi, khi gần như tụi miên mọi không biết cách để trị thuỷ và khai phá đất đai hoang luôn.

thằng đứng đầu chắc là 1 tên/1 "nhóm lợi ích" khát máu tàn bạo, cho nên chủng tộc ấy phải giết tên/nhóm rồi tự hi sinh tuyệt diệt để cứu dân thường bản địa
 
Khmer là con cháu của Campus (com pus= đỉnh cao) sau này ghép thêm chữ cheat= tộc, vậy nên khi ghép từ Campus+ Cheat= Campucheat (Campuchia)= dân tộc thượng đẳng.
Không một ai dám phủ nhận trong lịch sử Khmer từng huy hoàng và rực rỡ như thế nào, chính vì thế mà Đế Quốc Angkor (Khmer) đã gây ảnh hưởng văn hóa rất lớn đến các tộc sanh sau đẻ muộn sống quanh vùng đất của Đế Quốc này.

Nói về văn hoá Khmer thì bây giờ phải nhắc đến Thailand là đất nước đã quảng bá thành công nhất văn hóa trang phục của Khmer. Bởi lẽ khi Angkor suy yếu thì Siamese (Thailand) đã nhanh chóng đô hộ Khmer và bắt Khmer cống nạp mọi văn hoá thượng tầng của Khmer cho họ. Và bây giờ kinh tế Thailand đang hơn Campuchea thì dĩ nhiên họ có điều kiện quảng bá tốt hơn, khiến ai cũng lầm tưởng đó là văn hoá Thai, trang phục Thai.
 
1. Khoa học kỹ thuật của Đế quốc Khmer
Đế quốc Khmer đạt được những thành tựu kỹ thuật đáng kinh ngạc, đặc biệt trong kiến trúc, thủy lợi, và thiên văn học, phù hợp với nhu cầu tôn giáo, nông nghiệp, và quản lý đô thị.
Kiến trúc và xây dựng:
Angkor Wat: Ngôi đền được xây dựng với đá sa thạch và đá ong (laterite), sử dụng kỹ thuật ghép đá không cần vữa với độ chính xác cao, đảm bảo độ bền qua hàng thế kỷ. Các khối đá nặng hàng tấn được vận chuyển từ núi Kulen (cách 50 km) bằng hệ thống kênh và bè.
Angkor Thom và Bayon: Quy hoạch đô thị với các trục đối xứng, tường thành, và hệ thống cổng lớn. Bayon có các tháp với khuôn mặt Phật khổng lồ, đòi hỏi kỹ thuật điêu khắc tinh vi.
Kỹ thuật quy hoạch: Angkor là một siêu đô thị với dân số ước tính hơn 1 triệu người, được quy hoạch với các đền, hồ chứa nước, và đường sá, thể hiện trình độ kỹ thuật đô thị tiên tiến.
Thủy lợi và nông nghiệp:
Hệ thống Baray: Các hồ chứa nước khổng lồ như West Baray (8 km x 2,2 km, dung tích khoảng 50 triệu m³) và East Baray được xây dựng để trữ nước, chống lũ, và cung cấp nước tưới cho nông nghiệp lúa nước. Hệ thống kênh rạch dài hàng trăm kilômét được tính toán chính xác để dẫn nước.
Kỹ thuật đào đắp: Người Khmer sử dụng các công cụ đơn giản nhưng hiệu quả (như cuốc, xẻng, và xe cút kít bằng gỗ) để di chuyển hàng triệu mét khối đất và đá, thể hiện khả năng tổ chức lao động quy mô lớn.
Thiên văn học:
Angkor Wat được thiết kế với sự liên kết thiên văn, các tháp và cổng vào được bố trí để đón ánh sáng mặt trời vào các ngày điểm phân và điểm chí. Điều này cho thấy người Khmer có hiểu biết về chu kỳ thiên văn và áp dụng vào kiến trúc tôn giáo.
Các phù điêu và bố cục đền phản ánh vũ trụ quan Hindu, với núi Meru (tháp trung tâm) là trung tâm vũ trụ.
Công nghệ sản xuất:
Người Khmer sử dụng lò luyện kim để sản xuất công cụ bằng sắt và đồng, hỗ trợ xây dựng và nông nghiệp.
Các kỹ thuật chạm khắc đá và điêu khắc phù điêu (như ở Angkor Wat) đòi hỏi công cụ tinh xảo và tay nghề cao.
Hạn chế: Đế quốc Khmer không có ghi chép rõ ràng về các tiến bộ khoa học lý thuyết (như toán học hay vật lý) và tập trung chủ yếu vào kỹ thuật thực tiễn phục vụ tôn giáo và nông nghiệp. Họ cũng không phát triển chữ viết kỹ thuật hoặc công nghệ hàng hải như các nền văn minh khác.
2. Khoa học kỹ thuật của các nền văn minh khác
a. Nhà Tống (Trung Quốc, 960-1279)
Nhà Tống là một trong những nền văn minh tiên tiến nhất về khoa học kỹ thuật vào thời kỳ này, với nhiều phát minh mang tính cách mạng.
Công nghệ in ấn: Nhà Tống hoàn thiện kỹ thuật in khắc gỗ và phát minh in chữ rời (bởi Bí Thăng, khoảng năm 1040), cách mạng hóa việc truyền bá tri thức.
Thuốc súng: Được phát triển và sử dụng trong quân sự (như pháo, tên lửa thô sơ), mang lại lợi thế chiến tranh.
La bàn hàng hải: La bàn từ tính được sử dụng trong hàng hải, giúp Nhà Tống mở rộng thương mại biển với Đông Nam Á, Ấn Độ, và Trung Đông.
Khoa học và toán học: Nhà khoa học Thẩm Quát có các nghiên cứu về thiên văn, địa chất, và toán học. Các bản đồ sao và đồng hồ thiên văn được cải tiến.
Kỹ thuật xây dựng: Nhà Tống xây dựng các cầu đá cong (như cầu Anji) và chùa tháp nhiều tầng (như Tháp Lưu Hạ), với kỹ thuật xây dựng phức tạp.
Hàng hải: Tàu biển lớn với nhiều buồng kín (bulkhead) giúp Nhà Tống thống trị thương mại hàng hải.
So sánh với Khmer: Nhà Tống vượt trội về khoa học lý thuyết, công nghệ in ấn, và hàng hải, trong khi Khmer tập trung vào kiến trúc tôn giáo và thủy lợi quy mô lớn. Nhà Tống có tác động toàn cầu lớn hơn nhờ thương mại và công nghệ.
b. Nhà Abbasid (Thế giới Hồi giáo, thế kỷ 8-13)
Thế giới Hồi giáo thời Nhà Abbasid là trung tâm tri thức của thế giới, với những tiến bộ vượt bậc.
Toán học và thiên văn học: Al-Khwārizmī đặt nền móng cho đại số (từ "algebra" bắt nguồn từ tên sách của ông). Các nhà thiên văn học Hồi giáo cải tiến astrolabe (dụng cụ đo thiên văn) và lập bảng chuyển động của các hành tinh.
Y học: Ibn Sina (Avicenna) viết Canon of Medicine, một bách khoa toàn thư y học được sử dụng đến tận thế kỷ 17 ở châu Âu.
Kỹ thuật xây dựng: Các công trình như Đại thánh đường Samarra và các cung điện ở Baghdad thể hiện kỹ thuật xây dựng vòm và mái cong phức tạp.
Công nghệ giấy: Thế giới Hồi giáo hoàn thiện kỹ thuật sản xuất giấy từ Trung Quốc, thúc đẩy việc lưu trữ và truyền bá tri thức.
Kỹ thuật thủy lợi: Hệ thống qanat (kênh dẫn nước ngầm) và cối xay gió được sử dụng để tưới tiêu và sản xuất.
So sánh với Khmer: Nhà Abbasid dẫn đầu về khoa học lý thuyết (toán học, y học) và công nghệ giấy, trong khi Khmer mạnh hơn về kỹ thuật xây dựng quy mô lớn và thủy lợi. Các công trình của Khmer như Angkor Wat có thể sánh ngang về độ phức tạp với các thánh đường Hồi giáo.
c. Triều đại Chola (Ấn Độ, thế kỷ 9-13)
Triều đại Chola ở Nam Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng với Đế quốc Khmer do ảnh hưởng chung của Hindu giáo.
Kiến trúc: Đền Brihadeeswarar (hoàn thành năm 1010) ở Thanjavur là một kiệt tác với tháp cao 66 m, sử dụng đá granite nặng, tương tự kỹ thuật xây dựng của Khmer.
Hàng hải và kỹ thuật đóng tàu: Chola có hải quân mạnh, xây dựng tàu lớn để chinh phục Sri Lanka và Đông Nam Á, vượt trội hơn Khmer về công nghệ hàng hải.
Thiên văn học: Người Chola sử dụng các quan sát thiên văn để xây dựng đền đài và xác định thời điểm nghi lễ, tương tự Khmer.
Thủy lợi: Hệ thống kênh và hồ chứa nước (như hồ Veeranam) hỗ trợ nông nghiệp, nhưng không đạt quy mô lớn như các Baray của Khmer.
So sánh với Khmer: Chola và Khmer có trình độ tương đương về kiến trúc đền đài và thủy lợi, nhưng Chola vượt trội hơn về hàng hải và quân sự trên biển.
d. Đế quốc Byzantine (thế kỷ 9-12)
Kiến trúc: Hagia Sophia (hoàn thành thế kỷ 6, nhưng vẫn được cải tạo) là biểu tượng của kỹ thuật xây vòm lớn và khảm mosaic tinh xảo. Các công trình phòng thủ như tường thành Constantinople thể hiện kỹ thuật xây dựng tiên tiến.
Kỹ thuật quân sự: Byzantine phát triển lửa Hy Lạp (Greek Fire), một loại vũ khí phun lửa dùng trong chiến tranh hải quân.
Kỹ thuật cơ khí: Sử dụng các thiết bị thủy lực và cơ khí (như đồng hồ nước) trong cung điện và công trình công cộng.
So sánh với Khmer: Byzantine có kỹ thuật quân sự và cơ khí tiên tiến hơn, nhưng các công trình kiến trúc của Khmer như Angkor Wat vượt trội về quy mô và tính biểu tượng tôn giáo.
e. Châu Âu thời Trung cổ (thế kỷ 9-12)
Nông nghiệp: Sự ra đời của cày nặng và luân canh ba vụ giúp tăng năng suất nông nghiệp, tương tự hệ thống thủy lợi của Khmer.
Kiến trúc: Phong cách Romanesque (như Nhà thờ Speyer) sử dụng vòm và cột lớn, nhưng quy mô nhỏ hơn Angkor Wat.
Kỹ thuật quân sự: Các lâu đài đá bắt đầu được xây dựng, nhưng công nghệ xây dựng châu Âu lúc này kém phức tạp hơn Khmer.
So sánh với Khmer: Châu Âu thời kỳ này tụt hậu so với Khmer về kiến trúc và thủy lợi, nhưng bắt đầu có những cải tiến nông nghiệp tương tự.
3. Tổng kết so sánh
Điểm mạnh của Đế quốc Khmer:
Kiến trúc: Angkor Wat và Angkor Thom là những công trình có quy mô và độ tinh xảo sánh ngang hoặc vượt trội so với các công trình cùng thời như Hagia Sophia hay Đền Brihadeeswarar.
Thủy lợi: Hệ thống Baray và kênh rạch là độc nhất về quy mô, chỉ có thể so sánh với các hệ thống thủy lợi ở Nhà Tống hoặc thế giới Hồi giáo.
Thiên văn học thực tiễn: Sự liên kết thiên văn trong thiết kế Angkor Wat cho thấy hiểu biết sâu sắc, dù không được ghi chép như ở Nhà Tống hay Abbasid.
Hạn chế của Khmer:
Thiếu các tiến bộ khoa học lý thuyết (toán học, y học) như Nhà Tống hoặc Abbasid.
Không phát triển công nghệ in ấn, hàng hải, hay quân sự tiên tiến như Nhà Tống, Chola, hoặc Byzantine.
So với thế giới:
Nhà Tống dẫn đầu về công nghệ (in ấn, thuốc súng, la bàn), khoa học lý thuyết, và thương mại toàn cầu.
Nhà Abbasid vượt trội về toán học, y học, và truyền bá tri thức.
Chola tương đồng với Khmer về kiến trúc và thủy lợi, nhưng mạnh hơn về hàng hải.
Byzantine nổi bật về kỹ thuật quân sự và cơ khí.
Châu Âu tụt hậu hơn về kiến trúc và khoa học, nhưng bắt đầu cải tiến nông nghiệp.
4. Kết luận
Trong thời kỳ cực thịnh, Đế quốc Khmer đạt được những thành tựu kỹ thuật xuất sắc trong kiến trúc (Angkor Wat, Angkor Thom) và thủy lợi (Baray), sánh ngang với các nền văn minh lớn như Nhà Tống, Abbasid, hay Chola. Tuy nhiên, Khmer tập trung vào kỹ thuật thực tiễn phục vụ tôn giáo và nông nghiệp, trong khi các nền văn minh như Nhà Tống và Abbasid dẫn đầu về khoa học lý thuyết và công nghệ toàn cầu.
 
Đế quốc ccc ấy, mở rộng lãnh thổ chỉ lo vơ vét để đầu tư cho kinh đô, không lo đầu tư cho các vùng đất xa trung tâm thì chỉ vài thế hệ dân chịu không nổi họ đập nát.
 
Hình như ông vua xây cái đền này chết tại thanh hoá nghệ an thì phải
Từ đó 3 vùng này nổi tiếng với người xa xứ + địa linh nhân kiệt
 

Có thể bạn quan tâm

Top