Live Đông xưởng - cơ quan mật thám tà ác nhất lịch sử Trung Hoa, “đè đầu” cả Cẩm Y vệ

  • Tạo bởi Tạo bởi markng
  • Start date Start date

markng

Chú bộ đội
Vatican-City

Trung Quốc thời Minh được ví như “triều đại của mật vụ”, trong đó nổi tiếng nhất là Cẩm Y Vệ – lực lượng tập hợp nhiều cao thủ võ nghệ, tàn nhẫn khét tiếng.


[TR]
[td]
Nhà Minh còn được biết tới là “triều đại mật thám”, “triều đại hoạn quan” trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Minh nổi tiếng với các tổ chức mật thám như Cẩm Y vệ, Đông xưởng, Tây Xưởng tập hợp nhiều cao thủ võ nghệ, khét tiếng tàn bạo. Loạt bài sau đây sẽ hé lộ phần nào bí ẩn đằng sau các tổ chức “hắc ám” này.​
[/td]​
[/TR]

Chu Nguyên Chương – người sáng lập tổ chức Cẩm Y vệ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
Chu Nguyên Chương – người sáng lập tổ chức Cẩm Y vệ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
1. “Ưng khuyển triều đình”

Năm 1368, sau khi đánh bại nhà Nguyên và các thế lực cát cứ chống đối, Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) lên ngôi hoàng đế nhưng trong lòng vẫn lo lắng không yên. Thế lực khiến ông e ngại nhất là các quan “khai quốc công thần” đang nắm quyền lực quá lớn, có binh quyền trong tay.
Với bản tính đa nghi, Chu Nguyên Chương cho rằng một ngày nào đó, ngai vàng mà ông vất vả giành được cho con cháu sẽ bị các quan đại thần cướp đoạt. Chu Nguyên Chương rắp tâm thực hiện một cuộc thanh trừng quy mô lớn. Để làm được điều này, ông cần lực lượng riêng và phải tuyệt đối trung thành.
Minh sử chép, năm 1368, Chu Nguyên Chương cho lập Củng vệ ty, đội ngự lâm quân chuyên bảo vệ hoàng đế.
Năm 1369, Chu Nguyên Chương cho sáp nhập Củng vệ ty với Nghi loan ty (đội cận vệ chuyên lo việc nghi lễ) thành Thân quân Đô úy phủ.
Có lực lượng riêng trong tay, Chu Nguyên Chương nhắm tới thừa tướng Hồ Duy Dung đầu tiên. Năm 1380, Hồ Duy Dung bị khép tội mưu phản, cả nhà bị xử tử. Chu Nguyên Chương còn ra lệnh cho người của Thân quân Đô úy phủ truy bắt các “đồng đảng” của Hồ Duy Dung.
Theo Minh sử, số người bị khép tội, bị xử tử trong vụ án Hồ Duy Dung liên tới hơn 10.000 người (có tài liệu chép là hơn 15.000 người). Quan thái sư nhà Minh là Lý Thiện Trường cũng bị cuốn vào vụ án này và bị xử tử cả nhà.

Cẩm Y vệ giúp Chu Nguyên Chương thanh trừng công thần (tranh: Sina)
Cẩm Y vệ giúp Chu Nguyên Chương thanh trừng công thần (tranh: Sina)
Năm 1382, Thân quân Đô úy phủ đổi tên thành Cẩm Y vệ (lính áo gấm), do Chu Nguyên Chương trực tiếp quản lý.
Theo China Daily, ban đầu, Cẩm Y vệ chỉ có khoảng 500 người, nhiệm vụ của họ là bảo vệ an nguy của hoàng đế. Qua thời gian, lực lượng Cẩm Y vệ ngày càng mở rộng, kèm theo đó là quyền lực to lớn hơn.

Đến năm 1385, quân số Cẩm Y vệ đã lên tới hơn 14.000 người, phân bổ rải rác khắp Nam Kinh (kinh đô của nhà Minh thời Chu Nguyên Chương). Ngoài bảo vệ hoàng đế, Cẩm Y vệ còn có nhiệm vụ tra xét quan lại, do thám dân tình, bắt bớ và ngăn chặn các âm mưu tạo phản. Cẩm Y vệ cũng có cơ quan xét xử, tra khảo và giam giữ riêng.
Theo Sohu, giai đoạn đầu hoạt động, Cẩm Y vệ được Chu Nguyên Chương trao cho quyền lực rất lớn. Họ có thể bắt giữ bất kỳ người nào, ngay cả quan lại cấp cao, hoàng thân quốc thích. Bên trong các cơ sở giam giữ, Cẩm Y vệ dùng đủ mọi thủ đoạn tra tấn, bức cung, ép phải nhận tội.
Cẩm Y vệ nằm ngoài cơ cấu của lục bộ (6 bộ trong triều đình nhà Minh). Họ chỉ nhận lệnh và báo cáo trực tiếp cho hoàng đế. Đứng đầu Cẩm Y vệ là quan Chỉ huy sứ do hoàng đế bổ nhiệm (thường là người trong hoàng tộc hoặc tướng lĩnh trung thành với hoàng đế). Chỉ huy sứ đầu tiên của Cẩm Y vệ là Giang Hoàn.
Năm 1393, Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ Giang Hoàn báo cáo tướng quân Lam Ngọc (tước hiệu Lương quốc công) âm mưu tạo phản. Chu Nguyên Chương lập tức cho bắt Lam Ngọc và “đồng đảng”. Trong vụ này số người bị khép tội, bị xử tử lên tới hơn 15.000 người (có tài liệu chép là hơn 20.000 người).
Theo Sohu, sau 2 vụ đại án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, triều đình nhà Minh “sạch bóng” công thần, chính trị phủ một màu u ám vì sự lộng hành của Cẩm Y vệ. Dân gian vừa căm ghét, vừa sợ hãi Cẩm Y vệ. Họ gọi lực lượng này là “ưng khuyển triều đình” (chim ưng và chó săn của triều đình).
Minh sử chép, dưới thời Chu Nguyên Chương, quan lại trước khi lên chầu thì khóc lóc từ biệt vợ con, nếu còn trở về thì cả nhà mừng rỡ, mở tiệc ăn mừng như vừa thoát được một kiếp nạn. Cẩm Y vệ mặc sức bắt người, tra tấn và khép tội để “tâng công” với hoàng đế. Hàng nghìn người phải chết oan dưới lưỡi đao của Cẩm Y vệ, tiếng ai oán rộ lên khắp nơi.
Nhận thấy quyền lực của Cẩm Y vệ trở nên quá lớn, thậm chí mất kiểm soát, Chu Nguyên Chương lấy cớ Cẩm Y vệ xử nhiều án oan, ra lệnh xử tử Giang Hoàn để yên lòng dân. Ông cũng cho đốt các hình cụ tra tấn của Cẩm Y vệ và hạn chế quyền lực của lực lượng này.

Lực lượng Cẩm Y vệ nổi tiếng tàn nhẫn, hắc ám (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
Lực lượng Cẩm Y vệ nổi tiếng tàn nhẫn, hắc ám (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
Năm 1402, Minh Thành Tổ (Chu Đệ) lên ngôi, cho khôi phục quyền lực của Cẩm Y vệ. Sau này, các hoàng đế nhà Minh còn thành lập thêm Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Hành Xưởng. Nhà Minh vì vậy nổi tiếng với “tam Xưởng nhất Vệ”.
Theo China Daily, thời Minh Vũ Tông (1491 – 1521), quyền lực của Cẩm Y vệ vươn tới đỉnh cao. Lúc này, lực lượng Cẩm Y vệ lên tới hơn 200.000 người, quá đủ để kiểm soát và quản lý dân số khoảng 125 triệu người (thời nhà Minh). Thành viên Cẩm Y vệ có quyền điều tra, giam giữ và tra tấn bất cứ ai mà không cần qua xét xử. Họ nhận lệnh trực tiếp và báo cáo công việc cho hoàng đế.
Thời Minh Vũ Tông, quyền lực của Cẩm Y vệ bao trùm kinh thành, sau đó lan ra cả nước. Đến thời Minh Thần Tông (1563 – 1620), Cẩm Y vệ còn được cử ra nước ngoài hoạt động.
Năm 1592, Nhật Bản xâm lược Triều Tiên (lúc này là chư hầu của nhà Minh), Minh Vũ Tông đã điều hơn 8 vạn quân cứu viện. Cẩm Y vệ cũng được điều tới Triều Tiên để làm nhiệm vụ tình báo, báo cáo trực tiếp tình hình chiến sự cho Minh Vũ Tông. Năm 1598, Nhật Bản kết thúc nỗ lực xâm lược Triều Tiên trong thất bại.
Từ góc nhìn hiện đại, Cẩm Y vệ giống như một cơ quan phức hợp giữa cục điều tra, cục an ninh và cục tình báo của một quốc gia, theo Qulishi.

Tạo hình của lính Cẩm Y vệ trên phim với Tú Xuân đao và Phi Ngư phục (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
Tạo hình của lính Cẩm Y vệ trên phim với Tú Xuân đao và Phi Ngư phục (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
2. Tú Xuân đao và Phi Ngư phục

Theo Sohu, hầu hết thành viên Cẩm Y vệ đều có võ công cao cường và được đào tạo về kỹ năng điều tra, do thám. Họ cũng được trang bị nhiều loại vũ khí tốt bao gồm đao, kiếm dài, kiếm ngắn, nỏ, giáp nhẹ, các loại ám khí và nổi tiếng nhất là Tú Xuân đao.
Trong nhiều bộ phim kiếm hiệp, lính Cẩm Y vệ thường mặc một bộ y phục màu đen hoặc đỏ, bên trên thêu hình một con cá đầu rồng, có cánh, đang bay trong mây (Phi Ngư phục), trên hông đeo Tú Xuân đao. Lính Cẩm Y vệ cũng có một lệnh bài để chứng minh thân phận.
Trên thực tế, chỉ có lính Cẩm Y vệ cấp bậc cao mới được trang bị Tú Xuân đao và mặc Phi Ngư phục, theo Sohu.
Theo mô tả của Sohu, Tú Xuân đao dài khoảng 77cm, trong đó phần lưỡi đao dài khoảng 52cm, phần cán đao dài gần 16cm. Tú Xuân đao được rèn từ loại thép tốt nhất, do vậy phần sống đao dù rất mỏng (chỉ khoảng 0,7cm) nhưng vẫn đủ cứng cáp. Trọng lượng cả thanh đao (không tính phần vỏ) chỉ nặng 1,24kg, rất gọn nhẹ.
Với chất lượng như vậy, việc rèn Tú Xuân đao không hề dễ dàng. Vì vậy, món vũ khí này không thể được trang bị cho từng thành viên trong lực lượng đông tới hàng vạn người của Cẩm Y vệ.
Về Phi Ngư phục, chỉ có “Đường thượng quan” (cấp chỉ huy trong mỗi đơn vị thuộc Cẩm Y vệ) mới được mặc và họ cũng chỉ mặc trong các nghi lễ quan trọng của triều đình.
Đối với lính Cẩm Y vệ bình thường, họ được mặc áo gấm màu xanh lá hoặc màu đen. So với quân lính trong quân đội, đãi ngộ của lính Cẩm Y vệ tốt hơn hẳn. Điều này là dễ hiểu vì họ làm việc dưới quyền hoàng đế.

Lính Cẩm Y vệ được trang bị các vũ khí đặc biệt (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
Lính Cẩm Y vệ được trang bị các vũ khí đặc biệt (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)
3. Biến mất khỏi dòng lịch sử

Cuối thời Minh, lực lượng Cẩm Y vệ ngày càng suy yếu và thối nát. Đó là lúc xuất hiện một lực lượng mới có quyền thế đến mức biến Cẩm Y vệ thành tay sai, theo Sohu.
Minh sử chép, thời Minh Hy Tông (1605 – 1627) quan Thiên hộ Cẩm Y vệ Khách Quang Tiên (chức Thiên hộ tương đương với cấp chỉ huy 1.000 lính Cẩm Y vệ) và Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ Điền Nhĩ Canh tự nhận là con nuôi của Ngụy Trung Hiền – đề đốc Đông Xưởng.
Nắm được Cẩm Y vệ trong tay, Ngụy Trung Hiền làm đủ trò xằng bậy, hãm hại những người không cùng phe cánh.
Cẩm Y vệ lúc này đã mất đi chức năng vốn có, đến nỗi Trương Tiến Trung, Lý Tự Thành khởi nghĩa ở Thiểm Tây, các “mật thám” của Cẩm Y vệ cũng không hề phát giác hay ngăn chặn.
Theo Minh sử, Chỉ huy sứ cuối cùng của Cẩm y vệ là Lạc Dưỡng Tính (? – 1649). Ông rất được Sùng Trinh, hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, tín nhiệm.
Đáng tiếc là Sùng Trinh đã nhìn lầm người.
Tháng 4/1644, quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, Lạc Dưỡng Tính lựa chọn đầu hàng. Sùng Trinh phải thắt cổ chết.
Bị quân khởi nghĩa uy hiếp, đánh dập, Lạc Dưỡng Tính phải dâng 30.000 lạng bạc để đổi lấy mạng sống.
Tháng 5/1644, quân Thanh đánh bại quân Lý Tự Thành. Quân Thanh tiến vào Bắc Kinh, Lạc Dưỡng Tính lại dẫn một nhóm quân Minh ra đầu hàng. Lạc Dưỡng Tính được phong một chức quan ở tỉnh Chiết Giang và qua đời tại đó.

Tranh vẽ một lần tuần du của hoàng đế nhà Minh, Cẩm Y vệ đi đầu để bảo vệ (ảnh: Sohu)
Tranh vẽ một lần tuần du của hoàng đế nhà Minh, Cẩm Y vệ đi đầu để bảo vệ (ảnh: Sohu)
Sau khi chiếm được Trung Hoa, nhà Thanh cũng học hỏi nhà Minh thành lập Cẩm Y vệ, nhưng chỉ là một lực lượng nhỏ và mang tính nghi lễ. Năm 1645, nhà Thanh loại bỏ hẳn Cẩm Y vệ, trách nhiệm bảo vệ hoàng đế và hoàng tộc được giao cho Thị vệ xứ.
Theo Qulishi, cuối thời Minh, lực lượng Cẩm Y vệ dù vẫn còn đông đảo, được trang bị tốt nhưng trở nên vô kỷ luật và mất ý chí chiến đấu. Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ Lạc Dưỡng Tính dù được giao trọng trách nhưng lại thể hiện là kẻ tham sống sợ chết, chủ động đầu hàng quân địch, kể cả là ngoại bang (quân Thanh).
Đây là lý do chính khiến lực lượng khét tiếng một thời “biến mất” khỏi dòng lịch sử mà không phải do một trận ác chiến nào.

 

Cẩm Y vệ nổi tiếng với hàng vạn cao thủ võ nghệ, hành động tàn nhẫn, tuy nhiên, đây chưa phải tổ chức mật thám quyền lực nhất thời Minh.



Nhà Minh còn được gọi là “triều đại hoạn quan” (ảnh: Sohu)

Nhà Minh còn được gọi là “triều đại hoạn quan” (ảnh: Sohu)

1. Hoạn quan cầm đầu phái “yêu ma”

Minh sử chép, thời Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ), Cẩm Y vệ được thành lập. Lực lượng này liên quan trực tiếp đến 2 vụ đại án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, khiến hàng vạn người bị đồ sát, tù đày.

Năm 1398, Chu Nguyên Chương băng hà, quyền lực nghiêng trời của Cẩm Y vệ cũng “chết” theo ông ta.

Cùng năm 1398, Kiến Văn Đế (cháu của Chu Nguyên Chương) nối ngôi, chủ trương cai trị đất nước bằng lòng khoan dung, trọng dụng quan lại nhưng kìm hãm quyền lực của các thân vương (con trai của Chu Nguyên Chương).

Năm 1402, Chu Đệ – một trong các thân vương – làm phản, lật đổ Kiến Văn Đế. Chu Đệ lên ngôi, lấy hiệu là Vĩnh Lạc Đế.

Minh sử chép, ngày 13/6/1402, quân Yên vương Chu Đệ tiến vào Nam Kinh. Kinh thành bị đốt phá dữ dội nhưng quân Yên vương không bắt được Kiến Văn Đế. Có giả thuyết cho rằng Kiến Văn Đế chết trong đám cháy, cũng có thuyết cho rằng ông đã bỏ trốn, mai danh ẩn tích.

Hoàng đế Chu Nguyên Chương vô cùng căm ghét hoạn quan lộng quyền (ảnh: China Times)

Hoàng đế Chu Nguyên Chương vô cùng căm ghét hoạn quan lộng quyền (ảnh: China Times)

Theo Sohu, vốn lên ngôi bằng cách cướp ngai vàng của người cháu, Chu Đệ trở nên đa nghi không kém gì Chu Nguyên Chương. Để trấn áp các thế lực chống đối đồng thời truy bắt Kiến Văn Đế (có thể còn sống) Chu Đệ cho khôi phục quyền lực của Cẩm Y vệ và mở rộng lực lượng như thời Chu Nguyên Chương.

Nhận thấy lực lượng của Cẩm Y vệ khó kiểm soát và làm việc không hiệu quả, năm 1420, Chu Đệ cho thành lập Đông xưởng (tên đầy đủ là Đông tập sự xưởng).

Nhiệm vụ của Đông xưởng là quản lý hoạt động của Cẩm Y vệ, giám sát quan lại và báo cáo trực tiếp cho hoàng đế. Đứng đầu Đông xưởng là các hoạn quan thân tín của Chu Đệ.

Theo Sohu, với việc thành lập Đông xưởng, cho hoạn quan can dự triều chính, Chu Đệ đã đi ngược lại “tổ huấn” của Chu Nguyên Chương.

Minh sử chép, năm Hồng Vũ thứ nhất (1368), hoàng đế (Chu Nguyên Chương) nhắc lại tình hình loạn lạc cuối thời Hán, thời Đường đều do hoạn quan gây ra, vì vậy vô cùng chán ghét. Thời Chu Nguyên Chương trị vì, ông đã 7 lần ra lệnh cấm các hoạn quan can dự vào việc triều đình.

Năm Hồng Vũ thứ mười (1378), một hoạn quan đã phục vụ lâu năm “lỡ lời” chỉ ra lỗi sai của công văn. Chu Nguyên Chương lập tức cách hết chức tước, đuổi ông ta về quê.

Năm Hồng Vũ thứ mười bảy (1385), Chu Nguyên Chương cho đúc một tấm bảng sắt, bên trên khắc chữ: “Hoạn quan không được phép can dự triều chính. Kẻ phạm tội ắt sẽ trảm”. Chu Nguyên Chương cũng cấm các hoạn quan học chữ, đọc sách.

Chu Nguyên Chương hà khắc với hoạn quan, nhưng con trai ông (Chu Đệ) thì hoàn toàn ngược lại.

Theo Sohu, trong quá trình khởi binh tạo phản, Chu Đệ nhận được sự tham mưu và giúp đỡ của nhiều hoạn quan, nổi bật trong số đó là Trịnh Hòa (người từng dẫn hạm đội nhà Minh 7 lần thám hiểm Tây dương).

Vì vậy, trong mắt Chu Đệ, hoạn quan còn đáng tin hơn nhóm quan lại từng phục vụ dưới trướng Kiến Văn Đế.

Năm 1420, Chu Đệ lập ra Đông xưởng, cho phép đặt nha môn ở cạnh Đông Hoa môn (cửa phía đông Tử Cấm Thành). Vì cửa nha môn của Đông xưởng gồm 6 cánh lớn ghép lại với nhau, nên dân gian còn dùng cái tên Lục phiến môn để gọi Đông xưởng.

Trong nhiều bộ phim kiếm hiệp Trung Quốc, cái tên Lục phiến môn cũng thường xuyên xuất hiện. Đây không phải môn phái võ lâm nào mà là tổ chức mật thám của triều Minh.

Theo Sohu, với việc thành lập Đông xưởng, Chu Đệ là người đã mở ra “triều đại hoạn quan” trong lịch sử Trung Quốc.

Cuối thời Minh, đám hoạn quan trong Đông xưởng hoành hành, hãm hại quan lại không cùng phe cánh, tàn sát người vô tội. Dân gian gọi Đông xưởng là “đảng hoạn quan” hoặc “phái yêu ma”.

Đông xưởng tồn tại từ năm 1420 đến năm 1644 (khi nhà Minh sụp đổ). Quyền lực của Đông xưởng có lúc yếu lúc mạnh, nhưng tổ chức này chưa bao giờ bị dẹp bỏ.

Sự lũng đoạn của Đông xưởng cũng là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến nhà Minh sụp đổ.

Lực lượng Cẩm Y vệ chỉ còn là “con rối” trong tay Đông xưởng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Lực lượng Cẩm Y vệ chỉ còn là “con rối” trong tay Đông xưởng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

2. Tổ chức và quyền lực

Theo China Times, Đông xưởng thực chất là một cơ quan gián điệp và mật thám do hoạn quan điều hành. Thành viên của Đông xưởng chịu trách nhiệm quản lý Cẩm Y vệ, giám sát và theo dõi từ hoàng tộc, quan lại, giới trí thức, thương nhân đến dân đen.

Nếu tra ra tội nhẹ thì Đông xưởng trực tiếp xử lý, không cần thông qua cơ quan nào. Nếu phát hiện tội nặng thì Đông xưởng báo cáo và xin chỉ thị từ hoàng đế. “Tai mắt” của Đông xưởng rải khắp nơi, ngay cả lực lượng Cẩm Y vệ cũng phải chịu dưới quyền điều động của Đông xưởng.

Theo China Times, sau khi Đông xưởng thành lập, Cẩm Y vệ không còn là tổ chức mật thám mạnh nhất, ngược lại còn “lọt vào tầm ngắm” của Đông xưởng. Xét cho cùng thì việc “bới móc” tội lỗi của Cẩm Y vệ cũng là cách Đông xưởng lập công. Các hoạn quan của Đông xưởng cũng thân cận và được hoàng đế tin tưởng hơn so với Cẩm Y vệ.

Minh sử chép, biên chế của Đông xưởng có hơn ngàn người, đứng đầu là quan Đề đốc (còn gọi là Xưởng công). Các hoạn quan quyền lực thời Minh như Vương Chấn, Lưu Cẩn, Phùng Bảo và Ngụy Trung Hiền đều từng giữ chức Đề đốc Đông xưởng.

Trong thời gian 4 hoạn quan này nắm quyền, chỉ huy Cẩm Y vệ chỉ có thể quỳ gối và khấu đầu trước Đề đốc Đông xưởng.

Cuối thời Minh, Đông xưởng còn có lực lượng chiến thuật và nhà tù riêng.

Đông xưởng xử nhiều án oán, lũng đoạn nhà Minh (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Đông xưởng xử nhiều án oán, lũng đoạn nhà Minh (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Vũ khí tiêu chuẩn của thành viên Đông xưởng là song kiếm. Trong đó, có một thanh kiếm khắc chữ “東” (Đông) và một thanh kiếm khắc chữ “廠” (Xưởng) trên cán kiếm.

Theo Sohu, loại vũ khí này chủ yếu mang tính nghi lễ vì thành viên của Đông xưởng ít khi phải chiến đấu.

Theo China Times, thông qua thu thập thông tin tình báo, Đông xưởng có thể trực tiếp bắt giữ và tra khảo quan lại cấp thấp mà không cần thông qua cơ quan khác. Đối với quan lại cấp cao và hoàng tộc, Đông xưởng chỉ có thể bắt giữ họ nếu được hoàng đế cho phép.

Mặc dù mang tiếng là phái “yêu ma”, nhưng không thể phủ nhận rằng Đông xưởng có tổ chức nhân sự và cắt đặt công việc khá chặt chẽ, khoa học.

Minh sử chép, vào ngày mùng 1 hàng tháng, thành viên của Đông xưởng đều phải tập trung ở nha môn để nghe phân công công việc. Họ cũng tổ chức rút thăm để nhận địa bàn phụ trách.

Thành viên của Đông xưởng dù là chức lớn hay nhỏ đều có tên gọi đặc thù.

Theo đó, người giám sát khi quan lại tra hỏi tội phạm trong nhà lao và ghi chép tin tức về việc Cẩm Y vệ bắt người gọi là “thính ký”.

Người giám sát hoạt động điều tra án, bắt giữ người của quan lại gọi là “tá sự kiện”.

Người giám sát việc xử án của quan lại gọi là “tọa ký”.

Với cơ cấu chặt chẽ như vậy, cùng với việc nắm Cẩm Y vệ trong tay, Đông xưởng khó có thể để quan viên sai phạm nào “lọt lưới”.



Tượng Nhạc Phi – danh tướng thời Tống (ảnh: Sina)

Tượng Nhạc Phi – danh tướng thời Tống (ảnh: Sina)

3. Đông xưởng hủy hoại nhà Minh

Theo China Times, trong giai đoạn đầu hoạt động, Đông xưởng đã phát huy hiệu quả trong việc kiềm chế Cẩm Y vệ, thanh trừng quan lại tham nhũng và tăng quyền lực cho hoàng đế.

Bên trong nha môn Đông xưởng, người ta còn đặt một bức họa lớn vẽ Nhạc Phi (1103 – 1142). Nhạc Phi là danh tướng nổi tiếng trung nghĩa thời Tống, nhưng bị khép án oan và xử tử. Cái chết của ông khiến rất nhiều người căm phẫn.

Bức họa Nhạc Phi là lời nhắc nhở đối với người trong Đông xưởng, đó là không được xử án oan, theo Sohu.

Tuy nhiên, cuối thời Minh, Đông xưởng ngày càng trở nên biến chất và lộng quyền. Họ thường xuyên thêu dệt tội danh, vu oan giá họa cho dân lành để trục lợi. Đối với quan viên trong triều tỏ ý chống đối, Đông xưởng lập tức cho người bắt giữ, dùng cực hình tra khảo, ép phải ký vào giấy nhận tội.

Đề đốc Đông xưởng từng nắm quyền lực lớn nhất và khét tiếng tàn độc là Ngụy Trung Hiền (1568 – 1627).

Minh sử chép, năm 1621, Ngụy Trung Hiền được Minh Hy Tông phong chức Bỉnh bút thái giám (thái giám giữ bút) đứng đầu 24 viên hoạn quan hầu cận hoàng đế. Chức Bỉnh bút thái giám có nhiệm vụ tham mưu, hỗ trợ hoàng đế phê duyệt tấu chương, truyền đạt thánh chỉ.

Ngụy Trung Hiền – hoạn quan cầm đầu Đông xưởng làm nhà Minh nghiêng đổ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Ngụy Trung Hiền – hoạn quan cầm đầu Đông xưởng làm nhà Minh nghiêng đổ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Năm 1623, Ngụy Trung Hiền kiêm cả chức Đề đốc Đông xưởng. Lúc này, thế lực của ông ta đã rất lớn, quyền hành ngang Tể tướng (thời vua Chu Nguyên Chương đã bãi bỏ chức vụ này).

Ngụy Trung Hiền cầm đầu “đảng hoạn quan”, những quan lại cao cấp như Thôi Trình Tú (Thượng thư bộ binh), Khách Quang Tiên (Thiên hộ Cẩm Y vệ), Điền Nhĩ Canh (Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ) chỉ có thể nhận làm con nuôi của ông ta.

Minh sử chép, nội các triều đình đều là tay chân của Ngụy Trung Hiền, quan lại tranh nhau gọi ông ta là cha, là ông nội. Năm 1626, có viên Tuần phủ Chiết Giang lập đền thờ để thờ sống Ngụy Trung Hiền. Ai đi qua đều phải lạy 5 lạy, tung hô “thiên tuế”. Quan lại cả nước đều bắt chước theo.

Năm 1625, Ngụy Trung Hiền thanh trừng những người không cùng phe cánh thuộc phái Đông Lâm. Một số viên quan đứng đầu phái này như Dương Liên, Uông Văn Ngôn, Hùng Đình Bật bị khép tội oan, bị xử tử hoặc buộc phải tự sát. Số người liên quan đến “vụ án phái Đông Lâm” bị khép tội, xử tử lên tới hàng ngàn.

Theo Sohu, thời Ngụy Trung Hiền làm Đề đốc, hành động của Đông xưởng trở nên cực kỳ tàn bạo. Người bị Đông xưởng bắt giữ phải nếm đủ loại cực hình tra khảo, từ đánh đập, còng, cùm, kẹp, cắt, nhấn nước, đến nướng đốt, cho côn trùng độc cắn… Những người phải chịu những cực hình này có thể nói là “sống không bằng chết”.

Là quan Đề đốc Đông xưởng, Ngụy Trung Hiền còn cho thành lập một lực lượng riêng. Dù không đông đảo như Cẩm Y vệ, nhưng lực lượng này vẫn đủ sức thực hiện các vụ bắt bớ, tàn sát các thế lực chống đối.

Đông xưởng thậm chí từng sở hữu lực lượng riêng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Đông xưởng thậm chí từng sở hữu lực lượng riêng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Tuy nhiên, ngày tháng “làm mưa làm gió” của Ngụy Trung Hiền không kéo dài. Năm 1627, Minh Hy Tông băng hà. Chu Do Kiểm kế vị, lấy hiệu là Sùng Trinh.

Vốn vô cùng căm ghét Ngụy Trung Hiền, chỉ 2 tháng sau khi lên ngôi, Sùng Trinh Đế đã ra lệnh cách hết chức tước của ông ta. Ngụy Trung Hiền sợ tội, phải thắt cổ chết.

Sai lầm của Sùng Trinh Đế là tiếp tục trọng dụng hoạn quan và không giải tán Đông xưởng.

Tháng 4/1644, quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành tiến vào Bắc Kinh. Cùng với sự chấm dứt của nhà Minh, Đông xưởng cũng bị giải tán.
 

Cẩm Y vệ nổi tiếng với hàng vạn cao thủ võ nghệ, hành động tàn nhẫn, tuy nhiên, đây chưa phải tổ chức mật thám quyền lực nhất thời Minh.



Nhà Minh còn được gọi là “triều đại hoạn quan” (ảnh: Sohu)

Nhà Minh còn được gọi là “triều đại hoạn quan” (ảnh: Sohu)

1. Hoạn quan cầm đầu phái “yêu ma”

Minh sử chép, thời Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ), Cẩm Y vệ được thành lập. Lực lượng này liên quan trực tiếp đến 2 vụ đại án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, khiến hàng vạn người bị đồ sát, tù đày.

Năm 1398, Chu Nguyên Chương băng hà, quyền lực nghiêng trời của Cẩm Y vệ cũng “chết” theo ông ta.

Cùng năm 1398, Kiến Văn Đế (cháu của Chu Nguyên Chương) nối ngôi, chủ trương cai trị đất nước bằng lòng khoan dung, trọng dụng quan lại nhưng kìm hãm quyền lực của các thân vương (con trai của Chu Nguyên Chương).

Năm 1402, Chu Đệ – một trong các thân vương – làm phản, lật đổ Kiến Văn Đế. Chu Đệ lên ngôi, lấy hiệu là Vĩnh Lạc Đế.

Minh sử chép, ngày 13/6/1402, quân Yên vương Chu Đệ tiến vào Nam Kinh. Kinh thành bị đốt phá dữ dội nhưng quân Yên vương không bắt được Kiến Văn Đế. Có giả thuyết cho rằng Kiến Văn Đế chết trong đám cháy, cũng có thuyết cho rằng ông đã bỏ trốn, mai danh ẩn tích.

Hoàng đế Chu Nguyên Chương vô cùng căm ghét hoạn quan lộng quyền (ảnh: China Times)

Hoàng đế Chu Nguyên Chương vô cùng căm ghét hoạn quan lộng quyền (ảnh: China Times)

Theo Sohu, vốn lên ngôi bằng cách cướp ngai vàng của người cháu, Chu Đệ trở nên đa nghi không kém gì Chu Nguyên Chương. Để trấn áp các thế lực chống đối đồng thời truy bắt Kiến Văn Đế (có thể còn sống) Chu Đệ cho khôi phục quyền lực của Cẩm Y vệ và mở rộng lực lượng như thời Chu Nguyên Chương.

Nhận thấy lực lượng của Cẩm Y vệ khó kiểm soát và làm việc không hiệu quả, năm 1420, Chu Đệ cho thành lập Đông xưởng (tên đầy đủ là Đông tập sự xưởng).

Nhiệm vụ của Đông xưởng là quản lý hoạt động của Cẩm Y vệ, giám sát quan lại và báo cáo trực tiếp cho hoàng đế. Đứng đầu Đông xưởng là các hoạn quan thân tín của Chu Đệ.

Theo Sohu, với việc thành lập Đông xưởng, cho hoạn quan can dự triều chính, Chu Đệ đã đi ngược lại “tổ huấn” của Chu Nguyên Chương.

Minh sử chép, năm Hồng Vũ thứ nhất (1368), hoàng đế (Chu Nguyên Chương) nhắc lại tình hình loạn lạc cuối thời Hán, thời Đường đều do hoạn quan gây ra, vì vậy vô cùng chán ghét. Thời Chu Nguyên Chương trị vì, ông đã 7 lần ra lệnh cấm các hoạn quan can dự vào việc triều đình.

Năm Hồng Vũ thứ mười (1378), một hoạn quan đã phục vụ lâu năm “lỡ lời” chỉ ra lỗi sai của công văn. Chu Nguyên Chương lập tức cách hết chức tước, đuổi ông ta về quê.

Năm Hồng Vũ thứ mười bảy (1385), Chu Nguyên Chương cho đúc một tấm bảng sắt, bên trên khắc chữ: “Hoạn quan không được phép can dự triều chính. Kẻ phạm tội ắt sẽ trảm”. Chu Nguyên Chương cũng cấm các hoạn quan học chữ, đọc sách.

Chu Nguyên Chương hà khắc với hoạn quan, nhưng con trai ông (Chu Đệ) thì hoàn toàn ngược lại.

Theo Sohu, trong quá trình khởi binh tạo phản, Chu Đệ nhận được sự tham mưu và giúp đỡ của nhiều hoạn quan, nổi bật trong số đó là Trịnh Hòa (người từng dẫn hạm đội nhà Minh 7 lần thám hiểm Tây dương).

Vì vậy, trong mắt Chu Đệ, hoạn quan còn đáng tin hơn nhóm quan lại từng phục vụ dưới trướng Kiến Văn Đế.

Năm 1420, Chu Đệ lập ra Đông xưởng, cho phép đặt nha môn ở cạnh Đông Hoa môn (cửa phía đông Tử Cấm Thành). Vì cửa nha môn của Đông xưởng gồm 6 cánh lớn ghép lại với nhau, nên dân gian còn dùng cái tên Lục phiến môn để gọi Đông xưởng.

Trong nhiều bộ phim kiếm hiệp Trung Quốc, cái tên Lục phiến môn cũng thường xuyên xuất hiện. Đây không phải môn phái võ lâm nào mà là tổ chức mật thám của triều Minh.

Theo Sohu, với việc thành lập Đông xưởng, Chu Đệ là người đã mở ra “triều đại hoạn quan” trong lịch sử Trung Quốc.

Cuối thời Minh, đám hoạn quan trong Đông xưởng hoành hành, hãm hại quan lại không cùng phe cánh, tàn sát người vô tội. Dân gian gọi Đông xưởng là “đảng hoạn quan” hoặc “phái yêu ma”.

Đông xưởng tồn tại từ năm 1420 đến năm 1644 (khi nhà Minh sụp đổ). Quyền lực của Đông xưởng có lúc yếu lúc mạnh, nhưng tổ chức này chưa bao giờ bị dẹp bỏ.

Sự lũng đoạn của Đông xưởng cũng là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến nhà Minh sụp đổ.

Lực lượng Cẩm Y vệ chỉ còn là “con rối” trong tay Đông xưởng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Lực lượng Cẩm Y vệ chỉ còn là “con rối” trong tay Đông xưởng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

2. Tổ chức và quyền lực

Theo China Times, Đông xưởng thực chất là một cơ quan gián điệp và mật thám do hoạn quan điều hành. Thành viên của Đông xưởng chịu trách nhiệm quản lý Cẩm Y vệ, giám sát và theo dõi từ hoàng tộc, quan lại, giới trí thức, thương nhân đến dân đen.

Nếu tra ra tội nhẹ thì Đông xưởng trực tiếp xử lý, không cần thông qua cơ quan nào. Nếu phát hiện tội nặng thì Đông xưởng báo cáo và xin chỉ thị từ hoàng đế. “Tai mắt” của Đông xưởng rải khắp nơi, ngay cả lực lượng Cẩm Y vệ cũng phải chịu dưới quyền điều động của Đông xưởng.

Theo China Times, sau khi Đông xưởng thành lập, Cẩm Y vệ không còn là tổ chức mật thám mạnh nhất, ngược lại còn “lọt vào tầm ngắm” của Đông xưởng. Xét cho cùng thì việc “bới móc” tội lỗi của Cẩm Y vệ cũng là cách Đông xưởng lập công. Các hoạn quan của Đông xưởng cũng thân cận và được hoàng đế tin tưởng hơn so với Cẩm Y vệ.

Minh sử chép, biên chế của Đông xưởng có hơn ngàn người, đứng đầu là quan Đề đốc (còn gọi là Xưởng công). Các hoạn quan quyền lực thời Minh như Vương Chấn, Lưu Cẩn, Phùng Bảo và Ngụy Trung Hiền đều từng giữ chức Đề đốc Đông xưởng.

Trong thời gian 4 hoạn quan này nắm quyền, chỉ huy Cẩm Y vệ chỉ có thể quỳ gối và khấu đầu trước Đề đốc Đông xưởng.

Cuối thời Minh, Đông xưởng còn có lực lượng chiến thuật và nhà tù riêng.

Đông xưởng xử nhiều án oán, lũng đoạn nhà Minh (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Đông xưởng xử nhiều án oán, lũng đoạn nhà Minh (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Vũ khí tiêu chuẩn của thành viên Đông xưởng là song kiếm. Trong đó, có một thanh kiếm khắc chữ “東” (Đông) và một thanh kiếm khắc chữ “廠” (Xưởng) trên cán kiếm.

Theo Sohu, loại vũ khí này chủ yếu mang tính nghi lễ vì thành viên của Đông xưởng ít khi phải chiến đấu.

Theo China Times, thông qua thu thập thông tin tình báo, Đông xưởng có thể trực tiếp bắt giữ và tra khảo quan lại cấp thấp mà không cần thông qua cơ quan khác. Đối với quan lại cấp cao và hoàng tộc, Đông xưởng chỉ có thể bắt giữ họ nếu được hoàng đế cho phép.

Mặc dù mang tiếng là phái “yêu ma”, nhưng không thể phủ nhận rằng Đông xưởng có tổ chức nhân sự và cắt đặt công việc khá chặt chẽ, khoa học.

Minh sử chép, vào ngày mùng 1 hàng tháng, thành viên của Đông xưởng đều phải tập trung ở nha môn để nghe phân công công việc. Họ cũng tổ chức rút thăm để nhận địa bàn phụ trách.

Thành viên của Đông xưởng dù là chức lớn hay nhỏ đều có tên gọi đặc thù.

Theo đó, người giám sát khi quan lại tra hỏi tội phạm trong nhà lao và ghi chép tin tức về việc Cẩm Y vệ bắt người gọi là “thính ký”.

Người giám sát hoạt động điều tra án, bắt giữ người của quan lại gọi là “tá sự kiện”.

Người giám sát việc xử án của quan lại gọi là “tọa ký”.

Với cơ cấu chặt chẽ như vậy, cùng với việc nắm Cẩm Y vệ trong tay, Đông xưởng khó có thể để quan viên sai phạm nào “lọt lưới”.



Tượng Nhạc Phi – danh tướng thời Tống (ảnh: Sina)

Tượng Nhạc Phi – danh tướng thời Tống (ảnh: Sina)

3. Đông xưởng hủy hoại nhà Minh

Theo China Times, trong giai đoạn đầu hoạt động, Đông xưởng đã phát huy hiệu quả trong việc kiềm chế Cẩm Y vệ, thanh trừng quan lại tham nhũng và tăng quyền lực cho hoàng đế.

Bên trong nha môn Đông xưởng, người ta còn đặt một bức họa lớn vẽ Nhạc Phi (1103 – 1142). Nhạc Phi là danh tướng nổi tiếng trung nghĩa thời Tống, nhưng bị khép án oan và xử tử. Cái chết của ông khiến rất nhiều người căm phẫn.

Bức họa Nhạc Phi là lời nhắc nhở đối với người trong Đông xưởng, đó là không được xử án oan, theo Sohu.

Tuy nhiên, cuối thời Minh, Đông xưởng ngày càng trở nên biến chất và lộng quyền. Họ thường xuyên thêu dệt tội danh, vu oan giá họa cho dân lành để trục lợi. Đối với quan viên trong triều tỏ ý chống đối, Đông xưởng lập tức cho người bắt giữ, dùng cực hình tra khảo, ép phải ký vào giấy nhận tội.

Đề đốc Đông xưởng từng nắm quyền lực lớn nhất và khét tiếng tàn độc là Ngụy Trung Hiền (1568 – 1627).

Minh sử chép, năm 1621, Ngụy Trung Hiền được Minh Hy Tông phong chức Bỉnh bút thái giám (thái giám giữ bút) đứng đầu 24 viên hoạn quan hầu cận hoàng đế. Chức Bỉnh bút thái giám có nhiệm vụ tham mưu, hỗ trợ hoàng đế phê duyệt tấu chương, truyền đạt thánh chỉ.

Ngụy Trung Hiền – hoạn quan cầm đầu Đông xưởng làm nhà Minh nghiêng đổ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Ngụy Trung Hiền – hoạn quan cầm đầu Đông xưởng làm nhà Minh nghiêng đổ (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Năm 1623, Ngụy Trung Hiền kiêm cả chức Đề đốc Đông xưởng. Lúc này, thế lực của ông ta đã rất lớn, quyền hành ngang Tể tướng (thời vua Chu Nguyên Chương đã bãi bỏ chức vụ này).

Ngụy Trung Hiền cầm đầu “đảng hoạn quan”, những quan lại cao cấp như Thôi Trình Tú (Thượng thư bộ binh), Khách Quang Tiên (Thiên hộ Cẩm Y vệ), Điền Nhĩ Canh (Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ) chỉ có thể nhận làm con nuôi của ông ta.

Minh sử chép, nội các triều đình đều là tay chân của Ngụy Trung Hiền, quan lại tranh nhau gọi ông ta là cha, là ông nội. Năm 1626, có viên Tuần phủ Chiết Giang lập đền thờ để thờ sống Ngụy Trung Hiền. Ai đi qua đều phải lạy 5 lạy, tung hô “thiên tuế”. Quan lại cả nước đều bắt chước theo.

Năm 1625, Ngụy Trung Hiền thanh trừng những người không cùng phe cánh thuộc phái Đông Lâm. Một số viên quan đứng đầu phái này như Dương Liên, Uông Văn Ngôn, Hùng Đình Bật bị khép tội oan, bị xử tử hoặc buộc phải tự sát. Số người liên quan đến “vụ án phái Đông Lâm” bị khép tội, xử tử lên tới hàng ngàn.

Theo Sohu, thời Ngụy Trung Hiền làm Đề đốc, hành động của Đông xưởng trở nên cực kỳ tàn bạo. Người bị Đông xưởng bắt giữ phải nếm đủ loại cực hình tra khảo, từ đánh đập, còng, cùm, kẹp, cắt, nhấn nước, đến nướng đốt, cho côn trùng độc cắn… Những người phải chịu những cực hình này có thể nói là “sống không bằng chết”.

Là quan Đề đốc Đông xưởng, Ngụy Trung Hiền còn cho thành lập một lực lượng riêng. Dù không đông đảo như Cẩm Y vệ, nhưng lực lượng này vẫn đủ sức thực hiện các vụ bắt bớ, tàn sát các thế lực chống đối.

Đông xưởng thậm chí từng sở hữu lực lượng riêng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Đông xưởng thậm chí từng sở hữu lực lượng riêng (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc)

Tuy nhiên, ngày tháng “làm mưa làm gió” của Ngụy Trung Hiền không kéo dài. Năm 1627, Minh Hy Tông băng hà. Chu Do Kiểm kế vị, lấy hiệu là Sùng Trinh.

Vốn vô cùng căm ghét Ngụy Trung Hiền, chỉ 2 tháng sau khi lên ngôi, Sùng Trinh Đế đã ra lệnh cách hết chức tước của ông ta. Ngụy Trung Hiền sợ tội, phải thắt cổ chết.

Sai lầm của Sùng Trinh Đế là tiếp tục trọng dụng hoạn quan và không giải tán Đông xưởng.

Tháng 4/1644, quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành tiến vào Bắc Kinh. Cùng với sự chấm dứt của nhà Minh, Đông xưởng cũng bị giải tán.
Thua hết Đông xưởng hiện tại là Bộ công an của việt Nam hiện tại
 
Có phim nào hay hay liên quan cẩm y vệ ko bác?
Coi đoạn này nhớ liền tới phim "Thiên hạ". :vozvn (19):

Ngụy Trung Hiền cầm đầu “đảng hoạn quan”, những quan lại cao cấp như Thôi Trình Tú (Thượng thư bộ binh), Khách Quang Tiên (Thiên hộ Cẩm Y vệ), Điền Nhĩ Canh (Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ) chỉ có thể nhận làm con nuôi của ông ta.

Minh sử chép, nội các triều đình đều là tay chân của Ngụy Trung Hiền, quan lại tranh nhau gọi ông ta là cha, là ông nội. Năm 1626, có viên Tuần phủ Chiết Giang lập đền thờ để thờ sống Ngụy Trung Hiền. Ai đi qua đều phải lạy 5 lạy, tung hô “thiên tuế”. Quan lại cả nước đều bắt chước theo.





Đời Minh không có chức Tể tướng mà thay vào đó là cơ quan Nội các thay quyền Tể tướng. Ngụy Trung Hiền khống chế việc triều chính, nắm lấy các đại quyền trong cung và còn đưa các tay chân thân tín vào nắm lấy Nội các. Các quan trong triều người thì bái lạy Ngụy Trung Hiền để được thăng quan, lên đến "Thủ phụ" (Thủ: đứng đầu, Phụ: quan lớn) hoặc "Nội các đại học sĩ". Thậm chí có người tự xưng là thân thích với Ngụy Trung Hiền vì cùng họ Phùng với vợ trước đây của ông ta nên cũng được làm quan. Những ai không theo phe cánh Ngụy Trung Hiền đều bị loại trừ dần ra khỏi Nội các. Nội các triều Minh biến thành cơ quan riêng của nhà họ Ngụy. Các quan viên tranh nhau đến kết bái Ngụy gia để được làm con nuôi, cháu nội nuôi. Như vậy, từ Nội các, Lục bộ cho đến Tổng đốc, Tuần phủ các nơi đều là phe đảng, vây cánh của họ Ngụy, quyền hành lớn trong ngoài có thể nói đều ở trong tay Ngụy Trung Hiền cả. Ngụy Trung Hiền còn có năm người con nuôi là: Thôi Trình Tú (Thượng thư bộ binh); Hứa Hiển Đồn (Chấn phủ tư Đông xưởng); Khách Quang Tiên (客光先) (Thiên hộ Cẩm y vệ); và còn 2 người con nuôi nữa một là Điền Nhị Canh còn một người không rõ tên. Tất cả đều được Ngụy Trung Hiền sử dụng làm tay sai để tiêu diệt phái Đông Lâm.

 
Sửa lần cuối:
Có lẽ thằng viết báo đăng vào thời điểm này cũng là 1 xamer, đọc xong đéo khác gì xứ lừa hiện tại =))
 
Mà ngôn ngữ bọn tàu đặt nhiều cái tên nghe hay vl
Thôi trình tú, khách quang tiên, hứa hiển đồn :vozvn (20):
 
Cái lồn má, tao coi phim thiên hạ, cuối phim sùng chinh đốt ổ đông xưởng rồi cơ mà :vozvn (19):
Đốt đông xưởng diệt thiến đảng, giết Ngụy trung hiền, đề cao trị quốc bằng Đông lâm đảng, đám quân tử được đề cập ở trên đó, triều chánh họp hành chăm chỉ, chăm duyệt tấu chương, đề cao tiết kiệm.... nghe như minh quân không? Sau đó, năm sùng trinh thứ 16, Đại Minh vong :vozvn (21):
 
Đốt đông xưởng diệt thiến đảng, giết Ngụy trung hiền, đề cao trị quốc bằng Đông lâm đảng, đám quân tử được đề cập ở trên đó, triều chánh họp hành chăm chỉ, chăm duyệt tấu chương, đề cao tiết kiệm.... nghe như minh quân không? Sau đó, năm sùng trinh thứ 16, Đại Minh vong :vozvn (21):
Làm phim gài gắm vô hết rồi. Minh quân chỉ khi có tiền gia nghĩa, nhưng lên ngôi lại đéo giữ dc hiền tài
Giống như ngoài đời thì thằng này đéo có thật, triều đại thối nát gốc rễ rồi thì có muốn chấn hưng cũng ko thể làm gì dc
 
Mà ngôn ngữ bọn tàu đặt nhiều cái tên nghe hay vl
Thôi trình tú, khách quang tiên, hứa hiển đồn :vozvn (20):
Ngày trước các cụ cũng học sách tàu nên nhiều tên hay. huỳnh thúc kháng, hoàng hoa thám, nguyễn lương bằng…
Giờ thì toàn gia huy, gia bảo, gia hân ( con chả bọn sn85 trở về đây 10 đứa thì 5 đứa gia+…)
 
Cẩm y vệ là cônan đông xưởng là kiểm sát ấy nhỉ
đông xưởng trong phim thiên hạ tao xem nó là mật cơ quan mật thám, lại còn có thể bắt bớ, xét xử, giam cầm được.
Nó giống conan.
Nói chung mày rất khó để só sánh cơ quan của các thời kì khác nhau.
Nhưng từ cách hoạt động thì tao thấy đông xưởng nó khá giống với 1 bộ phận đặc biệt của cô nan.
 
Ngày trước các cụ cũng học sách tàu nên nhiều tên hay. huỳnh thúc kháng, hoàng hoa thám, nguyễn lương bằng…
Giờ thì toàn gia huy, gia bảo, gia hân ( con chả bọn sn85 trở về đây 10 đứa thì 5 đứa gia+…)
Chữ gia có gì đẹp nhỉ, thấy éo éo thế nào ấy
 
đông xưởng trong phim thiên hạ tao xem nó là mật cơ quan mật thám, lại còn có thể bắt bớ, xét xử, giam cầm được.
Nó giống conan.
Nói chung mày rất khó để só sánh cơ quan của các thời kì khác nhau.
Nhưng từ cách hoạt động thì tao thấy đông xưởng nó khá giống với 1 bộ phận đặc biệt của cô nan.
Mày nói đúng đấy, tao thấy Đông xưởng chẳng khác gì conan, còn Cẩm y vệ giống QĐ. Thế cục xứ lừa hiện tại.
 
Mày nói đúng đấy, tao thấy Đông xưởng chẳng khác gì conan, còn Cẩm y vệ giống QĐ. Thế cục xứ lừa hiện tại.
Thế Binh bộ, tướng lĩnh vứt đi đâu hả mày?
Bộ Binh luôn là 1 Bộ riêng, không dính dáng Nội Mật.
Đông Xưởng xét về chức năng là Ban PCTN, xét về giai cấp là bọn ca múa hát
 
Cẩm y vệ tên nghe hay vkl, chém trước tâu sau hoàng quyền đặc cách=))

Thời xưa VN mình có tổ chức nào giống vậy ko tụi mày :vozvn (10):
 

Có thể bạn quan tâm

Top