Hà Nội mơ giàu có với quyền lãnh đạo độc tài

Don Jong Un

Địt xong chạy
Vatican-City
To-Lam-Tap-Can-Binh-VOV.jpg

Tô Lâm và Tập Cận Bình. (Hình minh họa: VOV)
Tháng Tám 2025, tại Trường Đảng Trung ương ở Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm tuyên bố khởi động “một kỷ nguyên phát triển mới,” đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu có vào năm 2045, sánh ngang các “con hổ kinh tế” châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Đây là tầm nhìn đầy tham vọng, gắn với kỳ vọng nâng tầm quốc gia sau nhiều thập kỷ tăng trưởng dựa trên 2 yểu tố chính: xuất khẩu và lao động giá rẻ.

Tuy nhiên, ước mơ của Tô Lâm đang phải đối diện hàng loạt thách thức nội tại: cơ cấu dân số già hóa trước khi kịp giàu, phụ thuộc lớn vào xuất khẩu giá rẻ với cựu thù Hoa Kỳ, mô hình phát triển chủ yếu sao chép từ Trung Quốc nhưng kém, bởi giữ vị trí làm thuê mà không phát triển khoa học cộng nghệ.

Nhưng quan trọng hơn hết, là sự mâu thuẫn giữa khát vọng phát triển kinh tế kiểu tư bản với cơ chế lãnh đạo độc tài ********.


Kế hoạch 2045: Các giấc mơ ban ngày

Hà Nội nhìn vào Hàn Quốc, Nhật Bản và thậm chí là Thái Lan, nuôi giấc mơ về sự giàu có. Các kế hoạch, dự án được quăng ra hối hả, đều là dự định lặp lại “câu chuyện thành công” của Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore: đầu tư hạ tầng hoành tráng, thúc đẩy công nghệ cao như chip, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo; mở trung tâm tài chính quốc tế ở Sài Gòn và Đà Nẵng; hợp nhất 63 tỉnh thành xuống còn 34 để “tinh gọn bộ máy”.

Nghe có quen không? Đúng vậy, đó là bản sao gần như gần như toàn bộ từ sách hướng dẫn “làm giàu” của Trung Quốc — chỉ khác là Trung Quốc làm trong bối cảnh họ đã tích lũy đủ sức mạnh công nghiệp, còn Việt Nam vẫn chủ yếu sống nhờ mồ hôi công nhân lao động xuất khẩu giày dép, quần áo và lắp ráp điện thoại.

Và ngay cả “cải cách thể chế” cũng có một điều kiện tiên quyết: mọi thứ phải diễn ra trong trật tự do Đảng định sẵn. Thế nên, tinh gọn bộ máy không phải để dân chủ hóa, mà để kiểm soát hiệu quả hơn. Đây là kiểu “cải cách” mà ở ngoài nhìn vào tưởng như hiện đại hóa, nhưng bên trong vẫn giữ nguyên hệ điều hành… Windows 98.

Hà Nội không còn cơ hội lợi dụng sức dân để làm giàu

Một trong những rủi ro lớn nhất là vấn đề dân số. Theo dự báo, giai đoạn “dân số vàng” của Việt Nam – khi số người trong độ tuổi lao động vượt trội so với người phụ thuộc – sẽ kết thúc vào năm 2039. Chỉ ba năm sau đó, lực lượng lao động đạt đỉnh và bắt đầu suy giảm.

Điều này đồng nghĩa, nền kinh tế sẽ phải gánh chi phí an sinh xã hội tăng nhanh, trong khi năng suất lao động chưa đạt mức của các quốc gia giàu. Nguy cơ “già trước khi giàu” là có thật, và nếu không cải thiện nhanh năng suất, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn 2045 với cấu trúc dân số bất lợi, kìm hãm tăng trưởng dài hạn.


Việt Nam vẫn lún trong chuyện bán sức lao động giá rẻ

Trong hơn hai thập kỷ qua, xuất khẩu dựa trên lao động giá rẻ và lắp ráp linh kiện nhập khẩu là động lực chính của tăng trưởng. Năm 2024, Việt Nam đạt thặng dư thương mại kỷ lục 123,5 tỷ USD với Mỹ. Nhưng cũng chính sự phụ thuộc này khiến kinh tế dễ bị tổn thương trước biến động thương mại quốc tế.

Việc Mỹ áp thuế 20% lên hàng hóa Việt Nam (và cao hơn với hàng nghi ngờ có nguồn gốc từ Trung Quốc) là một cảnh báo rõ ràng: mô hình “gia công giá rẻ” không còn bền vững. Để lên chuỗi giá trị, Việt Nam cần phát triển thương hiệu, thiết kế sản phẩm và công nghệ lõi – những lĩnh vực hiện vẫn yếu.

Học mô hình Trung Quốc, nhưng thiếu điều kiện để thành công

Chiến lược phát triển của Việt Nam thể hiện rõ ảnh hưởng từ mô hình Trung Quốc: tạo ra các “nhà vô địch quốc gia” trong lĩnh vực công nghệ, mở trung tâm tài chính đặc biệt, đầu tư hạ tầng khổng lồ, kết hợp kinh tế thị trường định hướng nhà nước. Đó là chưa nói, chuyện tung hô “ảo” các doanh nghiệp trong nước cũng là một mặt của nền kinh tế “mồm”.

Chưa kể, một phần hàng hóa xuất khẩu vẫn lệ thuộc và nguyên liệu và chi tiết từ Trung Quốc, điều khiến Việt Nam trở thành nạn nhân trong cuộc chiến thuế với Hoa Kỳ. Hà Nội mơ sẽ có những tập đoàn, công ty lớn như Nhật, Hàn… để bước sang lĩnh vực giá trị cao hơn, nhưng lại thiếu hẳn các thương hiệu mạnh, thiếu khả năng tự thiết kế sản phẩm — điều mà không thể giải quyết chỉ bằng ưu đãi thuế và vài hội nghị xúc tiến đầu tư.

Doanh nghiệp tư nhân – “lực lượng quan trọng nhất” nhưng chưa được giải phóng

Nghị quyết 68 của Đảng ******** Việt Nam lần đầu tiên gọi doanh nghiệp tư nhân là “lực lượng quan trọng nhất” của nền kinh tế. Điều này cho thấy các lý thuyết kinh tế ******** đã hoàn toàn thay đổi, hay nói cách khác là sụp đổ từ chính Ba Đình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy doanh nghiệp tư nhân vẫn bị hạn chế bởi các rào cản thể chế: khó tiếp cận vốn tín dụng, bị lép vế trước các tập đoàn nhà nước trong đấu thầu và phân bổ nguồn lực, chịu gánh nặng thủ tục hành chính.

Phần lớn các tập đoàn đa quốc gia hiện diện ở Việt Nam vẫn hoạt động ở khâu lắp ráp, và doanh nghiệp nội địa chỉ tham gia ở phần giá trị thấp của chuỗi cung ứng. Nếu không có cải cách mạnh mẽ để đảm bảo sân chơi bình đẳng, doanh nghiệp tư nhân khó có thể trở thành động lực đổi mới và cạnh tranh quốc tế.

Biến đổi khí hậu – Cửa sổ cơ hội đang hẹp lại

Bên cạnh các yếu tố kinh tế – xã hội, biến đổi khí hậu là thách thức ngày càng lớn. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ nước biển dâng và bão lũ. Ngân hàng Thế giới dự báo nếu không hành động quyết liệt, đến năm 2050, thiệt hại từ biến đổi khí hậu có thể lên tới 12–14,5% GDP mỗi năm.

Việc phát triển công nghiệp và hạ tầng nếu không đi kèm các biện pháp thích ứng và giảm phát thải sẽ khiến những khoản đầu tư lớn bị đe dọa ngay trong vài thập kỷ tới. Điều này có nghĩa Bộ Chính Trị Ba Đình phải bắt đầu ngồi xuống và tập đọc những bài phân tích về vấn đề khí hậu, chuyện ảnh hưởng đến quốc gia từ các tổ chức xã hội dân sự độc lập, chứ không phải từ các báo cáo ve vuốt bởi các nhóm được nhà nước nuôi dưỡng. Ít nhất, thì Hà Nội cũng phải bắt đầu nghĩ đến chuyện trả tự do cho những người đấu tranh hay hoạt động vì môi trường bị chụp mũ chính trị.

Thích giàu có như tư bản, trong chọn độc tài

Điểm mâu thuẫn cốt lõi của Hà Nội nằm ở chỗ: một nền kinh tế tư bản giàu mạnh cần môi trường cạnh tranh tự do, bảo vệ quyền sở hữu, minh bạch pháp lý và khuyến khích sáng tạo. Trong khi đó, chế độ lãnh đạo độc tài lại ưu tiên kiểm soát chính trị, duy trì sự ổn định theo nghĩa “không để mất quyền lực”, và phân bổ nguồn lực dựa trên quan hệ chính trị – kinh tế.

Sự thao túng từ các nhóm lợi ích trong bộ máy, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được ưu ái, sẽ làm chậm hoặc chặn đứng các cải cách có khả năng đe dọa trật tự hiện tại. Do đó, dù khẩu hiệu “kinh tế tư nhân là động lực” được nêu rõ, việc thực thi vẫn bị giới hạn bởi các nguyên tắc bảo vệ quyền lực chính trị tuyệt đối. Nói như trên, đó là nền kinh tế “mồm”.

Nói cho cùng, mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia giàu có vào năm 2045 là một tầm nhìn đáng khích lệ. Nhưng để biến tầm nhìn thành hiện thực, cần vượt qua các rào cản: nâng năng suất trước khi dân số già hóa, giảm phụ thuộc vào xuất khẩu giá rẻ, xây dựng năng lực công nghệ và thương hiệu nội địa, đồng thời thực hiện cải cách thể chế sâu rộng. Nhất là rào cản của tư duy ******** độc tài.

Nếu những rào cản về thể chế không được tháo gỡ, cải cách chỉ dừng ở mức bề mặt và quyền lực tiếp tục tập trung trong một nhóm nhỏ, khả năng đạt được mục tiêu 2045 sẽ bị thu hẹp và có thể dai dẳng bất khả thi. Khi đó, Việt Nam có thể vẫn tăng trưởng, nhưng khó vươn lên nhóm quốc gia giàu – và “con hổ kinh tế” sẽ chỉ dừng lại ở mồm, khẩu hiệu trơ của mấy chục ngàn dư luận viên dốt nát.
 

Có thể bạn quan tâm

Top