Hành trình giải mã sức mạnh quân sự Đại Việt dưới thời vua Quang Trung

Hoàng đế Quang Trung không chỉ đại thắng 30 vạn quân Thanh, mà theo kỹ sư Vũ Đình Thanh – chuyên gia kỹ thuật, đại diện NPO ALMAZ (Nga) tại Việt Nam thì ôn còn đánh bại cả lực lượng của các công ty Đông Ấn phương Tây, vốn sở hữu vũ khí vượt trội so với nhà Thanh và có quân số đông, dày dạn kinh nghiệm chinh chiến thuộc địa.​

Là một trong những chuyên gia giàu kinh nghiệm và tâm huyết với đề tài nghiên cứu lịch sử và công nghệ quân sự nước Việt cổ, kỹ sư Vũ Đình Thanh (Hà Nội) đã tìm kiếm và phân tích hệ thống tài liệu từ sử sách Việt Nam, Anh, Pháp, cũng như các ghi chép đương thời cho phép nhìn lại toàn cảnh hoạt động quân sự trong giai đoạn cuối thế kỷ 18.

Diêm tiêu và nền tảng sức mạnh quân sự Đại Việt

Lần theo lịch sử, công nghệ chế tạo súng – pháo – tên lửa phương Tây, KS. Thanh phát hiện nhiều chi tiết cho thấy Quang Trung không chỉ là nhà cầm quân kiệt xuất, mà còn là một nhà khoa học tự mình chế tạo vũ khí vượt tầm phương Tây thời đó, được nhớ đến như "thần chiến thắng" của dân tộc. Nhờ vua Quang Trung, tiến trình đô hộ của Pháp đối với Việt Nam bị chậm tới 200 năm và người Việt tránh được thảm cảnh bị bán làm nô lệ như ở nhiều thuộc địa khác.

Theo đó, các công ty Đông Ấn phương Tây gồm: Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Tây Ban Nha. Ít người biết rằng các tổ chức thương mại này có quân đội riêng, được phép đúc tiền, tuyên bố chiến tranh và kiểm soát thuộc địa rộng lớn từ châu Á, châu Phi đến châu Mỹ. Đơn cử, Công ty Đông Ấn Anh từng sở hữu quân số gấp đôi quân đội Hoàng gia Anh và nắm 70% nguồn diêm tiêu cung cấp cho phương Tây sau khi kiểm soát phần lớn Ấn Độ cuối thế kỷ 19. Công ty Đông Ấn Pháp cũng kiểm soát một phần lãnh thổ Ấn Độ, với Pondicherry là trung tâm.

2dbe2f42a80b4155181a.jpg

Đô đốc, bá tước đế chế Rosily (tên khắc ở khải hoàn môn) chỉ huy các công ty Đông Ấn đánh Đại Việt (theo wikipedia)

Vũ khí giúp các công ty Đông Ấn này lớn mạnh không phải lụa, gốm, gia vị hay chè...mà là một mặt hàng chiến lược: diêm tiêu – "mẹ" của thuốc súng. Thực, súng – pháo không có thuốc súng thì vô dụng, mà thành phần chính của thuốc súng đen (75% diêm tiêu, 15% than củi, 10% lưu huỳnh) hoàn toàn không thể thay thế cho tới hết thế kỷ 19. Chính nhờ diêm tiêu, phương Tây mới tạo ra sức mạnh quân sự toàn cầu. Trong khi than củi và lưu huỳnh có sẵn ở châu Âu, diêm tiêu lại phải nhập từ Đông Nam Á.

Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, phân dơi tự nhiên tại Việt Nam, Lào, Campuchia và miền nam Trung Quốc là nguồn diêm tiêu lớn nhất thế giới. Chính vì vậy, ngay từ thế kỷ 15-16, các nước phương Tây đã tìm mọi cách khai thác hoặc kiểm soát khu vực có trữ lượng này. Ghi chép của nhà nghiên cứu Dupouy (1913) cho biết đến năm 1903, tại Bắc Kỳ vẫn có 22 mỏ diêm tiêu đang hoạt động. Dữ liệu này cho thấy diêm tiêu từng là nguyên liệu chiến lược quan trọng mà Pháp khai thác mạnh mẽ sau khi đặt ách cai trị.

Từ những số liệu trên, kỹ sư Vũ Đình Thanh nhận định giá trị kinh tế - quân sự của diêm tiêu thời cận đại là đặc biệt lớn. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược Pháp, vào cuối thế kỷ 17-18, giá 1kg thuốc súng bằng 0,5kg vàng, trong đó 80% chi phí là cho diêm tiêu, tức 1kg phân dơi gần bằng 0,4kg vàng tại Pháp. Điều đó lý giải vì sao thông tin về các mỏ diêm tiêu Đông Dương được giữ bí mật trong thời gian dài.

Trong bối cảnh đó, các tư liệu lịch sử Đại Việt cho biết, từ thế kỷ 15, nước ta đã biết chế tạo súng thần công, sử dụng thuốc súng đen sớm hơn nhiều khu vực. Năm 1390, tướng Trần Khát Chân dùng súng thần công bắn hạ Chế Bồng Nga; sau đó, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh đưa sang Trung Quốc để chế tạo vũ khí. Súng hỏa mai Đại Việt từng được thương nhân quốc tế biết đến với tên gọi “súng Giao Chỉ” từ năm 1479.

Các giả thuyết kỹ thuật này khi đối chiếu với nguồn gốc vật liệu cho thấy Đại Việt có ưu thế tự nhiên nhờ nguồn diêm tiêu sẵn có, cho phép sản xuất lượng thuốc súng lớn và ổn định – yếu tố quan trọng trong duy trì năng lực quân sự.

Từ phốt pho đến hỏa tiễn: giải mã ưu thế vũ khí của quân Tây Sơn

Theo kỹ sư Vũ Đình Thanh, sức mạnh của quân Tây Sơn đến từ vũ khí vượt trội, đặc biệt là hỏa dược có phốt pho, được chính sử nhà Nguyễn mô tả: “Tây Sơn dùng nhựa cây trộn với dầu mỏ chế ra hỏa dược cháy lâu và không thể dập tắt”. Sau 6 năm nghiên cứu và được chuyên gia quốc tế kiểm chứng, anh đã áp dụng công nghệ hỏa dược này vào động cơ đốt trong, động cơ tên lửa và đăng ký sáng chế.

5abf5a43dd0a34546d1b.jpg

Hỏa cầu phốt pho và hỏa hổ có chứa phốt pho của Tây Sơn

"Phốt pho phải bảo quản trong nước; hình ảnh dân gian kể về hai quân Tây Sơn khiêng chiếc võng chính là cách vận chuyển phốt pho. Nguồn phốt pho của Đại Việt dồi dào từ các hang dơi, đảo phân chim Hoàng Sa – Trường Sa. Các dân tộc quanh hang dơi đã biết nung đất và chiết lấy chất phát sáng từ nghìn năm trước – chính là phốt pho. Thời đó, quân Thanh tuy đã biết Tây Sơn tăng quân ở Nghệ An và có xây đồn bốt ngày Tết, nhưng vẫn bị thiệt hại lớn vì không hiểu oxy, không hiểu hiện tượng cháy phốt pho gây ngạt chết người chỉ sau một phút." - kỹ sư Vũ Đình Thanh chia sẻ từ những nghiên cứu.
Tây Sơn còn sử dụng “hỏa tiễn” – tên lửa – mô tả trong sử Thanh về trận Ngọc Hồi. Với ống phóng hỏa hổ, quân Tây Sơn có thể bắn hỏa tiễn từ lưng voi hoặc từ thuyền, do tên lửa không tạo giật mạnh như pháo. Nhờ đó chiến thuyền nhỏ của Tây Sơn có thể gắn 50–60 ống phóng, tạo hỏa lực áp đảo, thiêu rụi tàu đồng của liên quân Đông Ấn. Nhờ hỏa lực phốt pho vượt trội, quân Tây Sơn đánh tan quân Đông Ấn năm 1782–1783, khiến hàng vạn lính đánh thuê tan vỡ.

Sau khi Quang Trung qua đời, một số tướng lĩnh và người thân cận của ông cùng nhiều thợ tại các công xưởng được cho là cũng gặp tai biến liên quan tới việc chế tạo hỏa dược, điều dễ hiểu khi điều chế phốt pho. Điều này làm gián đoạn sản xuất vũ khí phốt pho. Tận dụng thời cơ, các công ty Đông Ấn phát triển vượt trội về công nghệ quân sự. Dù vậy, theo kỹ sư Vũ Đình Thanh, vũ khí phốt pho của Đại Việt vẫn vượt trội hơn vũ khí Đông Ấn. Các trận đánh 1782–1783 cho thấy sự áp đảo tuyệt đối này.

Mặc dù vậy, các cường quốc châu Âu tiếp tục cải tiến kỹ thuật. Pháp đưa phân dơi về tinh chế, tạo hạt thuốc súng có sức nổ mạnh hơn thuốc súng đen thông thường; từ đó phát triển lựu đạn, đạn nho và nâng tầm pháo binh cơ động. Các tiến bộ khoa học như phát hiện ôxy của Antoine Lavoisier giúp quân châu Âu hiểu rõ tác động của đám cháy lớn, từ đó bố trí đội hình, xây thành kiểu Vauban để giảm thiểu nguy cơ ngạt khí – điều quân Thanh không lường trước năm 1789.

a469ab952cdcc5829ccd.jpg

Bắn hỏa tiễn phốt pho trên voi không làm voi giật mình, sau cuộn rơm tiến đánh Ngọc Hồi

Nhìn tổng thể, những góc phân tích từ kỹ thuật - hóa học - quân sự mà kỹ sư Vũ Đình Thanh đưa ra mở thêm cách lý giải vì sao quân Tây Sơn thời Quang Trung có thể tạo nên ba chiến thắng liên tiếp: đánh tan quân Công ty Đông Ấn (1782-1783), thiêu rụi 5 vạn quân Xiêm (1785) và đánh bại 30 vạn quân Thanh (1789).

Dù cần tiếp tục được kiểm chứng thêm bằng khảo cổ học, phân tích vật liệu và sự đối chiếu đa chiều, những nghiên cứu nêu trên góp phần mở rộng hướng tiếp cận lịch sử quân sự Việt Nam. Việc đặt các chiến thắng của Đại Việt trong tương quan công nghệ vũ khí toàn cầu thế kỷ 18 cũng gợi nhiều câu hỏi thú vị về trình độ khoa học-kỹ thuật của cha ông ta. Khai thác sâu hơn những tư liệu này không chỉ giúp làm sáng tỏ các giả thuyết mà còn góp phần hiểu rõ hơn di sản tri thức, sáng tạo và sức mạnh tự cường của dân tộc qua các thời kỳ.
 

Có thể bạn quan tâm

Top