Don Jong Un
Trai thôn
Một năm sau khi tái đắc cử, ngoại giao đang bị thúc đẩy bởi ý thích cá nhân của Tổng thống Mỹ ở mức độ chưa từng có trong thời hiện đại.
Khi Sanae Takaichi gặp Donald Trump lần này, bà mang theo một tin tốt lành. Thủ tướng mới của Nhật Bản đã đề cử Trump cho Giải Nobel Hòa bình. Và bằng cách đó, Nhật Bản đã đi theo bước chân của chính phủ Campuchia, Pakistan, và Israel.
Việc tâng bốc Trump – và chiều theo những sở thích của ông – giờ đây đã trở thành thông lệ đối với các nhà lãnh đạo nước ngoài. Ngài Keir Starmer, Thủ tướng Anh, đã tận dụng cuộc gặp đầu tiên tại Phòng Bầu dục với Trump để công bố lời mời thăm cấp nhà nước lần thứ hai tới Vương quốc Anh. Ông nhấn mạnh rằng sự kiện này “thực sự mang tính lịch sử” và “chưa từng có tiền lệ.”
Kiểu nịnh hót này thật không đứng đắn. Nhưng, một năm sau khi Trump tái đắc cử, các đồng minh của Mỹ giờ đây kết luận rằng nịnh hót là điều không thể thiếu. Ở một mức độ chưa từng có trong thời hiện đại, chính sách đối ngoại của Mỹ đang bị chi phối bởi ý thích cá nhân của tổng thống.
Nếu làm phật lòng Trump, hậu quả có thể rất tai hại. Quan hệ Mỹ-Ấn đã trở nên căng thẳng sau khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi từ chối ghi nhận công lao của Trump trong việc kiến tạo hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan. Mỹ sau đó đã áp thuế 50% lên Ấn Độ. Gần đây, Trump cũng đã tăng thuế đối với Canada vì bất bình với một quảng cáo truyền hình chống thuế quan do tỉnh Ontario phát sóng.
Những cơn thịnh nộ và quyết định thay đổi đường lối một cách đột ngột của Trump có thể khiến chính sách đối ngoại của ông trở nên vô cùng khó lường. Nhưng có một số điểm rõ ràng đã nổi lên trong chín tháng qua.
Tổng thống Mỹ có những nỗi ám ảnh không dễ gì lay chuyển. Ông thích thuế quan – tin rằng chúng sẽ làm cho nước Mỹ giàu có và hùng mạnh hơn. Ông cũng tin rằng Mỹ đã bị các đồng minh “đánh lừa” và quyết tâm tái cấu trúc hệ thống quốc tế để phù hợp với chính sách “Nước Mỹ trên hết” của mình.
Thủ tướng Nhật Bản Sanae Takaichi vẫy tay chào trong chuyến thăm tàu sân bay USS George Washington tại căn cứ Hải quân Mỹ ở Yokosuka, miền đông Nhật Bản trong chuyến thăm của Trump © Kyodo/Reuters
Cách tiếp cận của Trump đối với các vấn đề thế giới mang nặng tính giao dịch. Việc bàn luận về các giá trị và tự do của Mỹ – vốn được các tổng thống tiền nhiệm ưa chuộng – đã bị bỏ qua. Thay vào đó, Trump thích nói về sức mạnh của nước Mỹ và việc “bỏ túi” những “chiến thắng,” chẳng hạn như lời hứa về các khoản đầu tư khổng lồ vào Mỹ, hoặc một thỏa thuận hòa bình khác mà ông có thể nhận hết công lao.
Mong muốn trở thành người kiến tạo hòa bình của Tổng thống Mỹ dường như khá chân thành. Nó có thể phản ánh nỗi kinh hoàng thực sự khi đứng trước chiến tranh. Và nó có thể được thúc đẩy bởi mong muốn sánh ngang với Giải Nobel Hòa bình (thật khó hiểu) đã được trao cho Barack Obama vào năm 2009. Bản thân Trump từng nói rằng ông muốn cải thiện cơ hội lên thiên đàng của mình, trầm ngâm: “Tôi nghe nói mình đang không ổn. Tôi thực sự ở dưới đáy của bảng xếp hạng.”
Nhưng ngay cả bản năng làm người gìn giữ hòa bình của Trump cũng có lúc thăng lúc trầm.
Hiện tại, Tổng thống và đội ngũ muốn nhấn mạnh vai trò của ông trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza và khiến Israel và Hamas ký vào kế hoạch 20 điểm hướng tới hòa bình lâu dài ở Trung Đông.
Nhưng Trump, đôi khi, cũng sẵn sàng cho chiến tranh một cơ hội. Hồi tháng 6, sau khi Israel tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran, ông cho phép Mỹ tham gia các cuộc không kích tiếp theo vào Iran. Đây là một bước đi từng được các đời tổng thống Mỹ liên tiếp cân nhắc – và bác bỏ – trong 20 năm trước đó. Sau đợt không kích, Trump nhanh chóng nhận công lao cho việc “phá hủy” các cơ sở hạt nhân của Iran, và những người hoài nghi trong chính quyền đã nhanh chóng bị bịt miệng.
Ngay cả khi đang hân hoan làm trung gian một thỏa thuận hòa bình khác – lần này là giữa Thái Lan và Campuchia – Trump lại âm thầm chuyển hướng sang sử dụng vũ lực ở vùng Caribbean. Trong những tuần gần đây, Mỹ đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công chết người vào các tàu thuyền bị cáo buộc vận chuyển ma túy. Tàu sân bay USS Gerald R. Ford vừa được điều động đến khu vực này – và đã có những lời bàn tán về nỗ lực gây sức ép để thay đổi chế độ ở Venezuela.
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, chính sách thuế quan của Trump hiện là khía cạnh quan trọng nhất trong quan hệ của họ với Mỹ. Các mức thuế toàn cầu khổng lồ mà Trump công bố vào cái gọi là Ngày Giải phóng 02/04 đã nhanh chóng bị cắt giảm trước phản ứng bất lợi của thị trường. Nhưng kể từ đó đến nay, chính quyền Trump vẫn kiên trì theo đuổi chính sách áp đặt thuế quan riêng cho từng quốc gia. Theo một quy trình có vẻ khó hiểu, Anh đã kết thúc với mức thuế cơ bản là 10%, trong khi Nhật Bản và EU mỗi bên nhận mức thuế 15%, Philippines là 19%, còn Nam Phi là 30%. Trung Quốc gần đây vừa bị đe dọa áp dụng mức thuế 100%, nhưng sau cuộc họp Trump-Tập tại Seoul, mức thuế trung bình đối với hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ sẽ là 45%
Những người Palestine đi khảo sát thiệt hại sau cuộc không kích của Israel vào Thành phố Gaza tuần này. Trump muốn nhấn mạnh vai trò của mình trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza © Mohammed Saber/EPA/Shutterstock
Mong muốn rõ ràng của Trump về một thỏa thuận lớn với Tập Cận Bình đã làm gián đoạn một trong số ít lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ từng đạt được sự đồng thuận lưỡng đảng. Đây là lần đầu tiên chính quyền Trump đặt “cạnh tranh giữa các siêu cường” trở lại trọng tâm chính sách đối ngoại Mỹ – với Trung Quốc được xác định là đối thủ chính đối với quyền lực của nước Mỹ. Chính quyền Biden gọi Trung Quốc là “mối đe dọa lâu dài” (the pacing threat) đối với Mỹ và tìm cách tập hợp các đồng minh của Mỹ trong nỗ lực kiềm chế sức mạnh của Bắc Kinh.
Chính quyền Trump thứ hai dường như đã sẵn sàng tiếp tục nỗ lực này. Nhiều người dự đoán rằng các mức thuế quan của Trump sẽ tập trung chủ yếu vào Trung Quốc – gắn kết bản năng kinh tế của ông với nỗ lực chiến lược rộng lớn hơn nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng mức thuế mà Trump áp đặt lên các đồng minh và bạn bè chủ chốt ở Châu Á – chẳng hạn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, và Hàn Quốc – đã đi ngược lại nỗ lực cô lập Trung Quốc tại khu vực này. Các nước như Ấn Độ và Việt Nam hiện đang cố gắng xích lại gần Bắc Kinh.
Vậy thế giới nên nhìn nhận thế nào về tất cả những sáng kiến và chính sách mâu thuẫn này? Liệu một ngày nào đó, sử sách có thể tìm ra một “học thuyết Trump” mạch lạc để đặt bên cạnh “học thuyết Truman” đã được áp dụng từ đầu Chiến tranh Lạnh?
Có lẽ hơi quá đáng khi mong đợi một người hành động theo bản năng và ích kỷ như Trump đưa ra một cách tiếp cận hoàn chỉnh và nhất quán với thế giới bên ngoài.
Nhưng có rất nhiều người trong chính quyền của ông muốn đảm nhận công việc đó. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại MAGA, họ cũng hy vọng thúc đẩy nó theo hướng mình muốn.
Một trong những nỗ lực có ảnh hưởng nhất nhằm xác định các nhánh chính sách đối ngoại khác nhau trong phong trào chính trị của Trump là do Majda Ruge và Jeremy Shapiro thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu thực hiện. Trong bài viết xuất bản tháng 11/2022 – hai năm trước khi Trump tái đắc cử – họ xác định “ba nhóm Cộng hòa,” mà họ gọi là những người kiềm chế (restrainers), những người ưu tiên (prioritisers), và những người theo chủ nghĩa thống trị (primacists). Các phân loại này sau đó đã được nhiều đảng viên Cộng hòa chấp nhận và sử dụng như một tên gọi tắt trong chính giới Washington.
Những người theo chủ nghĩa thống trị cam kết Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò truyền thống là siêu cường toàn cầu – củng cố trật tự an ninh toàn cầu ở Châu Âu, Châu Á, Trung Đông, và Mỹ Latinh. Trong chính quyền Trump hiện tại, Ngoại trưởng Marco Rubio, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của Nam Carolina, và Mike Waltz, cựu cố vấn an ninh quốc gia và hiện là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, đều được xem là những người theo chủ nghĩa thống trị.
Những người kiềm chế – thường có liên hệ mật thiết với Phó Tổng thống J.D. Vance – thì thận trọng hơn nhiều trong việc thực thi quyền lực toàn cầu của Mỹ. Bị ám ảnh bởi kinh nghiệm từ các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, họ nghi ngờ các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á – lo sợ rằng những quốc gia này có thể lôi kéo Mỹ vào các cuộc chiến mới.
Những người ưu tiên – đôi khi được gọi là nhóm “Châu Á trên hết” – lại lập luận rằng Mỹ không còn đủ nguồn lực để đóng vai trò cảnh sát toàn cầu. Thay vào đó, họ phải tự lựa chọn chiến trường của mình. Theo Elbridge Colby, quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc, điều này có nghĩa là giảm ưu tiên cho cuộc chiến Ukraine để tập trung vào việc kiềm chế Trung Quốc ở Châu Á.
Những người Palestine đi khảo sát thiệt hại sau cuộc không kích của Israel vào Thành phố Gaza tuần này. Trump muốn nhấn mạnh vai trò của mình trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza © Mohammed Saber/EPA/Shutterstock
Mong muốn rõ ràng của Trump về một thỏa thuận lớn với Tập Cận Bình đã làm gián đoạn một trong số ít lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ từng đạt được sự đồng thuận lưỡng đảng. Đây là lần đầu tiên chính quyền Trump đặt “cạnh tranh giữa các siêu cường” trở lại trọng tâm chính sách đối ngoại Mỹ – với Trung Quốc được xác định là đối thủ chính đối với quyền lực của nước Mỹ. Chính quyền Biden gọi Trung Quốc là “mối đe dọa lâu dài” (the pacing threat) đối với Mỹ và tìm cách tập hợp các đồng minh của Mỹ trong nỗ lực kiềm chế sức mạnh của Bắc Kinh.
Chính quyền Trump thứ hai dường như đã sẵn sàng tiếp tục nỗ lực này. Nhiều người dự đoán rằng các mức thuế quan của Trump sẽ tập trung chủ yếu vào Trung Quốc – gắn kết bản năng kinh tế của ông với nỗ lực chiến lược rộng lớn hơn nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng mức thuế mà Trump áp đặt lên các đồng minh và bạn bè chủ chốt ở Châu Á – chẳng hạn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, và Hàn Quốc – đã đi ngược lại nỗ lực cô lập Trung Quốc tại khu vực này. Các nước như Ấn Độ và Việt Nam hiện đang cố gắng xích lại gần Bắc Kinh.
Vậy thế giới nên nhìn nhận thế nào về tất cả những sáng kiến và chính sách mâu thuẫn này? Liệu một ngày nào đó, sử sách có thể tìm ra một “học thuyết Trump” mạch lạc để đặt bên cạnh “học thuyết Truman” đã được áp dụng từ đầu Chiến tranh Lạnh?
Có lẽ hơi quá đáng khi mong đợi một người hành động theo bản năng và ích kỷ như Trump đưa ra một cách tiếp cận hoàn chỉnh và nhất quán với thế giới bên ngoài.
Nhưng có rất nhiều người trong chính quyền của ông muốn đảm nhận công việc đó. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại MAGA, họ cũng hy vọng thúc đẩy nó theo hướng mình muốn.
Một trong những nỗ lực có ảnh hưởng nhất nhằm xác định các nhánh chính sách đối ngoại khác nhau trong phong trào chính trị của Trump là do Majda Ruge và Jeremy Shapiro thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu thực hiện. Trong bài viết xuất bản tháng 11/2022 – hai năm trước khi Trump tái đắc cử – họ xác định “ba nhóm Cộng hòa,” mà họ gọi là những người kiềm chế (restrainers), những người ưu tiên (prioritisers), và những người theo chủ nghĩa thống trị (primacists). Các phân loại này sau đó đã được nhiều đảng viên Cộng hòa chấp nhận và sử dụng như một tên gọi tắt trong chính giới Washington.
Những người theo chủ nghĩa thống trị cam kết Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò truyền thống là siêu cường toàn cầu – củng cố trật tự an ninh toàn cầu ở Châu Âu, Châu Á, Trung Đông, và Mỹ Latinh. Trong chính quyền Trump hiện tại, Ngoại trưởng Marco Rubio, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của Nam Carolina, và Mike Waltz, cựu cố vấn an ninh quốc gia và hiện là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, đều được xem là những người theo chủ nghĩa thống trị.
Những người kiềm chế – thường có liên hệ mật thiết với Phó Tổng thống J.D. Vance – thì thận trọng hơn nhiều trong việc thực thi quyền lực toàn cầu của Mỹ. Bị ám ảnh bởi kinh nghiệm từ các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, họ nghi ngờ các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á – lo sợ rằng những quốc gia này có thể lôi kéo Mỹ vào các cuộc chiến mới.
Những người ưu tiên – đôi khi được gọi là nhóm “Châu Á trên hết” – lại lập luận rằng Mỹ không còn đủ nguồn lực để đóng vai trò cảnh sát toàn cầu. Thay vào đó, họ phải tự lựa chọn chiến trường của mình. Theo Elbridge Colby, quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc, điều này có nghĩa là giảm ưu tiên cho cuộc chiến Ukraine để tập trung vào việc kiềm chế Trung Quốc ở Châu Á.
Khi Sanae Takaichi gặp Donald Trump lần này, bà mang theo một tin tốt lành. Thủ tướng mới của Nhật Bản đã đề cử Trump cho Giải Nobel Hòa bình. Và bằng cách đó, Nhật Bản đã đi theo bước chân của chính phủ Campuchia, Pakistan, và Israel.
Việc tâng bốc Trump – và chiều theo những sở thích của ông – giờ đây đã trở thành thông lệ đối với các nhà lãnh đạo nước ngoài. Ngài Keir Starmer, Thủ tướng Anh, đã tận dụng cuộc gặp đầu tiên tại Phòng Bầu dục với Trump để công bố lời mời thăm cấp nhà nước lần thứ hai tới Vương quốc Anh. Ông nhấn mạnh rằng sự kiện này “thực sự mang tính lịch sử” và “chưa từng có tiền lệ.”
Kiểu nịnh hót này thật không đứng đắn. Nhưng, một năm sau khi Trump tái đắc cử, các đồng minh của Mỹ giờ đây kết luận rằng nịnh hót là điều không thể thiếu. Ở một mức độ chưa từng có trong thời hiện đại, chính sách đối ngoại của Mỹ đang bị chi phối bởi ý thích cá nhân của tổng thống.
Nếu làm phật lòng Trump, hậu quả có thể rất tai hại. Quan hệ Mỹ-Ấn đã trở nên căng thẳng sau khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi từ chối ghi nhận công lao của Trump trong việc kiến tạo hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan. Mỹ sau đó đã áp thuế 50% lên Ấn Độ. Gần đây, Trump cũng đã tăng thuế đối với Canada vì bất bình với một quảng cáo truyền hình chống thuế quan do tỉnh Ontario phát sóng.
Những cơn thịnh nộ và quyết định thay đổi đường lối một cách đột ngột của Trump có thể khiến chính sách đối ngoại của ông trở nên vô cùng khó lường. Nhưng có một số điểm rõ ràng đã nổi lên trong chín tháng qua.
Tổng thống Mỹ có những nỗi ám ảnh không dễ gì lay chuyển. Ông thích thuế quan – tin rằng chúng sẽ làm cho nước Mỹ giàu có và hùng mạnh hơn. Ông cũng tin rằng Mỹ đã bị các đồng minh “đánh lừa” và quyết tâm tái cấu trúc hệ thống quốc tế để phù hợp với chính sách “Nước Mỹ trên hết” của mình.
Cách tiếp cận của Trump đối với các vấn đề thế giới mang nặng tính giao dịch. Việc bàn luận về các giá trị và tự do của Mỹ – vốn được các tổng thống tiền nhiệm ưa chuộng – đã bị bỏ qua. Thay vào đó, Trump thích nói về sức mạnh của nước Mỹ và việc “bỏ túi” những “chiến thắng,” chẳng hạn như lời hứa về các khoản đầu tư khổng lồ vào Mỹ, hoặc một thỏa thuận hòa bình khác mà ông có thể nhận hết công lao.
Mong muốn trở thành người kiến tạo hòa bình của Tổng thống Mỹ dường như khá chân thành. Nó có thể phản ánh nỗi kinh hoàng thực sự khi đứng trước chiến tranh. Và nó có thể được thúc đẩy bởi mong muốn sánh ngang với Giải Nobel Hòa bình (thật khó hiểu) đã được trao cho Barack Obama vào năm 2009. Bản thân Trump từng nói rằng ông muốn cải thiện cơ hội lên thiên đàng của mình, trầm ngâm: “Tôi nghe nói mình đang không ổn. Tôi thực sự ở dưới đáy của bảng xếp hạng.”
Nhưng ngay cả bản năng làm người gìn giữ hòa bình của Trump cũng có lúc thăng lúc trầm.
Hiện tại, Tổng thống và đội ngũ muốn nhấn mạnh vai trò của ông trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza và khiến Israel và Hamas ký vào kế hoạch 20 điểm hướng tới hòa bình lâu dài ở Trung Đông.
Nhưng Trump, đôi khi, cũng sẵn sàng cho chiến tranh một cơ hội. Hồi tháng 6, sau khi Israel tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran, ông cho phép Mỹ tham gia các cuộc không kích tiếp theo vào Iran. Đây là một bước đi từng được các đời tổng thống Mỹ liên tiếp cân nhắc – và bác bỏ – trong 20 năm trước đó. Sau đợt không kích, Trump nhanh chóng nhận công lao cho việc “phá hủy” các cơ sở hạt nhân của Iran, và những người hoài nghi trong chính quyền đã nhanh chóng bị bịt miệng.
Ngay cả khi đang hân hoan làm trung gian một thỏa thuận hòa bình khác – lần này là giữa Thái Lan và Campuchia – Trump lại âm thầm chuyển hướng sang sử dụng vũ lực ở vùng Caribbean. Trong những tuần gần đây, Mỹ đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công chết người vào các tàu thuyền bị cáo buộc vận chuyển ma túy. Tàu sân bay USS Gerald R. Ford vừa được điều động đến khu vực này – và đã có những lời bàn tán về nỗ lực gây sức ép để thay đổi chế độ ở Venezuela.
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, chính sách thuế quan của Trump hiện là khía cạnh quan trọng nhất trong quan hệ của họ với Mỹ. Các mức thuế toàn cầu khổng lồ mà Trump công bố vào cái gọi là Ngày Giải phóng 02/04 đã nhanh chóng bị cắt giảm trước phản ứng bất lợi của thị trường. Nhưng kể từ đó đến nay, chính quyền Trump vẫn kiên trì theo đuổi chính sách áp đặt thuế quan riêng cho từng quốc gia. Theo một quy trình có vẻ khó hiểu, Anh đã kết thúc với mức thuế cơ bản là 10%, trong khi Nhật Bản và EU mỗi bên nhận mức thuế 15%, Philippines là 19%, còn Nam Phi là 30%. Trung Quốc gần đây vừa bị đe dọa áp dụng mức thuế 100%, nhưng sau cuộc họp Trump-Tập tại Seoul, mức thuế trung bình đối với hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ sẽ là 45%
Mong muốn rõ ràng của Trump về một thỏa thuận lớn với Tập Cận Bình đã làm gián đoạn một trong số ít lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ từng đạt được sự đồng thuận lưỡng đảng. Đây là lần đầu tiên chính quyền Trump đặt “cạnh tranh giữa các siêu cường” trở lại trọng tâm chính sách đối ngoại Mỹ – với Trung Quốc được xác định là đối thủ chính đối với quyền lực của nước Mỹ. Chính quyền Biden gọi Trung Quốc là “mối đe dọa lâu dài” (the pacing threat) đối với Mỹ và tìm cách tập hợp các đồng minh của Mỹ trong nỗ lực kiềm chế sức mạnh của Bắc Kinh.
Chính quyền Trump thứ hai dường như đã sẵn sàng tiếp tục nỗ lực này. Nhiều người dự đoán rằng các mức thuế quan của Trump sẽ tập trung chủ yếu vào Trung Quốc – gắn kết bản năng kinh tế của ông với nỗ lực chiến lược rộng lớn hơn nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng mức thuế mà Trump áp đặt lên các đồng minh và bạn bè chủ chốt ở Châu Á – chẳng hạn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, và Hàn Quốc – đã đi ngược lại nỗ lực cô lập Trung Quốc tại khu vực này. Các nước như Ấn Độ và Việt Nam hiện đang cố gắng xích lại gần Bắc Kinh.
Vậy thế giới nên nhìn nhận thế nào về tất cả những sáng kiến và chính sách mâu thuẫn này? Liệu một ngày nào đó, sử sách có thể tìm ra một “học thuyết Trump” mạch lạc để đặt bên cạnh “học thuyết Truman” đã được áp dụng từ đầu Chiến tranh Lạnh?
Có lẽ hơi quá đáng khi mong đợi một người hành động theo bản năng và ích kỷ như Trump đưa ra một cách tiếp cận hoàn chỉnh và nhất quán với thế giới bên ngoài.
Nhưng có rất nhiều người trong chính quyền của ông muốn đảm nhận công việc đó. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại MAGA, họ cũng hy vọng thúc đẩy nó theo hướng mình muốn.
Một trong những nỗ lực có ảnh hưởng nhất nhằm xác định các nhánh chính sách đối ngoại khác nhau trong phong trào chính trị của Trump là do Majda Ruge và Jeremy Shapiro thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu thực hiện. Trong bài viết xuất bản tháng 11/2022 – hai năm trước khi Trump tái đắc cử – họ xác định “ba nhóm Cộng hòa,” mà họ gọi là những người kiềm chế (restrainers), những người ưu tiên (prioritisers), và những người theo chủ nghĩa thống trị (primacists). Các phân loại này sau đó đã được nhiều đảng viên Cộng hòa chấp nhận và sử dụng như một tên gọi tắt trong chính giới Washington.
Những người theo chủ nghĩa thống trị cam kết Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò truyền thống là siêu cường toàn cầu – củng cố trật tự an ninh toàn cầu ở Châu Âu, Châu Á, Trung Đông, và Mỹ Latinh. Trong chính quyền Trump hiện tại, Ngoại trưởng Marco Rubio, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của Nam Carolina, và Mike Waltz, cựu cố vấn an ninh quốc gia và hiện là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, đều được xem là những người theo chủ nghĩa thống trị.
Những người kiềm chế – thường có liên hệ mật thiết với Phó Tổng thống J.D. Vance – thì thận trọng hơn nhiều trong việc thực thi quyền lực toàn cầu của Mỹ. Bị ám ảnh bởi kinh nghiệm từ các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, họ nghi ngờ các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á – lo sợ rằng những quốc gia này có thể lôi kéo Mỹ vào các cuộc chiến mới.
Những người ưu tiên – đôi khi được gọi là nhóm “Châu Á trên hết” – lại lập luận rằng Mỹ không còn đủ nguồn lực để đóng vai trò cảnh sát toàn cầu. Thay vào đó, họ phải tự lựa chọn chiến trường của mình. Theo Elbridge Colby, quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc, điều này có nghĩa là giảm ưu tiên cho cuộc chiến Ukraine để tập trung vào việc kiềm chế Trung Quốc ở Châu Á.
Mong muốn rõ ràng của Trump về một thỏa thuận lớn với Tập Cận Bình đã làm gián đoạn một trong số ít lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ từng đạt được sự đồng thuận lưỡng đảng. Đây là lần đầu tiên chính quyền Trump đặt “cạnh tranh giữa các siêu cường” trở lại trọng tâm chính sách đối ngoại Mỹ – với Trung Quốc được xác định là đối thủ chính đối với quyền lực của nước Mỹ. Chính quyền Biden gọi Trung Quốc là “mối đe dọa lâu dài” (the pacing threat) đối với Mỹ và tìm cách tập hợp các đồng minh của Mỹ trong nỗ lực kiềm chế sức mạnh của Bắc Kinh.
Chính quyền Trump thứ hai dường như đã sẵn sàng tiếp tục nỗ lực này. Nhiều người dự đoán rằng các mức thuế quan của Trump sẽ tập trung chủ yếu vào Trung Quốc – gắn kết bản năng kinh tế của ông với nỗ lực chiến lược rộng lớn hơn nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng mức thuế mà Trump áp đặt lên các đồng minh và bạn bè chủ chốt ở Châu Á – chẳng hạn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, và Hàn Quốc – đã đi ngược lại nỗ lực cô lập Trung Quốc tại khu vực này. Các nước như Ấn Độ và Việt Nam hiện đang cố gắng xích lại gần Bắc Kinh.
Vậy thế giới nên nhìn nhận thế nào về tất cả những sáng kiến và chính sách mâu thuẫn này? Liệu một ngày nào đó, sử sách có thể tìm ra một “học thuyết Trump” mạch lạc để đặt bên cạnh “học thuyết Truman” đã được áp dụng từ đầu Chiến tranh Lạnh?
Có lẽ hơi quá đáng khi mong đợi một người hành động theo bản năng và ích kỷ như Trump đưa ra một cách tiếp cận hoàn chỉnh và nhất quán với thế giới bên ngoài.
Nhưng có rất nhiều người trong chính quyền của ông muốn đảm nhận công việc đó. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại MAGA, họ cũng hy vọng thúc đẩy nó theo hướng mình muốn.
Một trong những nỗ lực có ảnh hưởng nhất nhằm xác định các nhánh chính sách đối ngoại khác nhau trong phong trào chính trị của Trump là do Majda Ruge và Jeremy Shapiro thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu thực hiện. Trong bài viết xuất bản tháng 11/2022 – hai năm trước khi Trump tái đắc cử – họ xác định “ba nhóm Cộng hòa,” mà họ gọi là những người kiềm chế (restrainers), những người ưu tiên (prioritisers), và những người theo chủ nghĩa thống trị (primacists). Các phân loại này sau đó đã được nhiều đảng viên Cộng hòa chấp nhận và sử dụng như một tên gọi tắt trong chính giới Washington.
Những người theo chủ nghĩa thống trị cam kết Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò truyền thống là siêu cường toàn cầu – củng cố trật tự an ninh toàn cầu ở Châu Âu, Châu Á, Trung Đông, và Mỹ Latinh. Trong chính quyền Trump hiện tại, Ngoại trưởng Marco Rubio, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của Nam Carolina, và Mike Waltz, cựu cố vấn an ninh quốc gia và hiện là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, đều được xem là những người theo chủ nghĩa thống trị.
Những người kiềm chế – thường có liên hệ mật thiết với Phó Tổng thống J.D. Vance – thì thận trọng hơn nhiều trong việc thực thi quyền lực toàn cầu của Mỹ. Bị ám ảnh bởi kinh nghiệm từ các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, họ nghi ngờ các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á – lo sợ rằng những quốc gia này có thể lôi kéo Mỹ vào các cuộc chiến mới.
Những người ưu tiên – đôi khi được gọi là nhóm “Châu Á trên hết” – lại lập luận rằng Mỹ không còn đủ nguồn lực để đóng vai trò cảnh sát toàn cầu. Thay vào đó, họ phải tự lựa chọn chiến trường của mình. Theo Elbridge Colby, quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc, điều này có nghĩa là giảm ưu tiên cho cuộc chiến Ukraine để tập trung vào việc kiềm chế Trung Quốc ở Châu Á.