Cảnh báo lừa đảo‼️ Hỏi thẳng nếu vndcch đứng ở vai thằng pháp và thằng pháp là 1 hội nhóm phản động thì nó có cho thằng pháp ký hiệp ước ko?

Đảo ngược lại vn là pháp pháp là vn
Ví dụ như chăm pa bị vn đô hộ, bỗng có 8 keo của champa đứng lên thì vn có chịu ký hiệp ước ko?
Tao nghĩ là có,
Thật ra mấy cái hiệp ước kết thúc chiến tranh là mấy cái trò nằm trong văn hóa lịch sử của VN, cứ mỗi lần VN đánh thắng quân phương Bắc (Trung Quốc) là gửi chiếu thư yêu cầu công nhận độc lập, công nhận chính quyền đương thời đổi lại là trao trả tù binh + vàng bạc châu báu. Làm như vậy là các cụ sợ chúng nó quyết tâm trả thù vào đánh lần 2, lần 3,... vì các cụ nghĩ TQ nó lớn gấp mấy lần mình, sợ thêm các đội quân tiếp theo nữa các cụ đỡ không nỗi.
Ví dụ: Triều Lý, Trần, Hậu Lê, Quang Trung, Nguyễn cứ mỗi lần đánh thắng trận là gửi chiếu thư xin triều đình TQ công nhận mình như An Nam quốc vương, việc gửi tù binh + vàng châu báu là 1 cách để thể hiện lòng thành.
Đến thời Pháp cũng vậy, đầu tiên là hiệp ước Sơ Bộ sau đó đến hiệp ước Giơnevơ, hiệp ước Paris cũng có 1 điểm chung là có 1 gạch đầu dòng xin công nhận Việt Minh là chính phủ hợp pháp, nhận bàn giao chính quyền thuộc địa, được Pháp công nhận.
"Giống như việc có thằng hàng xóm vào đất nhà mày trộm ổi, theo lẽ thường thì mày đáng đuổi nó đi là xong, không cần hiệp ước làm chi hết. Nhưng nếu thằng em mày cố bắt giam nó rồi bắt nó ký hiệp ước công nhận độc lập, cam kết không vào trộm ổi và công nhận tên em mày là chủ nhà hợp pháp thì mới chịu thả. Lúc mày về thì coi như nhà tổ tiên là của em mày rồi, không phải của mày. Chiến công bắt trộm đi kèm với sự công nhận tên chủ nhà. Mày về trễ không bắt được trộm thì đưa vào diện vô gia cư vì vô dụng."

Taliban nó cũng đâu có cần ký hiệp ước yêu cầu Mỹ ký hiệp ước đầu hàng, công nhận Taliban làm gì đâu, Mỹ đi rồi thì thôi, không công nhận thì có Nga, Trung Quốc công nhận.
 
Tao nghĩ là có,
Thật ra mấy cái hiệp ước kết thúc chiến tranh là mấy cái trò nằm trong văn hóa lịch sử của VN, cứ mỗi lần VN đánh thắng quân phương Bắc (Trung Quốc) là gửi chiếu thư yêu cầu công nhận độc lập, công nhận chính quyền đương thời đổi lại là trao trả tù binh + vàng bạc châu báu. Làm như vậy là các cụ sợ chúng nó quyết tâm trả thù vào đánh lần 2, lần 3,... vì các cụ nghĩ TQ nó lớn gấp mấy lần mình, sợ thêm các đội quân tiếp theo nữa các cụ đỡ không nỗi.
Ví dụ: Triều Lý, Trần, Hậu Lê, Quang Trung, Nguyễn cứ mỗi lần đánh thắng trận là gửi chiếu thư xin triều đình TQ công nhận mình như An Nam quốc vương, việc gửi tù binh + vàng châu báu là 1 cách để thể hiện lòng thành.
Đến thời Pháp cũng vậy, đầu tiên là hiệp ước Sơ Bộ sau đó đến hiệp ước Giơnevơ, hiệp ước Paris cũng có 1 điểm chung là có 1 gạch đầu dòng xin công nhận Việt Minh là chính phủ hợp pháp, nhận bàn giao chính quyền thuộc địa, được Pháp công nhận.
"Giống như việc có thằng hàng xóm vào đất nhà mày trộm ổi, theo lẽ thường thì mày đáng đuổi nó đi là xong, không cần hiệp ước làm chi hết. Nhưng nếu thằng em mày cố bắt giam nó rồi bắt nó ký hiệp ước công nhận độc lập, cam kết không vào trộm ổi và công nhận tên em mày là chủ nhà hợp pháp thì mới chịu thả. Lúc mày về thì coi như nhà tổ tiên là của em mày rồi, không phải của mày. Chiến công bắt trộm đi kèm với sự công nhận tên chủ nhà. Mày về trễ không bắt được trộm thì đưa vào diện vô gia cư vì vô dụng."

Taliban nó cũng đâu có cần ký hiệp ước yêu cầu Mỹ ký hiệp ước đầu hàng, công nhận Taliban làm gì đâu, Mỹ đi rồi thì thôi, không công nhận thì có Nga, Trung Quốc công nhận.
Cũng là 1 góc nhìn
Nhưng hiệp ước từ xưa giờ hoàn toàn có lợi cho chúng ta hoặc cho đôi bên,

Ví dụ như trường hợp champa giờ nổi dậy đòi đất thì vn có trả lại trong yên bình mà ko ký hiệp ước ko hoặc chí ít là ký hiệp ước cắt đất
?

Nếu ko ký hiệp ước thì mẽo hoàn toàn có thẻ buff lại hoặc quay trở lại
 
Cũng là 1 góc nhìn
Nhưng hiệp ước từ xưa giờ hoàn toàn có lợi cho chúng ta hoặc cho đôi bên,

Ví dụ như trường hợp champa giờ nổi dậy đòi đất thì vn có trả lại trong yên bình mà ko ký hiệp ước ko hoặc chí ít là ký hiệp ước cắt đất
?

Nếu ko ký hiệp ước thì mẽo hoàn toàn có thẻ buff lại hoặc quay trở lại
Hiệp ước giống kiểu văn vẻ của bọn quan văn thích ngoại giao.
Để ký 1 hiệp ước là mất rất nhiều time, phải liên hệ ông nọ bà kia rồi chạy sộc sộc đi thuyết phục từng người hiểu về cuộc chiến, rồi tranh luận. Dưới góc nhìn của 1 người ngoại giao là vậy, nhưng với mày nếu là 1 người lính, 1 người tướng thì chả khác nào "Dao sắt mà không rèn được chui" cứ phải vừa đánh vừa chờ hội nghị ngoại giao, bàn luận chính trị làm mất rất nhiều time, thui chột tinh thần người lính trong khi đó nếu lâm trận luôn thì 1 vị tướng như mày sẽ nghiệm ra được các chiến lược chiến thuật trong trận đấu, chỉ có cách đánh đuổi giặc ra khỏi lãnh thổ là cách hữu hiệu nhất, ít tốn time nhất để dành chiến thắng trận chiến.
Như thời nhà Nguyễn, các tướng quan võ luôn tự tin muốn vua Nguyễn chủ chiến với quân Pháp, cứ đánh trước thấy thiếu gì thì bổ sung sau nhưng các vua Nguyễn lại không chịu nghe, nghe lời lý lẽ của bọn quan văn chọn chủ hòa, dùng ngoại giao lý lẽ để thuyết phục Pháp ký hiệp ước. Cuối cùng kết quả hiệp ước đưa ra bất lợi cho VN, do Phan Thanh Giản đi đàm phán.
Nhà Nguyễn chỉ mới ngửi mùi thua trận trong trận Đà Nẵng, Gia Định, Hà Nội thì đã vội xin đàm phán rồi.
Nếu vua Quang Trung người tướng võ thứ thiệt còn sống, tao nghĩ ông ấy có thể tìm cách đánh thắng trận solo với Pháp. Không ai như vua Nguyễn, đưa cả Nguyễn Tri Phương 1 người quan văn, biết làm thơ lên làm tướng giữ thành, kết cuộc thua trận thảm hại. Rất nhiều tướng VN thời nhà Nguyễn chỉ giỏi làm thơ văn. Vua Nguyễn không ưa, không thích những người tướng võ.
Chưa kể vua Nguyễn còn sai lầm trong chiến lược trị dân, dùng tư duy: "Ngự Binh Ư Nông" để giải giáp quân đội, đến khi Pháp vào thì mới đi tuyển quân, thua là cái chắc.
Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, ông ấy cấm tuyệt đối tư duy quá khứ "Ngự Binh Ư Nông", xây doanh trại quân đội ngày đêm tập luyện thao trường nên quân đội rất mạnh.
 
Hiệp ước giống kiểu văn vẻ của bọn quan văn thích ngoại giao.
Để ký 1 hiệp ước là mất rất nhiều time, phải liên hệ ông nọ bà kia rồi chạy sộc sộc đi thuyết phục từng người hiểu về cuộc chiến, rồi tranh luận. Dưới góc nhìn của 1 người ngoại giao là vậy, nhưng với mày nếu là 1 người lính, 1 người tướng thì chả khác nào "Dao sắt mà không rèn được chui" cứ phải vừa đánh vừa chờ hội nghị ngoại giao, bàn luận chính trị làm mất rất nhiều time, thui chột tinh thần người lính trong khi đó nếu lâm trận luôn thì 1 vị tướng như mày sẽ nghiệm ra được các chiến lược chiến thuật trong trận đấu, chỉ có cách đánh đuổi giặc ra khỏi lãnh thổ là cách hữu hiệu nhất, ít tốn time nhất để dành chiến thắng trận chiến.
Như thời nhà Nguyễn, các tướng quan võ luôn tự tin muốn vua Nguyễn chủ chiến với quân Pháp, cứ đánh trước thấy thiếu gì thì bổ sung sau nhưng các vua Nguyễn lại không chịu nghe, nghe lời lý lẽ của bọn quan văn chọn chủ hòa, dùng ngoại giao lý lẽ để thuyết phục Pháp ký hiệp ước. Cuối cùng kết quả hiệp ước đưa ra bất lợi cho VN, do Phan Thanh Giản đi đàm phán.
Nhà Nguyễn chỉ mới ngửi mùi thua trận trong trận Đà Nẵng, Gia Định, Hà Nội thì đã vội xin đàm phán rồi.
Nếu vua Quang Trung người tướng võ thứ thiệt còn sống, tao nghĩ ông ấy có thể tìm cách đánh thắng trận solo với Pháp. Không ai như vua Nguyễn, đưa cả Nguyễn Tri Phương 1 người quan văn, biết làm thơ lên làm tướng giữ thành, kết cuộc thua trận thảm hại. Rất nhiều tướng VN thời nhà Nguyễn chỉ giỏi làm thơ văn. Vua Nguyễn không ưa, không thích những người tướng võ.
Chưa kể vua Nguyễn còn sai lầm trong chiến lược trị dân, dùng tư duy: "Ngự Binh Ư Nông" để giải giáp quân đội, đến khi Pháp vào thì mới đi tuyển quân, thua là cái chắc.
Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, ông ấy cấm tuyệt đối tư duy quá khứ "Ngự Binh Ư Nông", xây doanh trại quân đội ngày đêm tập luyện thao trường nên quân đội rất mạnh.
@atlas05 no khen quang trung chui gia long kia
 
Hiệp ước giống kiểu văn vẻ của bọn quan văn thích ngoại giao.
Để ký 1 hiệp ước là mất rất nhiều time, phải liên hệ ông nọ bà kia rồi chạy sộc sộc đi thuyết phục từng người hiểu về cuộc chiến, rồi tranh luận. Dưới góc nhìn của 1 người ngoại giao là vậy, nhưng với mày nếu là 1 người lính, 1 người tướng thì chả khác nào "Dao sắt mà không rèn được chui" cứ phải vừa đánh vừa chờ hội nghị ngoại giao, bàn luận chính trị làm mất rất nhiều time, thui chột tinh thần người lính trong khi đó nếu lâm trận luôn thì 1 vị tướng như mày sẽ nghiệm ra được các chiến lược chiến thuật trong trận đấu, chỉ có cách đánh đuổi giặc ra khỏi lãnh thổ là cách hữu hiệu nhất, ít tốn time nhất để dành chiến thắng trận chiến.
Như thời nhà Nguyễn, các tướng quan võ luôn tự tin muốn vua Nguyễn chủ chiến với quân Pháp, cứ đánh trước thấy thiếu gì thì bổ sung sau nhưng các vua Nguyễn lại không chịu nghe, nghe lời lý lẽ của bọn quan văn chọn chủ hòa, dùng ngoại giao lý lẽ để thuyết phục Pháp ký hiệp ước. Cuối cùng kết quả hiệp ước đưa ra bất lợi cho VN, do Phan Thanh Giản đi đàm phán.
Nhà Nguyễn chỉ mới ngửi mùi thua trận trong trận Đà Nẵng, Gia Định, Hà Nội thì đã vội xin đàm phán rồi.
Nếu vua Quang Trung người tướng võ thứ thiệt còn sống, tao nghĩ ông ấy có thể tìm cách đánh thắng trận solo với Pháp. Không ai như vua Nguyễn, đưa cả Nguyễn Tri Phương 1 người quan văn, biết làm thơ lên làm tướng giữ thành, kết cuộc thua trận thảm hại. Rất nhiều tướng VN thời nhà Nguyễn chỉ giỏi làm thơ văn. Vua Nguyễn không ưa, không thích những người tướng võ.
Chưa kể vua Nguyễn còn sai lầm trong chiến lược trị dân, dùng tư duy: "Ngự Binh Ư Nông" để giải giáp quân đội, đến khi Pháp vào thì mới đi tuyển quân, thua là cái chắc.
Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, ông ấy cấm tuyệt đối tư duy quá khứ "Ngự Binh Ư Nông", xây doanh trại quân đội ngày đêm tập luyện thao trường nên quân đội rất mạnh.
cũng ko hẳn Pháp đánh vào Vn sau khi chiến tranh thuốc phiện xảy ra , tau nghỉ lúc đó thiên triều bị xẻ xứ giao châu chả sợ ra , cũng thấy được sức mạnh của phương tây rồi , nếu đánh thì khả năng mất nước ,có lợi nhất lúc đó là thủ hòa bớt rồi đánh sau
chiến thuật của Vn trước giờ vẫn thế , cắt lương rồi phản công du kích ,hiếm khi giao tranh ,lần giao tranh là trận mông cổ lần đầu bị đánh cho te tua
 
Hiệp ước giống kiểu văn vẻ của bọn quan văn thích ngoại giao.
Để ký 1 hiệp ước là mất rất nhiều time, phải liên hệ ông nọ bà kia rồi chạy sộc sộc đi thuyết phục từng người hiểu về cuộc chiến, rồi tranh luận. Dưới góc nhìn của 1 người ngoại giao là vậy, nhưng với mày nếu là 1 người lính, 1 người tướng thì chả khác nào "Dao sắt mà không rèn được chui" cứ phải vừa đánh vừa chờ hội nghị ngoại giao, bàn luận chính trị làm mất rất nhiều time, thui chột tinh thần người lính trong khi đó nếu lâm trận luôn thì 1 vị tướng như mày sẽ nghiệm ra được các chiến lược chiến thuật trong trận đấu, chỉ có cách đánh đuổi giặc ra khỏi lãnh thổ là cách hữu hiệu nhất, ít tốn time nhất để dành chiến thắng trận chiến.
Như thời nhà Nguyễn, các tướng quan võ luôn tự tin muốn vua Nguyễn chủ chiến với quân Pháp, cứ đánh trước thấy thiếu gì thì bổ sung sau nhưng các vua Nguyễn lại không chịu nghe, nghe lời lý lẽ của bọn quan văn chọn chủ hòa, dùng ngoại giao lý lẽ để thuyết phục Pháp ký hiệp ước. Cuối cùng kết quả hiệp ước đưa ra bất lợi cho VN, do Phan Thanh Giản đi đàm phán.
Nhà Nguyễn chỉ mới ngửi mùi thua trận trong trận Đà Nẵng, Gia Định, Hà Nội thì đã vội xin đàm phán rồi.
Nếu vua Quang Trung người tướng võ thứ thiệt còn sống, tao nghĩ ông ấy có thể tìm cách đánh thắng trận solo với Pháp. Không ai như vua Nguyễn, đưa cả Nguyễn Tri Phương 1 người quan văn, biết làm thơ lên làm tướng giữ thành, kết cuộc thua trận thảm hại. Rất nhiều tướng VN thời nhà Nguyễn chỉ giỏi làm thơ văn. Vua Nguyễn không ưa, không thích những người tướng võ.
Chưa kể vua Nguyễn còn sai lầm trong chiến lược trị dân, dùng tư duy: "Ngự Binh Ư Nông" để giải giáp quân đội, đến khi Pháp vào thì mới đi tuyển quân, thua là cái chắc.
Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, ông ấy cấm tuyệt đối tư duy quá khứ "Ngự Binh Ư Nông", xây doanh trại quân đội ngày đêm tập luyện thao trường nên quân đội rất mạnh.
Mày đéo hiểu gì về lịch sử thời đó
Và hết chuyện ngu đần lại đem Huệ ra.
Huệ là thằng hèn hạ nhục nhã nhất lịch sử An nam khi thân chinh sang Bắc Kinh quỳ lạy Càn Long nhận cha xưng con hèn mạt đến mức tụi sứ Triều Tiên thấy còn khinh bỉ
 
Hiệp ước giống kiểu văn vẻ của bọn quan văn thích ngoại giao.
Để ký 1 hiệp ước là mất rất nhiều time, phải liên hệ ông nọ bà kia rồi chạy sộc sộc đi thuyết phục từng người hiểu về cuộc chiến, rồi tranh luận. Dưới góc nhìn của 1 người ngoại giao là vậy, nhưng với mày nếu là 1 người lính, 1 người tướng thì chả khác nào "Dao sắt mà không rèn được chui" cứ phải vừa đánh vừa chờ hội nghị ngoại giao, bàn luận chính trị làm mất rất nhiều time, thui chột tinh thần người lính trong khi đó nếu lâm trận luôn thì 1 vị tướng như mày sẽ nghiệm ra được các chiến lược chiến thuật trong trận đấu, chỉ có cách đánh đuổi giặc ra khỏi lãnh thổ là cách hữu hiệu nhất, ít tốn time nhất để dành chiến thắng trận chiến.
Như thời nhà Nguyễn, các tướng quan võ luôn tự tin muốn vua Nguyễn chủ chiến với quân Pháp, cứ đánh trước thấy thiếu gì thì bổ sung sau nhưng các vua Nguyễn lại không chịu nghe, nghe lời lý lẽ của bọn quan văn chọn chủ hòa, dùng ngoại giao lý lẽ để thuyết phục Pháp ký hiệp ước. Cuối cùng kết quả hiệp ước đưa ra bất lợi cho VN, do Phan Thanh Giản đi đàm phán.
Nhà Nguyễn chỉ mới ngửi mùi thua trận trong trận Đà Nẵng, Gia Định, Hà Nội thì đã vội xin đàm phán rồi.
Nếu vua Quang Trung người tướng võ thứ thiệt còn sống, tao nghĩ ông ấy có thể tìm cách đánh thắng trận solo với Pháp. Không ai như vua Nguyễn, đưa cả Nguyễn Tri Phương 1 người quan văn, biết làm thơ lên làm tướng giữ thành, kết cuộc thua trận thảm hại. Rất nhiều tướng VN thời nhà Nguyễn chỉ giỏi làm thơ văn. Vua Nguyễn không ưa, không thích những người tướng võ.
Chưa kể vua Nguyễn còn sai lầm trong chiến lược trị dân, dùng tư duy: "Ngự Binh Ư Nông" để giải giáp quân đội, đến khi Pháp vào thì mới đi tuyển quân, thua là cái chắc.
Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, ông ấy cấm tuyệt đối tư duy quá khứ "Ngự Binh Ư Nông", xây doanh trại quân đội ngày đêm tập luyện thao trường nên quân đội rất mạnh.
Đây là chênh lệch vũ khí thời đó
1860 trận bát lý kiều ở Trung Quốc
30.000 kỵ binh bộ binh tinh nhuệ Mãn Châu và Mông Cổ của quân Thanh xếp thành một vòng cung dài 5 km ở đầu cầu Ba Lí. Dưới sự chỉ huy của Tăng Cách Lâm Thấm, những kỵ binh này trên đồng cỏ đã phát động một cuộc tấn công anh dũng vào lực lượng đồng minh Anh và Pháp.

Nhưng dưới sự bảo vệ bằng súng ống hiện đại của quân đồng minh Anh và Pháp, chiến tranh đã sớm kết thúc. Chỉ có 2 trong số 6.000 quân Anh thiệt mạng và 29 người bị thương. Hơn 30.000 kỵ binh Mông Cổ chỉ giết được 2 người liên quân Anh và Pháp, trong khi hơn 10.000 quân Thanh tử trận.

Nhưng dù thế nào đi nữa, trận chiến này được coi là một thảm kịch trong triều đại nhà Thanh, và nó cũng là khởi đầu cho sự suy tàn của quân đội nhà Thanh.

Quân đội Anh tuy nhỏ nhưng hiệu quả chiến đấu vẫn rất cao. Trong lịch sử, không ít trận đánh ít thắng nhiều, nên quân số không phải là yếu tố chính trong một trận chiến, quan trọng nhất là hiệu quả và chiến lược. Cái mà quân Thanh mất đi chính là sự hiệu quả và chiến lược.


Theo như lời kể của Trung úy Paul Dragange thuộc Lữ đoàn Pháo binh dã chiến số 2 của Lực lượng Viễn chinh Pháp:

Súng Đại bác và đạn chì không thể tiêu diệt hoàn toàn chúng, và các Kị binh dường như được tái sinh từ đống tro tàn. Chúng ngoan cường đến mức liều lĩnh lao đến nơi chỉ cách Khẩu pháo 30 mét. Đại bác của ta bắn liên hồi, đạn pháo bay tứ tung, rơi vãi trong đám cháy.

Lực lượng Anh – Pháp tiến vào Bắc Kinh ngày 06 tháng 10. Hoàng đế Hàm Phong đã rời khỏi Kinh đô và trao cho em là Cung Thân Vương chịu trách nhiệm đàm phán hòa bình.



Cho nên kết quả duy nhất của nhà Nguyễn khi đó là phải ký hiệp ước dâng 6 tỉnh đéo có cách nào khác
Dù thằng Huệ có sống lại thì nó hàng còn nhục nhã hơn
 
cũng ko hẳn Pháp đánh vào Vn sau khi chiến tranh thuốc phiện xảy ra , tau nghỉ lúc đó thiên triều bị xẻ xứ giao châu chả sợ ra , cũng thấy được sức mạnh của phương tây rồi , nếu đánh thì khả năng mất nước ,có lợi nhất lúc đó là thủ hòa bớt rồi đánh sau
chiến thuật của Vn trước giờ vẫn thế , cắt lương rồi phản công du kích ,hiếm khi giao tranh ,lần giao tranh là trận mông cổ lần đầu bị đánh cho te tua
Cơ bản quân đội nhà Nguyễn quá yếu, nhà Nguyễn ưu tiên dẹp loạn các cuộc khởi nghĩa nội bộ hơn là đánh với Pháp.
Nếu vua xuất thân là 1 ông tướng như Quang Trung thì sẽ ưu tiên chủ chiến.
Thời vua Quang Trung đã cử người liên hệ với đám Hải Tặc ở Singapore để mua vũ khí đại bác súng từ khu vực Malacca ở Malaysia rồi.
Mày đọc sử sẽ thấy cách vua Quang Trung làm tướng, giết địch không cả nể, không bắt làm tù binh, giết hết. Thằng nào gia nhập quân Tây Sơn rồi mà lâm trận quay đầu chạy là bị chết không toàn thây hết cả nhà.
 
Cơ bản quân đội nhà Nguyễn quá yếu, nhà Nguyễn ưu tiên dẹp loạn các cuộc khởi nghĩa nội bộ hơn là đánh với Pháp.
Nếu vua xuất thân là 1 ông tướng như Quang Trung thì sẽ ưu tiên chủ chiến.
Thời vua Quang Trung đã cử người liên hệ với đám Hải Tặc ở Singapore để mua vũ khí đại bác súng từ khu vực Malacca ở Malaysia rồi.
Mày đọc sử sẽ thấy cách vua Quang Trung làm tướng, giết địch không cả nể, không bắt làm tù binh, giết hết. Thằng nào gia nhập quân Tây Sơn rồi mà lâm trận quay đầu chạy là bị chết không toàn thây hết cả nhà.
Chiến con cặc.
Lúc đó chiến thì nhà Nguyễn và dân Miền Nam còn bị Pháp nó diệt chủng như diệt chủng người da đỏ luôn
Đã ngu còn phét lác.
Biết chênh lệch vũ khí nó khủng khiếp thế nào không?
30.000 kỵ binh thanh mà chỉ giết được 2 thằng lính Anh 3 thằng pháp
Còn chết 10 000 đứa.
20 000 bỏ chạy thục mạng
Hay mày nghĩ nhà Nguyễn xịn hơn Mãn Thanh?
 
Cơ bản quân đội nhà Nguyễn quá yếu, nhà Nguyễn ưu tiên dẹp loạn các cuộc khởi nghĩa nội bộ hơn là đánh với Pháp.
Nếu vua xuất thân là 1 ông tướng như Quang Trung thì sẽ ưu tiên chủ chiến.
Thời vua Quang Trung đã cử người liên hệ với đám Hải Tặc ở Singapore để mua vũ khí đại bác súng từ khu vực Malacca ở Malaysia rồi.
Mày đọc sử sẽ thấy cách vua Quang Trung làm tướng, giết địch không cả nể, không bắt làm tù binh, giết hết. Thằng nào gia nhập quân Tây Sơn rồi mà lâm trận quay đầu chạy là bị chết không toàn thây hết cả nhà.
Trích hồi ký nam kỳ viễn chinh ký
HISTOIRE DE L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE EN 1861: dịch chính xác là: LỊCH SỬ CUỘC VIỄN CHINH NAM KỲ NĂM 1861

Được xem là ký sự chiến trường, được viết bởi tác giả Léopold Pallu - Trung úy hải quân Pháp trực tiếp tham gia vào cuộc viễn chinh của Pháp tại Nam kỳ thời kỳ đó, Các bài viết được Léopold Pallu viết liên tục trong năm 1861 trong thời gian tham chiến tại Nam Kỳ, được ông gửi về Pháp đăng báo ngay trong năm đó. Vào năm 1864, ông hoàn chỉnh bản thảo và in thành sách.
...

Chỉ huy trưởng cuộc viễn chinh là phó thủy sư đề đốc Charner có toàn quyền tuyên chiến hay giảng hòa với xứ An Nam. Từ Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè treo cờ Pháp phải thực thi mệnh lệnh của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của mình; tất cả các trách nhiệm quan trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh của phó đề đốc. Chính đây là sự uỷ quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất Đế chế (là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng 4 năm 1814, dưới thời Napoléon) giao cho một vị tuớng lãnh hải quân.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hạm đội hơn sáu mươi chiếc, gồm 1 tàu chuyên chở có trọng tải nặng, 2 tàu chiến loại một chạy bằng chân vịt, 5 tàu chiến loại một chạy bằng buồm ( frégate de premier rang: loại tàu chiến có 3 cột buồm), 1 tàu chiến đấu loại hai chạy buồm (frégate de deuxième rang: loại tàu chiến nhỏ hơn có 2 cột buồm), 1 đại pháo hạm trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 đại pháo hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm loại một chạy chân vịt, một hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 tàu hộ tống nhẹ chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, năm tàu hộ tống nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến hạm chạy buồm, 5 pháo hạm loại một chạy chân vịt, 16 thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được, 2 tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo, 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ khí xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 đại tá, 13 đại uý thuyền trưởng đại chiến hạm, 22 đại uý thuyền trưởng tàu chiến, 95 trung úy chiến hạm, 105 sĩ quan hải quân cấp trung úy, khoảng chừng 100 chuẩn uý, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chính, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 pháo các loại; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và Viễn đông được thuê để nối liền các cứ điểm từ bờ biển TQ đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lệnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý.


Với đội tàu chiến này thêm 10.000 lính thì nhà Nguyễn đéo có bất cứ cơ hội gì trong cuộc chiến này cả
 
Sửa lần cuối:
Đây là chênh lệch vũ khí thời đó
1860 trận bát lý kiều ở Trung Quốc
30.000 kỵ binh bộ binh tinh nhuệ Mãn Châu và Mông Cổ của quân Thanh xếp thành một vòng cung dài 5 km ở đầu cầu Ba Lí. Dưới sự chỉ huy của Tăng Cách Lâm Thấm, những kỵ binh này trên đồng cỏ đã phát động một cuộc tấn công anh dũng vào lực lượng đồng minh Anh và Pháp.

Nhưng dưới sự bảo vệ bằng súng ống hiện đại của quân đồng minh Anh và Pháp, chiến tranh đã sớm kết thúc. Chỉ có 2 trong số 6.000 quân Anh thiệt mạng và 29 người bị thương. Hơn 30.000 kỵ binh Mông Cổ chỉ giết được 2 người liên quân Anh và Pháp, trong khi hơn 10.000 quân Thanh tử trận.

Nhưng dù thế nào đi nữa, trận chiến này được coi là một thảm kịch trong triều đại nhà Thanh, và nó cũng là khởi đầu cho sự suy tàn của quân đội nhà Thanh.

Quân đội Anh tuy nhỏ nhưng hiệu quả chiến đấu vẫn rất cao. Trong lịch sử, không ít trận đánh ít thắng nhiều, nên quân số không phải là yếu tố chính trong một trận chiến, quan trọng nhất là hiệu quả và chiến lược. Cái mà quân Thanh mất đi chính là sự hiệu quả và chiến lược.


Theo như lời kể của Trung úy Paul Dragange thuộc Lữ đoàn Pháo binh dã chiến số 2 của Lực lượng Viễn chinh Pháp:

Súng Đại bác và đạn chì không thể tiêu diệt hoàn toàn chúng, và các Kị binh dường như được tái sinh từ đống tro tàn. Chúng ngoan cường đến mức liều lĩnh lao đến nơi chỉ cách Khẩu pháo 30 mét. Đại bác của ta bắn liên hồi, đạn pháo bay tứ tung, rơi vãi trong đám cháy.

Lực lượng Anh – Pháp tiến vào Bắc Kinh ngày 06 tháng 10. Hoàng đế Hàm Phong đã rời khỏi Kinh đô và trao cho em là Cung Thân Vương chịu trách nhiệm đàm phán hòa bình.



Cho nên kết quả duy nhất của nhà Nguyễn khi đó là phải ký hiệp ước dâng 6 tỉnh đéo có cách nào khác
Dù thằng Huệ có sống lại thì nó hàng còn nhục nhã hơn
Nhà Thanh thua Anh, Bồ,.... vì nó phải đối đầu với quá nhiều lực lượng chứ chưa hẵn đã thua.
Trận chiến đầu tiên là với Đế Quốc Nga Hoàng thua trận dẫn đến 1 lượng lớn quân sĩ, vũ khí, lãnh thổ bị người Nga chiếm. Kế đến là các lực lượng người Hán khởi nghĩa như đám Hải Tặc, quân Đồng Minh Hội, Thái Bình Thiên Quốc,... cũng làm nhà Thanh suy kiệt 1 phần lớn dù thắng trận.
Tiếp theo là đến liên quân Anh, Bồ, Ý,... nhảy vào dành Hương Cảng, Ma Cao của TQ.
Đối diện với Thập Diện Mai Phục như trên thì nhà Thanh sớm suy tàn thôi.
Còn ở đây, nhà Nguyễn chỉ phải đối đầu với 1, 2 tàu tuần duyên của Pháp đi vào cảng. Nhà Nguyễn huy động quân đội quá chậm dẫn đến Pháp đưa quân vào cảng lập doanh trại, xây dựng căn cứ.
Lý do lớn nhất như tao nói ở trên là nhà Nguyễn có quân đội quá yếu, từ thời vua Tự Đức người tự cho là thích làm thơ thì cái VN này đã bắt đầu tàn từ đó.
Chưa kể cái tư duy: "Ngự Binh Ư Nông", quân đội VN thời đó đa phần là dân quân khi cần mới tuyển làm thui chột võ tướng.
 
Nhà Thanh thua Anh, Bồ,.... vì nó phải đối đầu với quá nhiều lực lượng chứ chưa hẵn đã thua.
Trận chiến đầu tiên là với Đế Quốc Nga Hoàng thua trận dẫn đến 1 lượng lớn quân sĩ, vũ khí, lãnh thổ bị người Nga chiếm. Kế đến là các lực lượng người Hán khởi nghĩa như đám Hải Tặc, quân Đồng Minh Hội, Thái Bình Thiên Quốc,... cũng làm nhà Thanh suy kiệt 1 phần lớn dù thắng trận.
Tiếp theo là đến liên quân Anh, Bồ, Ý,... nhảy vào dành Hương Cảng, Ma Cao của TQ.
Đối diện với Thập Diện Mai Phục như trên thì nhà Thanh sớm suy tàn thôi.
Còn ở đây, nhà Nguyễn chỉ phải đối đầu với 1, 2 tàu tuần duyên của Pháp đi vào cảng. Nhà Nguyễn huy động quân đội quá chậm dẫn đến Pháp đưa quân vào cảng lập doanh trại, xây dựng căn cứ.
Lý do lớn nhất như tao nói ở trên là nhà Nguyễn có quân đội quá yếu, từ thời vua Tự Đức người tự cho là thích làm thơ thì cái VN này đã bắt đầu tàn từ đó.
Chưa kể cái tư duy: "Ngự Binh Ư Nông", quân đội VN thời đó đa phần là dân quân khi cần mới tuyển làm thui chột võ tướng.
1-2 tàu tuần duyên của mày đây.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hạm đội hơn sáu mươi chiếc, gồm 1 tàu chuyên chở có trọng tải nặng, 2 tàu chiến loại một chạy bằng chân vịt, 5 tàu chiến loại một chạy bằng buồm ( frégate de premier rang: loại tàu chiến có 3 cột buồm), 1 tàu chiến đấu loại hai chạy buồm (frégate de deuxième rang: loại tàu chiến nhỏ hơn có 2 cột buồm), 1 đại pháo hạm trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 đại pháo hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm loại một chạy chân vịt, một hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 tàu hộ tống nhẹ chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, năm tàu hộ tống nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến hạm chạy buồm, 5 pháo hạm loại một chạy chân vịt, 16 thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được, 2 tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo, 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ khí xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 đại tá, 13 đại uý thuyền trưởng đại chiến hạm, 22 đại uý thuyền trưởng tàu chiến, 95 trung úy chiến hạm, 105 sĩ quan hải quân cấp trung úy, khoảng chừng 100 chuẩn uý, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chính, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 pháo các loại; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và Viễn đông được thuê để nối liền các cứ điểm từ bờ biển TQ đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lệnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý.
 
1-2 tàu tuần duyên của mày đây.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hạm đội hơn sáu mươi chiếc, gồm 1 tàu chuyên chở có trọng tải nặng, 2 tàu chiến loại một chạy bằng chân vịt, 5 tàu chiến loại một chạy bằng buồm ( frégate de premier rang: loại tàu chiến có 3 cột buồm), 1 tàu chiến đấu loại hai chạy buồm (frégate de deuxième rang: loại tàu chiến nhỏ hơn có 2 cột buồm), 1 đại pháo hạm trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 đại pháo hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm loại một chạy chân vịt, một hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 tàu hộ tống nhẹ chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, năm tàu hộ tống nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến hạm chạy buồm, 5 pháo hạm loại một chạy chân vịt, 16 thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được, 2 tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo, 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ khí xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 đại tướng, 13 đại uý thuyền trưởng đại chiến hạm, 22 đại uý thuyền trưởng tàu chiến, 95 trung úy chiến hạm, 105 sĩ quan hải quân cấp trung úy, khoảng chừng 100 chuẩn uý, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chính, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 pháo các loại; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và Viễn đông được thuê để nối liền các cứ điểm từ bờ biển TQ đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lệnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý.
Pháp nó đánh đầu tiên là ở Đà Nẵng, đánh Đà Nẵng không thắng nên nó mới luồn về Gia Định. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này chắc ăn hơn Pháp rủ Tây Ban Nha lâm trận.
Gia Định thời đó chỉ là đất rừng, toàn mương nước, kênh rạch, có khu vực nằm rìa với Đồng Nai gọi là Gia Định thành và khu vực Chợ Lớn là còn có chợ đông dân 1 tý, gọi là thành.
Khi Pháp đánh vào Gia Định, nhà Nguyễn không huy động kịp quân đội vì quân đội khu vực miền Nam nằm ở Campuchia, còn quân đội khu vực miền Bắc, Trung không vào ứng cứu kịp, dẫn đến nhà Nguyễn chỉ có thể huy động được dân quân địa phương, tay không tất sắt thì thắng nổi gì?
Đợi 1 tháng sau quân đội nhà Nguyễn đến thì Pháp nó xây dựng doanh trại kiên cố, phòng thủ từ trước rồi.
Nhưng ít ra quân đội nhà Nguyễn còn khôn ở chỗ cắt tiếp tế lương thực từ trong VN nên bọn Pháp đói ăn nên mới cho phá thành rồi chuồn về.
Tao vẫn cho rằng nếu quân đội nhà Nguyễn lâm trận trong thời điểm này vẫn có thể thắng Pháp nhờ áp đảo số lượng. Nhà Nguyễn nghiêm trận đánh nghiêm túc ngay từ đầu có thể dọa Pháp và bắt vài người làm tù binh thì Pháp nó đã thấy khó xơi mà tìm xứ khác.
 
Pháp nó đánh đầu tiên là ở Đà Nẵng, đánh Đà Nẵng không thắng nên nó mới luồn về Gia Định. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này chắc ăn hơn Pháp rủ Tây Ban Nha lâm trận.
Gia Định thời đó chỉ là đất rừng, toàn mương nước, kênh rạch, có khu vực nằm rìa với Đồng Nai gọi là Gia Định thành và khu vực Chợ Lớn là còn có chợ đông dân 1 tý, gọi là thành.
Khi Pháp đánh vào Gia Định, nhà Nguyễn không huy động kịp quân đội vì quân đội khu vực miền Nam nằm ở Campuchia, còn quân đội khu vực miền Bắc, Trung không vào ứng cứu kịp, dẫn đến nhà Nguyễn chỉ có thể huy động được dân quân địa phương, tay không tất sắt thì thắng nổi gì?
Đợi 1 tháng sau quân đội nhà Nguyễn đến thì Pháp nó xây dựng doanh trại kiên cố, phòng thủ từ trước rồi.
Nhưng ít ra quân đội nhà Nguyễn còn khôn ở chỗ cắt tiếp tế lương thực từ trong VN nên bọn Pháp đói ăn nên mới cho phá thành rồi chuồn về.
Tao vẫn cho rằng nếu quân đội nhà Nguyễn lâm trận trong thời điểm này vẫn có thể thắng Pháp nhờ áp đảo số lượng. Nhà Nguyễn nghiêm trận đánh nghiêm túc ngay từ đầu có thể dọa Pháp và bắt vài người làm tù binh thì Pháp nó đã thấy khó xơi mà tìm xứ khác.
Mày nhìn cái đội hình của Pháp mà nghĩ nhà Nguyễn có cơ hội nào thì cũng hài thật đấy
Trận Gia Định pháp chỉ dùng 2000 trong tổng số 8000 thủy quân của nó thôi
Đánh trận Gia Định xong Tự Đức hỏi các tướng ai dám dẫn quân chống pháp thì thằng tướng nào cũng sợ chạy hết
Nghe tiếng súng pháp nổ là đái ra quần
 
Pháp nó đánh đầu tiên là ở Đà Nẵng, đánh Đà Nẵng không thắng nên nó mới luồn về Gia Định. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này chắc ăn hơn Pháp rủ Tây Ban Nha lâm trận.
Gia Định thời đó chỉ là đất rừng, toàn mương nước, kênh rạch, có khu vực nằm rìa với Đồng Nai gọi là Gia Định thành và khu vực Chợ Lớn là còn có chợ đông dân 1 tý, gọi là thành.
Khi Pháp đánh vào Gia Định, nhà Nguyễn không huy động kịp quân đội vì quân đội khu vực miền Nam nằm ở Campuchia, còn quân đội khu vực miền Bắc, Trung không vào ứng cứu kịp, dẫn đến nhà Nguyễn chỉ có thể huy động được dân quân địa phương, tay không tất sắt thì thắng nổi gì?
Đợi 1 tháng sau quân đội nhà Nguyễn đến thì Pháp nó xây dựng doanh trại kiên cố, phòng thủ từ trước rồi.
Nhưng ít ra quân đội nhà Nguyễn còn khôn ở chỗ cắt tiếp tế lương thực từ trong VN nên bọn Pháp đói ăn nên mới cho phá thành rồi chuồn về.
Tao vẫn cho rằng nếu quân đội nhà Nguyễn lâm trận trong thời điểm này vẫn có thể thắng Pháp nhờ áp đảo số lượng. Nhà Nguyễn nghiêm trận đánh nghiêm túc ngay từ đầu có thể dọa Pháp và bắt vài người làm tù binh thì Pháp nó đã thấy khó xơi mà tìm xứ khác.


Sau hai năm bao vây (1859–1861), quân Nguyễn không thể phá vỡ phòng tuyến của Pháp, buộc vua Tự Đức phải nhượng ba tỉnh miền Đông và Phú Quốc qua Hòa ước Nhâm Tuất (1862)
 
Pháp nó đánh đầu tiên là ở Đà Nẵng, đánh Đà Nẵng không thắng nên nó mới luồn về Gia Định. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này chắc ăn hơn Pháp rủ Tây Ban Nha lâm trận.
Gia Định thời đó chỉ là đất rừng, toàn mương nước, kênh rạch, có khu vực nằm rìa với Đồng Nai gọi là Gia Định thành và khu vực Chợ Lớn là còn có chợ đông dân 1 tý, gọi là thành.
Khi Pháp đánh vào Gia Định, nhà Nguyễn không huy động kịp quân đội vì quân đội khu vực miền Nam nằm ở Campuchia, còn quân đội khu vực miền Bắc, Trung không vào ứng cứu kịp, dẫn đến nhà Nguyễn chỉ có thể huy động được dân quân địa phương, tay không tất sắt thì thắng nổi gì?
Đợi 1 tháng sau quân đội nhà Nguyễn đến thì Pháp nó xây dựng doanh trại kiên cố, phòng thủ từ trước rồi.
Nhưng ít ra quân đội nhà Nguyễn còn khôn ở chỗ cắt tiếp tế lương thực từ trong VN nên bọn Pháp đói ăn nên mới cho phá thành rồi chuồn về.
Tao vẫn cho rằng nếu quân đội nhà Nguyễn lâm trận trong thời điểm này vẫn có thể thắng Pháp nhờ áp đảo số lượng. Nhà Nguyễn nghiêm trận đánh nghiêm túc ngay từ đầu có thể dọa Pháp và bắt vài người làm tù binh thì Pháp nó đã thấy khó xơi mà tìm xứ khác.


Tình hình chiến sự thay đổi hẳn trong tháng 2-1861, sau khi quân Pháp chiến thắng Trung Hoa, và hoà ước Bắc Kinh được ký kết. Chủ lực của họ kéo về phương nam, tiếp tục cuộc chiến đấu dở dang với Việt Nam ở Nam Kỳ. Lực lượng quân đội viễn chinh lúc này kể cả thủy lục có khoảng 8.000 người với hơn 30 tàu chiến đủ loại và nhiều thuyền chuyên chở, 150 kỵ binh Phi Luật Tân, 600 lao dịch lấy ở Quảng Châu. Đô đốc Charner tổng chỉ huy quân đi viễn chinh đã rất ngạc nhiên khi tận mắt nhìn thấy sự tiến triển của chiến lũy Việt Nam. Hắn chuẩn bị đánh một trận lớn để phá vỡ chiến lũy, lấy đà tiến lên đánh chiếm toàn thể lục tỉnh.

Charner là một con cáo già, liệu đánh vỗ mặt thì sẽ gặp nhiều sức kháng cự. Vì thế hắn đã quyết định tấn công về phiá bên phải phòng tuyến Việt Nam, rồi tiến lên đánh vào đàng sau đại đồn Chí Hoà. Trong khi đó thì thủy quân sẽ ngược dòng sông Sài Gòn đánh vào phía trái phòng tuyến Việt Nam và chặn đường liên lạc của Việt Nam trên đường Sài Gòn – Biên Hoà. Chúng đã nghi binh, làm như định đánh thẳng vào trước mặt phòng tuyến Việt Nam. Quân Việt Nam dĩ nhiên phải tập trung đề phòng phiá trước mặt phòng tuyến. Nhưng ngày 24-2-1861, Charner kéo 30 tàu chiến cùng với 3.000 quân tấn công vào phía bên phải phòng tuyến Việt Nam từ bốn giờ rưỡi sáng. Trận đánh đến trưa thì kết thúc. Pháp chiếm được tiền đồn bên phải phòng tuyến Việt Nam, với 66 thương vong : 6 chết trận, 60 bị thương. Buổi chiều, trong lúc liên quân Pháp – Tây Ban Nha nghỉ để chỉnh đốn, quân Việt Nam cho voi từ đại đồn xông ra đánh, nhưng không thành công.

Sáng ngày 25-2-1861, Charner cho đoàn quân tấn công chia làm 4 đội – ba đội xung phong đánh sau lưng đại đồn và một đội dự bị. Trận đánh quyết liệt đã diễn ra trong suốt ngày 25-2-1861. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, quân Việt Nam đã chiến đấu vô cùng dũng cảm. Có nơi toàn thể đơn vị cho đến khi người cuối cùng bị tử trận. Theo tài liệu Pháp thì xác chết của quân Việt Nam bỏ lại ở hai ngăn cuối cùng của đại đồn Chí Hoà đã trên 300. Đó là chưa kể các ngăn khác và các vùng chung quanh. Chính Đô-đốc Charner trong báo cáo về chính phủ Pháp đã phải công nhận như sau “Trong hai ngày 24 và 25 tháng 2, sự chống cự của địch đã vô cùng mãnh liệt.”

Về phiá Việt Nam, có nhiều tướng lãnh bỏ mình : Nguyễn Duy em Nguyễn Tri Phương cùng tán lý Nguyễn Duy Dữ, tán dương Tôn Thất Trĩ đã tử trận. Phan Thế Hiển bị đạn xuyên qua ngực, võng về Biên Hoà. Nguyễn Tri Phương bị đạn ở bả vai phải rút về Tân Sơn Nhứt rồi Biên Hoà. Trước khi chết Phan Thế Hiển, vị phó tướng, nói với Nguyễn Tri Phương: “Trong đời cầm binh, tôi chưa thấy trận nào quyết liệt, dữ dội như trận Chí Hoà này. Lòng can đảm liều mình của binh lính ta không thua họ. Nhưng về binh khí thì không thể thắng nổi họ. Phải lo dưỡng dân, nuôi quân, mua binh khí của họ mà đánh họ, may ra mới được.”

Về phiá quân đi viễn chinh có 2 sĩ quan bị thương : tướng Vassoigne tổng chỉ huy trận đánh đã bị thương nặng ngay từ ngày 24-2-1861, Charner phải thay thế. Đại tá Palanca chỉ huy trưởng đội quân Tây-ban-nha cũng bị thương nặng.

Vua Tự Đức và triều thần không biết là sáu tỉnh Nam Kỳ đã mất ngay từ lúc này. Binh tướng đã mất hết tinh thần. Đại quân của triều đình với tổng thống quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương cơ mưu như vậy, ở đại đồn Chí Hoà mà còn phải thua, thì giờ đây ai chống lại được bọn Tây dương ? Cả quan lẫn quân đều run sợ trước sức mạnh của bọn Tây dương. Cứ nghe tiếng súng của họ là bỏ chạy, còn đâu tinh thần để mà chiến đấu.

Charner muốn chiếm thêm nhiều đất rồi mới thương thuyết. Hắn sai Trung-tá Bourdais theo đường sông và Thiếu-tướng Page theo đường biển vào sông Cửu Long kẹp chặt thành Định Tường (Mỹ Tho). Tiếng súng to, súng nhỏ nổ rền vang giữa buổi sáng, dân chúng nháo nhác xô nhau mà chạy. Đô-đốc Nguyễn Công Nhàn mặt không còn hạt máu bỏ thành chạy, quân sĩ uà theo. Quân Pháp vào thành mà không tổn thất bao nhiêu. Charner cho quân lính dừng lại, sắp đặt việc cai trị
 
Mày nhìn cái đội hình của Pháp mà nghĩ nhà Nguyễn có cơ hội nào thì cũng hài thật đấy
Trận Gia Định pháp chỉ dùng 2000 trong tổng số 8000 thủy quân của nó thôi
Đánh trận Gia Định xong Tự Đức hỏi các tướng ai dám dẫn quân chống pháp thì thằng tướng nào cũng sợ chạy hết
Nghe tiếng súng pháp nổ là đái ra quần
Sau hai năm bao vây (1859–1861), quân Nguyễn không thể phá vỡ phòng tuyến của Pháp, buộc vua Tự Đức phải nhượng ba tỉnh miền Đông và Phú Quốc qua Hòa ước Nhâm Tuất (1862)
Nhà Nguyễn yếu về quân sự thì tao cũng thừa nhận rồi, còn việc tụi mày nói Pháp quá mạnh không đánh được thì tao không công nhận.
Triều Nguyễn là triều đại giống nhà Lý, lấy văn thơ và Nho học từ TQ làm kim chỉ Nam phát triển đất nước. Ngay cả chính quyền trước Nguyễn Ánh là các Chúa Nguyễn thì lấy mài võ chứ không lấy văn chương, nhờ vậy mà lãnh thổ Đàng Trong mở rộng không ngừng.
Nguyễn Ánh một mặt ngưỡng mộ văn hóa TQ, mặt khác thích lấy đạo lý làm đường lối cai trị đất nước.
Các vua Nguyễn cũng không mặn mà xây dựng các doanh trại quân đội để mài võ, đó chính là điểm yếu chết người của họ.
Dễ thấy nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, nhà Nguyễn mất đến 2 năm (1832-1835) mới dẹp được cuộc khởi nghĩa này, nếu không phải do Khôi mắc bệnh chết đột ngột thì chưa chắc quân vua Minh Mạng tìm được cách hạ quân Khôi. Đây là thời vua Minh Mạng triều đại hưng thịnh nhất của nhà Nguyễn mà loay hoay mất 2 năm, phải có may mắn mới dẹp được.
Trước đây vua Quang Trung chỉ mất có 6 tháng để đưa quân dẹp loạn cả Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm ở miền Bắc.

1 Triều đại chỉ thích lấy văn chương, đạo lý ra trị dân thì không có hi vọng gì trận chiến quân sự rồi.
Đến khi nhà Nguyễn tan rã, đám hậu bối sau đó cũng lan man mấy cái hiệp ước ngoại giao cũng như đàm phán với Pháp làm mất time, dây dưa không đến đâu rồi lại mâu thuẫn nội bộ chia tách nhau trong đàm phán.
Lịch sử cận đại VN là giai đoạn nổi lên của cái gọi là bọn sĩ phu Bắc Hà, còn gọi là bọn lòng vòng.
 
Nhà Nguyễn yếu về quân sự thì tao cũng thừa nhận rồi, còn việc tụi mày nói Pháp quá mạnh không đánh được thì tao không công nhận.
Triều Nguyễn là triều đại giống nhà Lý, lấy văn thơ và Nho học từ TQ làm kim chỉ Nam phát triển đất nước. Ngay cả chính quyền trước Nguyễn Ánh là các Chúa Nguyễn thì lấy mài võ chứ không lấy văn chương, nhờ vậy mà lãnh thổ Đàng Trong mở rộng không ngừng.
Nguyễn Ánh một mặt ngưỡng mộ văn hóa TQ, mặt khác thích lấy đạo lý làm đường lối cai trị đất nước.
Các vua Nguyễn cũng không mặn mà xây dựng các doanh trại quân đội để mài võ, đó chính là điểm yếu chết người của họ.
Dễ thấy nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, nhà Nguyễn mất đến 2 năm (1832-1835) mới dẹp được cuộc khởi nghĩa này, nếu không phải do Khôi mắc bệnh chết đột ngột thì chưa chắc quân vua Minh Mạng tìm được cách hạ quân Khôi. Đây là thời vua Minh Mạng triều đại hưng thịnh nhất của nhà Nguyễn mà loay hoay mất 2 năm, phải có may mắn mới dẹp được.
Trước đây vua Quang Trung chỉ mất có 6 tháng để đưa quân dẹp loạn cả Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm ở miền Bắc.

1 Triều đại chỉ thích lấy văn chương, đạo lý ra trị dân thì không có hi vọng gì trận chiến quân sự rồi.
Đến khi nhà Nguyễn tan rã, đám hậu bối sau đó cũng lan man mấy cái hiệp ước ngoại giao cũng như đàm phán với Pháp làm mất time, dây dưa không đến đâu rồi lại mâu thuẫn nội bộ chia tách nhau trong đàm phán.
Lịch sử cận đại VN là giai đoạn nổi lên của cái gọi là bọn sĩ phu Bắc Hà, còn gọi là bọn lòng vòng.
Những gì mày nói có bằng chứng gì không
 
Bởi vì suy nghĩ 2 thằng giống nhau. Dân việt bị bọn Pháp nó nhồi nhét suy nghĩ kiểu của Pháp.
Chứ thử để bọn Mỹ, Anh nó đô hộ thì đã khác. Mấy thằng đệ của Anh trừ thằng Miến ra, giờ toàn thằng ngon.
 
Bởi vì suy nghĩ 2 thằng giống nhau. Dân việt bị bọn Pháp nó nhồi nhét suy nghĩ kiểu của Pháp.
Chứ thử để bọn Mỹ, Anh nó đô hộ thì đã khác. Mấy thằng đệ của Anh trừ thằng Miến ra, giờ toàn thằng ngon.
Bangladesh Pakistan Srilanka có ngon không?
 
Nhà Nguyễn yếu về quân sự thì tao cũng thừa nhận rồi, còn việc tụi mày nói Pháp quá mạnh không đánh được thì tao không công nhận.
Triều Nguyễn là triều đại giống nhà Lý, lấy văn thơ và Nho học từ TQ làm kim chỉ Nam phát triển đất nước. Ngay cả chính quyền trước Nguyễn Ánh là các Chúa Nguyễn thì lấy mài võ chứ không lấy văn chương, nhờ vậy mà lãnh thổ Đàng Trong mở rộng không ngừng.
Nguyễn Ánh một mặt ngưỡng mộ văn hóa TQ, mặt khác thích lấy đạo lý làm đường lối cai trị đất nước.
Các vua Nguyễn cũng không mặn mà xây dựng các doanh trại quân đội để mài võ, đó chính là điểm yếu chết người của họ.
Dễ thấy nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, nhà Nguyễn mất đến 2 năm (1832-1835) mới dẹp được cuộc khởi nghĩa này, nếu không phải do Khôi mắc bệnh chết đột ngột thì chưa chắc quân vua Minh Mạng tìm được cách hạ quân Khôi. Đây là thời vua Minh Mạng triều đại hưng thịnh nhất của nhà Nguyễn mà loay hoay mất 2 năm, phải có may mắn mới dẹp được.
Trước đây vua Quang Trung chỉ mất có 6 tháng để đưa quân dẹp loạn cả Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm ở miền Bắc.

1 Triều đại chỉ thích lấy văn chương, đạo lý ra trị dân thì không có hi vọng gì trận chiến quân sự rồi.
Đến khi nhà Nguyễn tan rã, đám hậu bối sau đó cũng lan man mấy cái hiệp ước ngoại giao cũng như đàm phán với Pháp làm mất time, dây dưa không đến đâu rồi lại mâu thuẫn nội bộ chia tách nhau trong đàm phán.
Lịch sử cận đại VN là giai đoạn nổi lên của cái gọi là bọn sĩ phu Bắc Hà, còn gọi là bọn lòng vòng.
Lực lượng vũ trang nhà Nguyễn (1558 - 1945)

(BQPVN) - Triều đại nhà Nguyễn được bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm (anh rể) tâu với vua Lê Anh Tông cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Quân đội nhà Nguyễn được tính từ khi lực lượng vũ trang tập đoàn phong kiến các chúa Nguyễn cát cứ ở phía nam cho đến khi nhà nước phong kiến triều Nguyễn bị lật đổ trong cách mạng tháng Tám năm 1945.

Quân đội Nguyễn trải qua hai thời kỳ tổ chức và xây dựng.

Thời kỳ thứ nhất (1558 - 1777): Khi Nguyễn Hoàng (chúa Tiên) mang quân đi trấn thủ Thuận Hóa và kết thúc lúc Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương) bị tử trận trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ở Long Xuyên.

Ban đầu, quân đội đi theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có khoảng 3.000 người. Từ năm 1600, được xây dựng theo hướng quân đội của một nhà nước phong kiến. Lực lượng vũ trang nhà Nguyễn lúc này gồm có: bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Lực lượng bộ binh và thủy binh làm lực lượng bảo đảm cho cơ động với một đội binh thuyền khoảng 200 thuyền chiến và nhiều thuyền vận tải chở quân và lương thực, lực lượng chiến đấu chính là bộ binh.

Quân số thường trực có khoảng 40 nghìn người, khi chiến sự xảy ra (trong nội chiến Trịnh - Nguyễn) quân đội Nguyễn lên tới 100 nghìn người.

Hệ thống tổ chức Quân đội Nguyễn gồm có: Dinh, cơ, đội, thuyền.

Trang bị, ngoài vũ khí truyền thống như quân đội các thời trước, quân đội Nguyễn đã được trang bị một số loại vũ khí mới như hỏa pháo, súng hỏa mai, quả nổ ném (tạc đạn)… tự sản xuất dưới sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha.

Quân Nguyễn đã 7 lần giao chiến lớn với quân của chúa Trịnh và phần lớn đã tan rã trước quân khởi nghĩa Tây Sơn trong những năm 1772 - 1777.

Thời kỳ thứ hai (1778 - 1945): Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, những năm đầu quân Nguyễn chỉ còn lại một bộ phận ít ỏi ở đồng bằng Nam Bộ, do Nguyễn Anh cầm đầu. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc (một cha cố đạo Thiên chúa giáo) và người Pháp, Nguyễn Ánh tổ chức lại lực lượng vũ trang của mình (trong đó có cả quân đánh thuê), chống lại nhà Tây Sơn và giành thắng lợi vào năm 1802.

Nguyễn Ánh lên ngôi vua và lấy niên hiệu Gia Long, quân đội Nguyễn được xây dựng theo mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Quân đội nhà Nguyễn trong thời kỳ này trải qua hai giai đoạn khác nhau, ứng với hai thời kỳ của vương triều Nguyễn. Giai đoạn đầu là quân đội của một vương triều độc lập tự chủ, giai đoạn sau là quân đội của một quốc gia phong kiến bị mất quyền tự chủ, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nghĩa thực dân Pháp đô hộ.

Giai đoạn 1 (1802 - 1883), Quân đội nhà Nguyễn có cơ cấu tổ chức như các triều đại trước nó, gồm các lực lượng bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, pháo binh. Cơ cấu tổ chức và hệ thống chỉ huy khá hoàn chỉnh.

Quân đội Nguyễn chia làm hai bộ phận chính quy, một bộ phận đóng ở kinh đô gọi là Vệ binh, có nhiệm vụ chính là bảo vệ Kinh thành Phú Xuân (Huế). Hệ thống tổ chức và biên chế cơ bản gồm có:

- Doanh biên chế 5 vệ;

- Vệ biên chế 10 đội, đứng đầu vệ là Vệ úy;

- Đội biên chế 5 thập, đứng đầu đội là Suất đội;

- Thập biên chế 10 ngũ, do Chánh đội trưởng chỉ huy;

- Ngũ gồm 5 người, do Ngũ trưởng chi huy

Vệ binh quân Nguyễn có khoảng 40 nghìn người. Trong lực lượng Vệ binh lại được chia làm 3 loại: Thân binh (hậu cận của vua và bảo vệ cấm thành), gồm 1 doanh và 4 vệ độc lập; Cấm binh làm nhiệm vụ quân cơ động và bảo vệ Kinh thành gồm 6 doanh và một số vệ, đội độc lập như những “binh chủng chuyên môn, kỹ thuật”: tượng binh, kỵ binh, thủy binh; Giản binh hay Tinh binh gồm một số vệ và đội thuộc các phủ, huyện, nha…

Vệ binh thường tuyển những người Đàng Trong, đến năm 1885 thì lực lượng này tan rã, chỉ còn lại một số nhỏ gọi là Thân binh để hầu cận các vua của triều Nguyễn từ sau khi nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng quân Pháp xâm lược.

Cơ binh là lực lượng đóng giữ các tỉnh, lộ, trấn (một số tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… cón có các vệ thuộc lực lượng Cấm binh do quan tỉnh trực tiếp chỉ huy song lệ thuộc vào các doanh ở kinh đô). Cơ binh tổ chức theo hệ thống:

- Doanh đứng đầu là quân đề đốc;

- Liên cơ đứng đầu là quan lãnh binh;

- Cơ (tương đương vệ) đứng đầu là chưởng cơ hay quản cơ;

- Dưới cơ là các tổ chức đội, thập, ngũ.

Đội quân Cơ binh của Quân đội nhà Nguyễn thời kỳ đầu có quân số khoảng 150 nghìn người, đến cuối thời kỳ này (1880) quân số này giảm đi đáng kể, ở miền Bắc còn khoảng 60 nghìn người.

Ngoài hai lực lượng chính là Vệ binh và Cơ binh, quân đội Nguyễn còn có lính trạm và lính lệ. Trong giai đoạn này, các lực lượng như thủy binh, tượng binh, pháo thủ binh được xây dựng như nước binh chủng chiến đấu.

Thủy binh được chú trọng phát triển với trên 200 nghìn người và một đội thuyền binh lên tới khoảng 800 chiếc không kể các thuyền làm nhiệm vụ vận tải. Trong lực lượng thuyer binh Nguyễn thời kỳ này đã có những chiếc thuyền được thiết kế theo kiểu chiến thuyền của châu Âu, trang bị mỗi thuyền 36 pháo. Có 200 pháo thuyền trang bị từ 16 - 22 pháo. 100 đại chiến thuyền với 50 - 70 mái chèo được trang bị pháo và cự thách pháo. Còn lại khoảng 500 chiến thuyền có khoảng 40 mái chèo và trang bị một pháo loại súng thần công.

Thủy quân cũng được tổ chức thành các đơn vị gọi là doanh như bộ binh. Mỗi doanh được biên chế gồm một số vệ (cơ), dưới cơ là các đội thuyền. Thuyền là đơn vị chiến đấu cơ sở. Tùy theo từng loại thuyền mà có số lượng quân khác nhau, trung bình mỗi thuyền chiến đấu có 50 - 60 người, Đứng đầu là lực lượng thủy binh quân đội Nguyễn thường là Thủy sư đô đốc.

Lực lượng tượng binh ban đầu tổ chức thành 1 doanh gồm có 5 vệ với 50 thớt voi ở kinh đô và 7 cơ ở những tỉnh mà triều Nguyễn xét thấy quan trọng. Sau đó số lượng co hẹp lại chỉ còn 2 vệ ở kinh đô và một vài cơ ở một số tỉnh.

Lực lượng pháo thủ binh cũng được tổ chức thành các doanh, dưới doanh, dưới doanh là vệ (cơ), mỗi vệ gồm một số đội. Biên chế mỗi vệ pháo thủ binh gồm 500 quân và trang bị 10 súng thần công, 200 súng điều sang; với các đơn vị đội biên chế 50 quân và 1 súng thần công. Đối với các đội, cơ pháo thủ binh thuộc lực lượng cơ binh của các tỉnh trực tiếp quản lý lệ thuộc doanh Thần cơ của triều đình về các mặt huấn luyện, trang bị vũ khí.

Về trang bị, quân đội Nguyễn khá phát triển. Nhiều đơn vị được trang bị hỏa khí như ống phun lửa, quả nổ, súng điều sang (gồm thạch cơ điều sang, thần cơ điều sang, bắc cơ điều sang), pháo (súng thần cơ, thần công thiết bác).

Chế độ tuyển binh được thực hiện bằng cách gọi đinh tráng. Thời hạn tại ngũ được xác định tùy theo sắc lính và địa phương tuyển quân. Thời hạn phục vụ trong quân ngũ là 10 năm đối với đối với binh lính được tuyển từ các tỉnh thuộc Nam Kỳ và từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, 15 năm ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa. Tuổi tối đa phục vụ trong quân đội thường trực là 50 (quy định này có từ năm 1868). Quan võ được tuyển chọn từ các kỳ thi võ.

Binh lính được cấp ruộng ở quê và hưởng lương ăn và một ít tiền.

Dưới thời Minh Mạng đến Tự Đức, Quân đội nhà Nguyễn có khoảng 120 nghìn người. Tuy nhiên sức chiến đấu của Quân đội nhà Nguyễn yếu kém do trang bị lạc hậu so với quân đội các nước đương thời, huấn luyện kém và triều đình ít quan tâm. Quân đội Nguyễn trong giai đoạn này đã bị quân xâm lược Pháp đánh bại và để đất nước rơi vào sự đô hộ của thực dân Pháp

Giai đoạn 2 (1884 - 1945), Việt Nam đã bị Pháp xâm lược hoàn toàn và chia ra làm ba xứ để cai trị với ba chế độ khác nhau. Triều đình Nguyễn trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Quân đội nhà Nguyễn lúc này vẫn tồn tại hai thành phần là Vệ binh và Cơ binh. Trong lực lượng Vệ binh chỉ còn có Thân binh với biên chế khoảng 2 nghìn quân trong 4 vệ và 1 đội quân nhạc phục vụ các nghi lễ của triều đình Nguyễn (khoảng 50 nhạc công). Lực lượng cơ binh chủ yếu là bộ binh chỉ còn lại ở các tỉnh Bắc Kỳ do quan đầu tỉnh của triều đình Huế trực tiếp nắm nhưng dưới sự giám sát của viên công sứ Pháp. Lực lượng Cơ binh có khoảng 27 nghìn quân được chia thành 4 đạo đóng trên địa bàn các tỉnh xung quanh Hà Nội và châu thổ sông Hồng.

Năm 1891, Toàn quyền Đông Dương của Pháp ra nghị định thành lập lực lượng Cơ binh do Pháp trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy, lực lượng này ban đầu có khoảng 4 nghìn quân, làm nhiệm vụ phục vụ quan lại người Việt Nam ở các tỉnh, huyện và canh gác công sở ở địa phương. Và với nghị định này của Toàn quyền Đông Dương đã đặt dấu chấm hết cho Quân đội nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến độc lập.

Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ nhà nước phong kiến cuối cùng ở Việt Nam cùng lực lượng vũ trang của chúng.
 

Có thể bạn quan tâm

Top