Theo một số chuyên gia, nếu không áp dụng mức tiêu thụ nhiên liệu ôtô con (CAFC) 4,83 lít/100km, Việt Nam có thể trở thành bãi rác công nghệ của thế giới.
Hiện nay, mức đề xuất tiêu thụ nhiên liệu ôtô con của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều các nước trên thế giới. Ảnh: Xuyên Đông
Không để Việt Nam thành bãi rác công nghệ
Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến Dự thảo Tiêu chuẩn kỹ thuật Quốc gia về mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình (CAFC) cho xe ôtô con tại Việt Nam. Theo đó, mức tiêu thụ trung bình theo dự thảo là 4,83 lít/100km vào năm 2030.
Dự thảo đang tạo ra những ý kiến tranh luận trái chiều. Một số ý kiến cho rằng mức tiêu thụ nhiên liệu 4,83 lít/100km là khắt khe, gây khó cho các hãng xe.
Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) gây chú ý khi cho rằng nếu áp dụng mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình 4,83 lít/100km, 96% xe chạy xăng dầu truyền thống sẽ phải ngừng bán.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia phân tích, mức tiêu thụ trên vẫn cao so với thế giới.
Thống kê cho thấy, mục tiêu CAFC 4,83 lít/100km vào năm 2030 của Việt Nam vẫn cao hơn 2,6 lần so với EU, 1,9 lần so với Trung Quốc, Australia, New Zealand. Ngay cả khi so với Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước có nhiều thương hiệu xe xăng, dầu lớn, mức tiêu thụ của Việt Nam vẫn đang cao hơn khá nhiều, gấp khoảng 1,4 lần so với Nhật Bản và 1,8 lần Hàn Quốc.
Những con số trên cho thấy một thực tế khá trái ngược. Xe xăng, dầu tại Việt Nam hầu hết là nhập khẩu hoặc chỉ lắp ráp cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Hơn nữa, phần lớn các nhà sản xuất ôtô lớn đang hoạt động tại Việt Nam đều là những tập đoàn đa quốc gia. Những mẫu xe ôtô nước ngoài này không chỉ được bán ở Việt Nam mà còn ở các thị trường khó tính với tiêu chuẩn khắt khe hơn nhiều như châu Âu, Úc, Nhật Bản…
Do đó, việc áp dụng một tiêu chuẩn tiến bộ tại Việt Nam yêu cầu các hãng mang những công nghệ tốt nhất, sạch nhất đến với người tiêu dùng Việt, thay vì chỉ cung cấp các phiên bản cũ hơn và có thể biến Việt Nam thành bãi rác công nghệ.
“Cần làm nhanh, làm sớm”
Về thời điểm áp dụng, giới chuyên gia cho rằng, đề xuất năm 2030 của Bộ Xây dựng là phù hợp và thậm chí cần áp dụng càng sớm càng tốt trong điều kiện ô nhiễm ngày càng nặng nề, đặc biệt là mục tiêu Net Zero đã ở trước mặt (năm 2050).
Đề xuất này càng trở nên cấp thiết khi mới đây, trong báo cáo “Tăng trưởng xanh hơn: Con đường hướng tới tương lai bền vững”, Ngân hàng Thế giới đã cảnh báo nếu không có thay đổi lớn về công nghệ, các chính sách của Việt Nam hiện nay chưa đủ để đạt chỉ tiêu Net Zero vào 2050.
Th.S Đinh Trọng Khang, Phó giám đốc Viện chuyên ngành Môi trường, Viện Khoa học công nghệ Giao thông vận tải cũng nhấn mạnh yêu cầu giảm phát thải là vô cùng cấp bách.
“Mỹ và các nước châu Âu yêu cầu về khí thải rất chặt và phạt rất nặng doanh nghiệp vi phạm. Họ xác định không thể cứ nhượng bộ mà vẫn đạt được những cam kết về mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0, vốn vô cùng thách thức. Nếu không hành động quyết liệt thì không thể thực hiện được”, Th.S Đinh Trọng Khang nói, đồng thời dẫn chứng thêm rằng Ấn Độ mới đây cũng đã công bố mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình của đội xe có trọng lượng 1.500 kg phải đạt 4,38 lít/100 km vào năm 2027, tức sớm hơn Việt Nam 3 năm.
Đồng tình, nhiều chuyên gia cũng nhấn mạnh việc yêu cầu các nhà sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn về chuyển đổi xanh là cần thiết và phải làm nhanh, làm sớm.
Thực tế, tiêu chuẩn mới theo dự thảo hoàn toàn khả thi bởi lộ trình được đưa ra linh hoạt. Ngoài thời gian chuẩn bị khá dài (5 năm), dự thảo cũng đưa ra lộ trình tăng dần theo từng năm. Cách làm này cho phép các doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đầu tư công nghệ.
Quan trọng hơn, cần sớm vận dụng cơ chế tín chỉ carbon như nhiều quốc gia đã làm để tạo ra sự linh hoạt và hợp tác cho các nhà sản xuất.
Các hãng xe có thế mạnh công nghệ như xe điện (EV) có thể bán tín chỉ dư thừa của mình cho các hãng khác còn đang tập trung vào động cơ đốt trong (ICE). Điều này tạo ra thị trường khuyến khích sự phát triển của công nghệ thân thiện với môi trường, đồng thời không triệt tiêu sự đa dạng sản phẩm.
Hơn hết, ở góc độ người dân, tiêu chuẩn mới mang lại lợi ích về mọi mặt khi người dùng Việt có thể tiết kiệm chi phí (xe tiết kiệm nhiên liệu đồng nghĩa chi phí thấp hơn), được tiếp cận những công nghệ sạch và hiệu quả. Xa hơn, việc giảm tiêu thụ nhiên liệu sẽ góp phần cải thiện chất lượng không khí, giảm các bệnh về đường hô hấp, qua đó đảm bảo sức khỏe cho hàng triệu người.
Hiện nay, mức đề xuất tiêu thụ nhiên liệu ôtô con của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều các nước trên thế giới. Ảnh: Xuyên Đông
Không để Việt Nam thành bãi rác công nghệ
Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến Dự thảo Tiêu chuẩn kỹ thuật Quốc gia về mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình (CAFC) cho xe ôtô con tại Việt Nam. Theo đó, mức tiêu thụ trung bình theo dự thảo là 4,83 lít/100km vào năm 2030.
Dự thảo đang tạo ra những ý kiến tranh luận trái chiều. Một số ý kiến cho rằng mức tiêu thụ nhiên liệu 4,83 lít/100km là khắt khe, gây khó cho các hãng xe.
Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) gây chú ý khi cho rằng nếu áp dụng mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình 4,83 lít/100km, 96% xe chạy xăng dầu truyền thống sẽ phải ngừng bán.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia phân tích, mức tiêu thụ trên vẫn cao so với thế giới.
Thống kê cho thấy, mục tiêu CAFC 4,83 lít/100km vào năm 2030 của Việt Nam vẫn cao hơn 2,6 lần so với EU, 1,9 lần so với Trung Quốc, Australia, New Zealand. Ngay cả khi so với Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước có nhiều thương hiệu xe xăng, dầu lớn, mức tiêu thụ của Việt Nam vẫn đang cao hơn khá nhiều, gấp khoảng 1,4 lần so với Nhật Bản và 1,8 lần Hàn Quốc.
Những con số trên cho thấy một thực tế khá trái ngược. Xe xăng, dầu tại Việt Nam hầu hết là nhập khẩu hoặc chỉ lắp ráp cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Hơn nữa, phần lớn các nhà sản xuất ôtô lớn đang hoạt động tại Việt Nam đều là những tập đoàn đa quốc gia. Những mẫu xe ôtô nước ngoài này không chỉ được bán ở Việt Nam mà còn ở các thị trường khó tính với tiêu chuẩn khắt khe hơn nhiều như châu Âu, Úc, Nhật Bản…
Do đó, việc áp dụng một tiêu chuẩn tiến bộ tại Việt Nam yêu cầu các hãng mang những công nghệ tốt nhất, sạch nhất đến với người tiêu dùng Việt, thay vì chỉ cung cấp các phiên bản cũ hơn và có thể biến Việt Nam thành bãi rác công nghệ.
“Cần làm nhanh, làm sớm”
Về thời điểm áp dụng, giới chuyên gia cho rằng, đề xuất năm 2030 của Bộ Xây dựng là phù hợp và thậm chí cần áp dụng càng sớm càng tốt trong điều kiện ô nhiễm ngày càng nặng nề, đặc biệt là mục tiêu Net Zero đã ở trước mặt (năm 2050).
Đề xuất này càng trở nên cấp thiết khi mới đây, trong báo cáo “Tăng trưởng xanh hơn: Con đường hướng tới tương lai bền vững”, Ngân hàng Thế giới đã cảnh báo nếu không có thay đổi lớn về công nghệ, các chính sách của Việt Nam hiện nay chưa đủ để đạt chỉ tiêu Net Zero vào 2050.
Th.S Đinh Trọng Khang, Phó giám đốc Viện chuyên ngành Môi trường, Viện Khoa học công nghệ Giao thông vận tải cũng nhấn mạnh yêu cầu giảm phát thải là vô cùng cấp bách.
“Mỹ và các nước châu Âu yêu cầu về khí thải rất chặt và phạt rất nặng doanh nghiệp vi phạm. Họ xác định không thể cứ nhượng bộ mà vẫn đạt được những cam kết về mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0, vốn vô cùng thách thức. Nếu không hành động quyết liệt thì không thể thực hiện được”, Th.S Đinh Trọng Khang nói, đồng thời dẫn chứng thêm rằng Ấn Độ mới đây cũng đã công bố mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình của đội xe có trọng lượng 1.500 kg phải đạt 4,38 lít/100 km vào năm 2027, tức sớm hơn Việt Nam 3 năm.
Đồng tình, nhiều chuyên gia cũng nhấn mạnh việc yêu cầu các nhà sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn về chuyển đổi xanh là cần thiết và phải làm nhanh, làm sớm.
Thực tế, tiêu chuẩn mới theo dự thảo hoàn toàn khả thi bởi lộ trình được đưa ra linh hoạt. Ngoài thời gian chuẩn bị khá dài (5 năm), dự thảo cũng đưa ra lộ trình tăng dần theo từng năm. Cách làm này cho phép các doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đầu tư công nghệ.
Quan trọng hơn, cần sớm vận dụng cơ chế tín chỉ carbon như nhiều quốc gia đã làm để tạo ra sự linh hoạt và hợp tác cho các nhà sản xuất.
Các hãng xe có thế mạnh công nghệ như xe điện (EV) có thể bán tín chỉ dư thừa của mình cho các hãng khác còn đang tập trung vào động cơ đốt trong (ICE). Điều này tạo ra thị trường khuyến khích sự phát triển của công nghệ thân thiện với môi trường, đồng thời không triệt tiêu sự đa dạng sản phẩm.
Hơn hết, ở góc độ người dân, tiêu chuẩn mới mang lại lợi ích về mọi mặt khi người dùng Việt có thể tiết kiệm chi phí (xe tiết kiệm nhiên liệu đồng nghĩa chi phí thấp hơn), được tiếp cận những công nghệ sạch và hiệu quả. Xa hơn, việc giảm tiêu thụ nhiên liệu sẽ góp phần cải thiện chất lượng không khí, giảm các bệnh về đường hô hấp, qua đó đảm bảo sức khỏe cho hàng triệu người.