
Hôm nào mày viết về kinh tế VN những tháng cuối năm và bức tranh toàn cảnh sang năm đi. Bao giờ vỡ nợ, bao giờ Vin sập
Con mợ nó , đông lào cũng deo có quy định trần , cho mafia ăn đất vay vô tội vạ , trái phiếu 3 0 bong bóng 🎈 chắc cũng sắp hết cỡ rồi ha Mr sờ mít .. Nhiều người cho rằng khởi điểm của Đại suy thoái là đến từ bank và stock, do ko có “quy định trần” khiến các bank cho vay và huy động tiền trong dân dễ dàng, tạo ra bong bóng (bong bóng stock là nhiều nhất) và nợ xấu đầm đìa. Khi nổ đĩa thì hiện tượng bank run (rút tiền hàng loạt) diễn ra khiến các bank phải đóng cửa hàng loạt.
Vin sập khó lắm anhHôm nào mày viết về kinh tế VN những tháng cuối năm và bức tranh toàn cảnh sang năm đi. Bao giờ vỡ nợ, bao giờ Vin sập
triển đại hiệp tính ép tiên sinh vào tội phản động ư ?Hôm nào mày viết về kinh tế VN những tháng cuối năm và bức tranh toàn cảnh sang năm đi. Bao giờ vỡ nợ, bao giờ Vin sập
hóng part 2 của tiên sinhHello các m. Lại là t John Smith đây. Nhân dịp rảnh rỗi t tự nhiên có cảm hứng thể nghiệm một bài viết mới, bên cạnh chuỗi bài Kinh tế tối giản và Chính trị tối giản đã làm nên thương hiệu của t tại Xàm.
Trọng tâm của bài này sẽ là các danh nhân, chính trị gia, kinh tế gia với các chính sách tê kính nổi bật qua các thời kỳ, nhằm cung cấp kiến thức đại cương về tê kính theo cách thức kể chuyện, ít khô khan nhất cho a e dễ thẩm.
Khởi đầu series sẽ là về Tổng thống Mẽo Franklin Delano Roosevelt (FDR) và chính sách kinh tế New Deal. Nếu bài viết đc a e phản hồi tốt và thảo luận sôi nổi thì t sẽ viết tiếp, ko thì thôi, vì nói thật, đây sẽ ko phải là một bài viết dễ viết và dễ đọc.
Tình hình tê kính nước Mẽo trong Đại suy thoái
Xàm mờ nào từng học qua về tê kính có lẽ đều hiểu chu kỳ tê kính là một đồ thị hình Sin, có lên đỉnh thì sẽ phải xuống đáy. Trước đó vào những năm 1920, nền tê kính Mẽo được hưởng một chu kỳ đu đỉnh (gọi là Roaring Twenties) nên Đại suy thoái xét cho cùng cũng là một lẽ tự nhiên thôi, nhưng sở dĩ nó nổi bởi vì nó được xem là “Đêm tiền Thế chiến”, là một trong những tác nhân mở đường cho Thế chiến.
Nói đơn giản, cái nước Mẽo đang gặp phải lúc đó cũng chính là thứ trước đó đã đưa nó lên đỉnh cao - “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường. Đây cũng chính là “mặt trái” của thị trường, là “con ngáo ộp” mà nhà ní nuận Mác xít từng ra rả từ thế kỷ trước. Trường phái kinh tế Keynes sinh ra sau này cũng nch về “kinh tế thị trường có điều tiết” nhưng đây là chuyện sẽ bàn trong một thớt khác nếu có dịp.
Tại Mẽo lúc này, giá nông sản xuống chạm đáy do sản lượng thừa mứa. Công nghiệp đình trệ do cạnh tranh khốc liệt (kể cả chơi “sạch” lẫn chơi “dơ”) giữa các nhà đại tư bản độc quyền, triệt tiêu những con cá bé hơn và triệt tiêu lẫn nhau khiến ko ai còn có không gian để phát triển. Công nhân thất nghiệp tràn lan do nhà máy đóng cửa vì doanh nghiệp bị triệt tiêu khiến thu nhập bị suy giảm, mua sắm giảm kéo theo sản xuất cũng giảm theo, làm trầm trọng thêm tổng cầu. Nhiều người cho rằng khởi điểm của Đại suy thoái là đến từ bank và stock, do ko có “quy định trần” khiến các bank cho vay và huy động tiền trong dân dễ dàng, tạo ra bong bóng (bong bóng stock là nhiều nhất) và nợ xấu đầm đìa. Khi nổ đĩa thì hiện tượng bank run (rút tiền hàng loạt) diễn ra khiến các bank phải đóng cửa hàng loạt.
Các tê kinh gia theo chủ nghĩa “bàn tay vô hình” bình thường thì ca ngợi sự năng động và khả năng tự điều chỉnh của thị trường tự do, nhưng khi tự do trở nên vô pháp thì loay hoay ko biết làm sao để giải quyết. Tổng thống Hoover từ chối can thiệp tích cực cũng vì vào thời điểm đó, việc chính phủ tư bản can thiệp mạnh mẽ vào tê kính ko fai là một thực hành phổ biến và làm thế thì trông có vẻ giống mấy anh cọng sả.
FDR và New Deal
FDR nhậm chức Tổng thống Mẽo trong những ngày tồi tệ nhất của Đại suy thoái. Bằng sự năng động chưa từng có tiền lệ, ông đã can thiệp hết sức chủ động và mạnh tay vào nền kinh tế đang giặt dẹo. Theo thống kê, chưa từng có Tổng thống nào pass được nhiều luật như vậy trong “100 ngày đầu nhiệm kỳ”.
New Deal gồm một series các đạo luật và sắc lệnh hành pháp, can thiệp mạnh tay vào các mặt đang bị khủng hoảng t đã nói trên kia. Về mặt ngân hàng, FDR pass đạo luật Emergency Banking Act, cho mở lại và in thêm tiền cho bank, tạo niềm tin cho người gửi rằng bank có đủ tiền để chi trả nên dân cứ yên tâm, gửi vào đc thì sẽ rút ra đc. Bằng các động thái tích cực trên + ông hay lên chương trình Fireside Chats giải tk cho dân về các chính sách đã làm cho dân phần nào bình tâm lại, tiền ko bị rút ồ ạt nữa và dần dần dừng đc nạn bank run. Ông cũng phát động “Tuần lễ vàng” (Sắc lệnh Hành pháp 6102), dân có vàng bắt buộc phải bán lại cho Chính phủ theo giá quy định (cao hơn giá thị trường) để phần nào đó kiềm chế việc in tiền.
Để khắc phục giá cả nông sản chạm đáy. Roosevelt pass đạo luật AAA cho phép Chính phủ chi tiền đền bù cho nông dân đồng ý cắt giảm sản lượng, nhằm mục đích giảm cung để tăng giá nông sản lên. Để giải quyết nạn thất nghiệp, FDR thành lập một loạt các “doanh nghiệp nhà nước” tuyển dụng đám thất nghiệp này đi làm các dự án công cộng như xây đập nước, bảo tồn rừng, dựng cầu, lợp trường (nổi nhất là Công ty Vùng Thung lũng Tennessee TVA). Nạn thất nghiệp dần tạm ổn, và chấm hết khi Thế chiến nổ ra vì dân bị túm đi lính. Để giải quyết dài hạn cho tình trạng thất nghiệp đói ăn của người lao động, ông pass đạo luật Social Security Act, chính là nền tảng của Hệ thống An sinh Xã hội Mẽo. Trò này thì ở châu Âu trước đó có làm rồi nhưng Mẽo là nước đầu tiên biến nó thành chính sách phổ quát. Các chuẩn mực về giờ làm, an toàn lao động, thỏa thuận lao động cũng góp phần giảm bớt sự “rừng rú” của “con ngáo ộp” chủ nghĩa tư bản thời kỳ đầu, giúp FDR có đc hậu thuẫn của liên minh công đoàn hùng mạnh.
Về công nghiệp, Roosevelt bắt các nhà tư bản phải ngồi lại nói chuyện thông qua NRA. Ông đặt vấn đề, bây h chúng m thích sát phạt nhau đến cùng hay mỗi thằng nhịn một tí để cùng win-win. Tinh thần của đạo luật cạnh tranh Sherman được FDR làm sống lại mạnh mẽ. Các nhà đại tư bản giờ phải chấp nhận cạnh tranh theo luật và nhìn mặt nhau mà sống. Tất nhiên, việc này cũng tạo cho FDR ko ít kẻ thù chính trị tay to, ko dễ gì mà động được đến lũ lắm tiền nhiều của này.
Mặt trái của New Deal
Chính sách New Deal đã làm cho chi tiêu liên bang dưới thời Roosevelt tăng đột biến, mở đầu cho xu hướng chi tiêu vô tội vạ của các chính phủ sau này, đặc biệt là chính phủ đảng Lừa. Cái An sinh xã hội h đây đã trở thành một gánh nặng cho ngân sách liên bang nhưng hiếm Tổng nào dám mở mồm kêu cắt vì sợ mất phiếu.
Rất nhiều đạo luật trong khuôn khổ New Deal bị Tối cao Pháp viện tuyên là vi hiến (vì lúc này nhiều thẩm phán vẫn có xu hướng ủng hộ kinh tế tự do) nhưng sau nhiệm kỳ 1 thành công, uy tín của một Tổng thống đc lòng dân đã tạo sức ép chính trị khủng khiếp lên Tòa án. Và khi Roosevelt tuyên bố kế hoạch tăng thẩm phán vào TCPV (số lượng thẩm phán tòa này do Quốc hội quyết, mà lưỡng viện lúc này do đảng Lừa kiểm soát nên chỉ cần bổ nhiệm thêm thẩm phán “thân thiện” với New Deal là vô hình chung vô hiệu đc tòa này - một tòa án quyết án bằng vote). Chưa kịp làm thì Tòa án đã nhượng bộ và sau này tiết chế lại rất nhiều khi sờ vào New Deal.
Việc FDR can thiệp vào tê kính quốc gia đã mở ra tiền lệ cho sự can thiệp vô tội vạ của các chính phủ sau ông vào tê kính và kéo theo đó là sự phình to của bộ máy chính phủ liên bang và đội ngũ công chức ăn hại đái khai. Chủ nghĩa Cộng hòa với các trụ cột như kinh tế tự do, nhà nước “nhỏ”, doanh nghiệp tư nhân, thuế thấp… là những giá trị mà sau này sẽ chỉ được tái định hình dưới thời Reagan, mà nếu có dịp sẽ bàn sau.
có lẽ đầu tk20, đế quốc sài lang cũng k lường trước dc là các chính sách can thiệp sẽ để lại hậu quả lâu dài ntn nếu lạm dụng.Hello các m. Lại là t John Smith đây. Nhân dịp rảnh rỗi t tự nhiên có cảm hứng thể nghiệm một bài viết mới, bên cạnh chuỗi bài Kinh tế tối giản và Chính trị tối giản đã làm nên thương hiệu của t tại Xàm.
Trọng tâm của bài này sẽ là các danh nhân, chính trị gia, kinh tế gia với các chính sách tê kính nổi bật qua các thời kỳ, nhằm cung cấp kiến thức đại cương về tê kính theo cách thức kể chuyện, ít khô khan nhất cho a e dễ thẩm.
Khởi đầu series sẽ là về Tổng thống Mẽo Franklin Delano Roosevelt (FDR) và chính sách kinh tế New Deal. Nếu bài viết đc a e phản hồi tốt và thảo luận sôi nổi thì t sẽ viết tiếp, ko thì thôi, vì nói thật, đây sẽ ko phải là một bài viết dễ viết và dễ đọc.
Tình hình tê kính nước Mẽo trong Đại suy thoái
Xàm mờ nào từng học qua về tê kính có lẽ đều hiểu chu kỳ tê kính là một đồ thị hình Sin, có lên đỉnh thì sẽ phải xuống đáy. Trước đó vào những năm 1920, nền tê kính Mẽo được hưởng một chu kỳ đu đỉnh (gọi là Roaring Twenties) nên Đại suy thoái xét cho cùng cũng là một lẽ tự nhiên thôi, nhưng sở dĩ nó nổi bởi vì nó được xem là “Đêm tiền Thế chiến”, là một trong những tác nhân mở đường cho Thế chiến.
Nói đơn giản, cái nước Mẽo đang gặp phải lúc đó cũng chính là thứ trước đó đã đưa nó lên đỉnh cao - “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường. Đây cũng chính là “mặt trái” của thị trường, là “con ngáo ộp” mà nhà ní nuận Mác xít từng ra rả từ thế kỷ trước. Trường phái kinh tế Keynes sinh ra sau này cũng nch về “kinh tế thị trường có điều tiết” nhưng đây là chuyện sẽ bàn trong một thớt khác nếu có dịp.
Tại Mẽo lúc này, giá nông sản xuống chạm đáy do sản lượng thừa mứa. Công nghiệp đình trệ do cạnh tranh khốc liệt (kể cả chơi “sạch” lẫn chơi “dơ”) giữa các nhà đại tư bản độc quyền, triệt tiêu những con cá bé hơn và triệt tiêu lẫn nhau khiến ko ai còn có không gian để phát triển. Công nhân thất nghiệp tràn lan do nhà máy đóng cửa vì doanh nghiệp bị triệt tiêu khiến thu nhập bị suy giảm, mua sắm giảm kéo theo sản xuất cũng giảm theo, làm trầm trọng thêm tổng cầu. Nhiều người cho rằng khởi điểm của Đại suy thoái là đến từ bank và stock, do ko có “quy định trần” khiến các bank cho vay và huy động tiền trong dân dễ dàng, tạo ra bong bóng (bong bóng stock là nhiều nhất) và nợ xấu đầm đìa. Khi nổ đĩa thì hiện tượng bank run (rút tiền hàng loạt) diễn ra khiến các bank phải đóng cửa hàng loạt.
Các tê kinh gia theo chủ nghĩa “bàn tay vô hình” bình thường thì ca ngợi sự năng động và khả năng tự điều chỉnh của thị trường tự do, nhưng khi tự do trở nên vô pháp thì loay hoay ko biết làm sao để giải quyết. Tổng thống Hoover từ chối can thiệp tích cực cũng vì vào thời điểm đó, việc chính phủ tư bản can thiệp mạnh mẽ vào tê kính ko fai là một thực hành phổ biến và làm thế thì trông có vẻ giống mấy anh cọng sả.
FDR và New Deal
FDR nhậm chức Tổng thống Mẽo trong những ngày tồi tệ nhất của Đại suy thoái. Bằng sự năng động chưa từng có tiền lệ, ông đã can thiệp hết sức chủ động và mạnh tay vào nền kinh tế đang giặt dẹo. Theo thống kê, chưa từng có Tổng thống nào pass được nhiều luật như vậy trong “100 ngày đầu nhiệm kỳ”.
New Deal gồm một series các đạo luật và sắc lệnh hành pháp, can thiệp mạnh tay vào các mặt đang bị khủng hoảng t đã nói trên kia. Về mặt ngân hàng, FDR pass đạo luật Emergency Banking Act, cho mở lại và in thêm tiền cho bank, tạo niềm tin cho người gửi rằng bank có đủ tiền để chi trả nên dân cứ yên tâm, gửi vào đc thì sẽ rút ra đc. Bằng các động thái tích cực trên + ông hay lên chương trình Fireside Chats giải tk cho dân về các chính sách đã làm cho dân phần nào bình tâm lại, tiền ko bị rút ồ ạt nữa và dần dần dừng đc nạn bank run. Ông cũng phát động “Tuần lễ vàng” (Sắc lệnh Hành pháp 6102), dân có vàng bắt buộc phải bán lại cho Chính phủ theo giá quy định (cao hơn giá thị trường) để phần nào đó kiềm chế việc in tiền.
Để khắc phục giá cả nông sản chạm đáy. Roosevelt pass đạo luật AAA cho phép Chính phủ chi tiền đền bù cho nông dân đồng ý cắt giảm sản lượng, nhằm mục đích giảm cung để tăng giá nông sản lên. Để giải quyết nạn thất nghiệp, FDR thành lập một loạt các “doanh nghiệp nhà nước” tuyển dụng đám thất nghiệp này đi làm các dự án công cộng như xây đập nước, bảo tồn rừng, dựng cầu, lợp trường (nổi nhất là Công ty Vùng Thung lũng Tennessee TVA). Nạn thất nghiệp dần tạm ổn, và chấm hết khi Thế chiến nổ ra vì dân bị túm đi lính. Để giải quyết dài hạn cho tình trạng thất nghiệp đói ăn của người lao động, ông pass đạo luật Social Security Act, chính là nền tảng của Hệ thống An sinh Xã hội Mẽo. Trò này thì ở châu Âu trước đó có làm rồi nhưng Mẽo là nước đầu tiên biến nó thành chính sách phổ quát. Các chuẩn mực về giờ làm, an toàn lao động, thỏa thuận lao động cũng góp phần giảm bớt sự “rừng rú” của “con ngáo ộp” chủ nghĩa tư bản thời kỳ đầu, giúp FDR có đc hậu thuẫn của liên minh công đoàn hùng mạnh.
Về công nghiệp, Roosevelt bắt các nhà tư bản phải ngồi lại nói chuyện thông qua NRA. Ông đặt vấn đề, bây h chúng m thích sát phạt nhau đến cùng hay mỗi thằng nhịn một tí để cùng win-win. Tinh thần của đạo luật cạnh tranh Sherman được FDR làm sống lại mạnh mẽ. Các nhà đại tư bản giờ phải chấp nhận cạnh tranh theo luật và nhìn mặt nhau mà sống. Tất nhiên, việc này cũng tạo cho FDR ko ít kẻ thù chính trị tay to, ko dễ gì mà động được đến lũ lắm tiền nhiều của này.
Mặt trái của New Deal
Chính sách New Deal đã làm cho chi tiêu liên bang dưới thời Roosevelt tăng đột biến, mở đầu cho xu hướng chi tiêu vô tội vạ của các chính phủ sau này, đặc biệt là chính phủ đảng Lừa. Cái An sinh xã hội h đây đã trở thành một gánh nặng cho ngân sách liên bang nhưng hiếm Tổng nào dám mở mồm kêu cắt vì sợ mất phiếu.
Rất nhiều đạo luật trong khuôn khổ New Deal bị Tối cao Pháp viện tuyên là vi hiến (vì lúc này nhiều thẩm phán vẫn có xu hướng ủng hộ kinh tế tự do) nhưng sau nhiệm kỳ 1 thành công, uy tín của một Tổng thống đc lòng dân đã tạo sức ép chính trị khủng khiếp lên Tòa án. Và khi Roosevelt tuyên bố kế hoạch tăng thẩm phán vào TCPV (số lượng thẩm phán tòa này do Quốc hội quyết, mà lưỡng viện lúc này do đảng Lừa kiểm soát nên chỉ cần bổ nhiệm thêm thẩm phán “thân thiện” với New Deal là vô hình chung vô hiệu đc tòa này - một tòa án quyết án bằng vote). Chưa kịp làm thì Tòa án đã nhượng bộ và sau này tiết chế lại rất nhiều khi sờ vào New Deal.
Việc FDR can thiệp vào tê kính quốc gia đã mở ra tiền lệ cho sự can thiệp vô tội vạ của các chính phủ sau ông vào tê kính và kéo theo đó là sự phình to của bộ máy chính phủ liên bang và đội ngũ công chức ăn hại đái khai. Chủ nghĩa Cộng hòa với các trụ cột như kinh tế tự do, nhà nước “nhỏ”, doanh nghiệp tư nhân, thuế thấp… là những giá trị mà sau này sẽ chỉ được tái định hình dưới thời Reagan, mà nếu có dịp sẽ bàn sau.