Lê Thái Tổ có phải người Mường

Quân phương bắc mang đánh nam man giỏi lắm là 2-3-5 vạn thôi, vì 1 lính 3 phu đi theo 5 vạn mà tính cả phu là 20 vạn rồi, quân lương vãi lìn lắm
Lần khủng khiếp nhất là Trương Phụ mang sang đánh Hồ Quý Ly
23 vạn quân
Thêm cả phu nửa thì hơn 80 vạn
 
đông thế nhổ nước bọt cũng thắng quân annam
Đó là lần xuất chiến đông quân nhất toàn bộ cuộc đời Chu Đệ
Gần gấp đôi chiến dịch Tĩnh Nan
Gấp 3 gấp 4 lần chiến dịch chinh phục Mông Cổ
Huy động những tướng giỏi nhất mà chu Đệ có trong tay gần hai chục tướng
 
đông thế nhổ nước bọt cũng thắng quân annam
Để chuẩn bị lực lượng đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ cho điều động lực lượng từ Nam Kinh, theo đường thủy xuống hội binh với các lực lượng đang tập trung tại Quảng Tây, gồm 95.000 quân từ các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, cộng với 10.000 kỵ binh và bộ binh từ các đơn vị cấm binh, 30.000 thổ binh từ Quảng Tây.[13] Nhà Minh cũng huy động chuẩn bị tác chiến 75.000 quân kỵ binh và bộ binh từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Các xứ Vân Nam và Quảng Tây được lệnh mỗi xứ phải chuẩn bị 20 vạn thạch lương (một thạch khoảng 60 kg) cung ứng cho quân. Vân Nam cũng được lệnh huy động 10.000 quân tiếp viện. Có khoảng một phần mười binh lính Minh được trang bị hỏa khí.Nhà Minh phao tin quân viễn chinh được điều động lên đến 80 vạn quân, nhưng theo Whitmore, có lẽ quân Minh thực tế khoảng 215.000 quân
 
Đó là lần xuất chiến đông quân nhất toàn bộ cuộc đời Chu Đệ
Gần gấp đôi chiến dịch Tĩnh Nan
Gấp 3 gấp 4 lần chiến dịch chinh phục Mông Cổ
Huy động những tướng giỏi nhất mà chu Đệ có trong tay gần hai chục tướng
vì thời này mà dân annam mất gốc, lịch sử viết lại qua truyền miệng
 
vì thời này mà dân annam mất gốc, lịch sử viết lại qua truyền miệng
20 năm mà mất gốc cái gì?
Một số thứ vẫn lưu giữ được
Việt Nam mất gốc là Lê Thánh Tông bỏ hết tất cả văn hóa cũ Lý Trần chuyển hoàn toàn sang Nho giáo
 
đông thế nhổ nước bọt cũng thắng quân annam
Trích Minh thực lục
Ngày Tân Mão, mệnh Thành Quốc công Chu Năng đeo ấn Chinh Di Tướng quân sung chức Tổng binh, Tây Bình hầu Mộc Thạnh đeo ấn Chinh Di Phó Tướng quân giữ chức Tả Phó Tướng quân, Tân Thành hầu Trương Phụ giữ chức Hữu Phó Tướng quân, Phong Thành hầu Lý Bân giữ chức Tả Tham tướng, Vân Dương bá Trần Húc giữ chức Hữu Tham tướng; mang quân chỉnh thảo giặc họ Lê đất An Nam. Mệnh Thượng thư bộ Binh Lưu Tuấn làm Tán thường quân vự. Các Đô Chỉ huy Đồng trị Trình Khoan, Chỉ huy Thiêm sự Chu Quí giữ chức Thần cơ Tướng quân. Các Đô Chỉ huy Đồng tri Mao Bát Đan, Chu Quảng, Chỉ huy Thiêm sự Vương Thứ giữ chức Du kích Tướng quân. Các Đô Chỉ huy Đồng tri Lỗ Lân, Đô Chỉ huy Thiêm sự Vương Ngọc, Chỉ huy sứ Cao Bằng giữ chức Hoành hải Tướng quân. Các Đô đốc Thiêm sự Lữ Nghị, Đô Chỉ huy sứ Chu Anh, Đô Chỉ huy Đồng trị Giang Hạo, Đô Chỉ huy Thiêm sự Phương Chính giữ chức Ứng dương Tướng quân. Đô đốc Thiêm sự Chu Vinh, Đô Chỉ huy Đồng tri Kim Minh, Đô Chỉ huy Thiêm sự Ngô Vượng, Chỉ huy Đồng trì Lưu Tháp Xuất giữ chức Phiêu kỵ Tướng quân.
 
Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm 1385, người làng Lam Giang hay Lam Sơn[14], huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa (nay là thị trấn Lam Sơn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa)[15]. Cụ nội của Lê Lợi là Lê Hối, có lần đến Lam Sơn, sách Đại Việt thông sử đã chép rằng: Đã trông thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, giống như cảnh đông người tụ hội. Lê Hối cho là đất tốt và chuyển nhà đến ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, các thế hệ họ Lê thay nhau làm quân trưởng ở Thanh Hóa, đế nghiệp của họ Lê bắt đầu từ đó.[16]

Căn cứ vào thành phần cư dân ở vùng Lam Sơn hiện nay phần lớn là người Mường và dòng họ Lê Lợi đã mấy đời làm quân trưởng ở đó, có những giả thuyết cho rằng Lê Lợi là một tù trưởng người Mường. Tuy nhiên, các khảo cứu về gia phả họ Lê gần đây đã tìm ra kị nội của Lê Lợi là ông Lê Mỗi, người trang Bái Đô (nay thuộc xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân). Lê Mỗi sinh được 5 người con, trong đó Lê Hối là con trai thứ hai. Bái Đô là một vùng đất chưa bao giờ có người Mường ở. Về dòng họ mẹ của Lê Lợi cũng có nguồn gốc là người Kinh từ nơi khác đến khai khẩn vùng đất Thủy Chú. Như vậy có thể khẳng định Lê Lợi là người Kinh, không phải người Mường
 
Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm 1385, người làng Lam Giang hay Lam Sơn[14], huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa (nay là thị trấn Lam Sơn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa)[15]. Cụ nội của Lê Lợi là Lê Hối, có lần đến Lam Sơn, sách Đại Việt thông sử đã chép rằng: Đã trông thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, giống như cảnh đông người tụ hội. Lê Hối cho là đất tốt và chuyển nhà đến ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, các thế hệ họ Lê thay nhau làm quân trưởng ở Thanh Hóa, đế nghiệp của họ Lê bắt đầu từ đó.[16]

Căn cứ vào thành phần cư dân ở vùng Lam Sơn hiện nay phần lớn là người Mường và dòng họ Lê Lợi đã mấy đời làm quân trưởng ở đó, có những giả thuyết cho rằng Lê Lợi là một tù trưởng người Mường. Tuy nhiên, các khảo cứu về gia phả họ Lê gần đây đã tìm ra kị nội của Lê Lợi là ông Lê Mỗi, người trang Bái Đô (nay thuộc xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân). Lê Mỗi sinh được 5 người con, trong đó Lê Hối là con trai thứ hai. Bái Đô là một vùng đất chưa bao giờ có người Mường ở. Về dòng họ mẹ của Lê Lợi cũng có nguồn gốc là người Kinh từ nơi khác đến khai khẩn vùng đất Thủy Chú. Như vậy có thể khẳng định Lê Lợi là người Kinh, không phải người Mường
Gia phả của Việt Nam là thứ không đáng tin cậy nhất
Đặc biệt là gia phả vua tiền triều
 
Gia phả của Việt Nam là thứ không đáng tin cậy nhất
Đặc biệt là gia phả vua tiền triều
chứ ba cái sử tàu của m đáng tin chắc, dân tộc tàu khựa hèn yếu nhận giặc làm cha đòi đáng tin hơn con cháu lạc việt =))
 
Top