
Theo đề xuất của Bộ Nội vụ, mức tính lương với chủ tịch, hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát... trong từng trường hợp doanh nghiệp làm ăn lỗ/lãi có thay đổi so với quy định hiện hành.
Bộ Nội vụ vừa lấy ý kiến dự thảo Nghị định của Chính phủ về quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước và kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước.Mức lương cơ bản được xác định dựa trên chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận, gồm 7 mức lương và chia theo 2 nhóm, bao gồm: nhóm I có 4 mức, áp dụng với tổng công ty, tập đoàn kinh tế; nhóm II có 3 mức áp dụng đối với doanh nghiệp độc lập.

Mức lương cơ bản của thành viên hội đồng, kiểm soát viên chuyên trách (Ảnh chụp màn hình).
Mức cao nhất của chủ tịch (mức 1 nhóm I) là 80 triệu đồng và thấp nhất của thành viên hội đồng, kiểm soát viên (mức 3 nhóm II) là 30 triệu đồng/tháng, theo quy định tại Nghị định số 44.
Bộ Nội vụ đề xuất đối với trường hợp doanh nghiệp nhà nước có lợi nhuận thấp hơn kế hoạch thì mức tiền lương tối đa được tính bằng 90% (thay vì 70% như quy định hiện hành theo Nghị định số 44) nhân với 2 lần mức lương cơ bản, nhân với tỷ lệ lợi nhuận thực hiện so với lợi nhuận theo kế hoạch. Mức tiền lương sau khi tính không thấp hơn 80% mức lương cơ bản.
Trường hợp doanh nghiệp có lợi nhuận, mức tiền lương tối đa được tính bằng 2 lần mức lương cơ bản; doanh nghiệp không có lợi nhuận thì mức tối đa là 70% lương cơ bản; doanh nghiệp lỗ thì mức tối đa là 50%.
Trường hợp doanh nghiệp giảm lỗ (kể cả không có lợi nhuận) thì căn cứ mức độ giảm lỗ so với kế hoạch để xác định mức tiền lương, tối đa bằng 80% mức lương cơ bản.
Doanh nghiệp có quy mô lớn, có lợi nhuận cao hơn lợi nhuận tối thiểu (lĩnh vực ngân hàng, viễn thông, dầu khí là 5.500 tỷ đồng), giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế mà có mức lương thấp hơn các chức danh tương đương trên thị trường, thì thực hiện theo khung được đề xuất trong dự thảo.
Đối với doanh nghiệp có lợi nhuận thực tế gấp 2 lần mức tối thiểu thì lương thực nhận tăng gấp 2,5 lần mức cơ bản (tối đa 200 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 3 lần thì lương tăng 3 lần so với mức cơ bản (tối đa 240 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 5 lần thì lương thực nhận tăng 4 lần so với mức cơ bản (tối đa 320 triệu đồng/tháng).
Doanh nghiệp mới thành lập hoặc mới đi vào hoạt động thì mức tiền lương trong năm đầu thành lập hoặc mới đi vào hoạt động tối đa không vượt quá mức lương cơ bản.
Doanh nghiệp mới thành lập trên cơ sở hợp nhất các doanh nghiệp, nếu mức tiền lương thấp hơn tiền lương thực tế ở mức cao nhất của các chức danh tương ứng của doanh nghiệp thành viên trước khi hợp nhất, thì được tính bằng mức tiền lương của các chức danh tương ứng đó.
Doanh nghiệp chỉ có hoạt động thực hiện sản phẩm, dịch vụ công thì được sử dụng chỉ tiêu khối lượng sản phẩm, dịch vụ công để đánh giá, xác định mức tiền lương.
Doanh nghiệp vừa có hoạt động thực hiện sản phẩm, dịch vụ công, vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh (ngoài thực hiện sản phẩm, dịch vụ công) thì được lựa chọn xác định mức tiền lương theo hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định.
Mức tiền lương của thành viên hội đồng, kiểm soát viên là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức quốc phòng, sĩ quan, hạ sĩ quan, người làm công tác cơ yếu không thấp hơn mức tiền lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc, các khoản phụ cấp lương theo quy định của Chính phủ.
Mức thù lao của thành viên hội đồng, kiểm soát viên không chuyên trách được xác định dựa theo thời gian thực tế làm việc, nhưng tối đa không quá 20% mức tiền lương tương ứng của thành viên hội đồng, kiểm soát viên chuyên trách.