Lý Thế Dân, thiên cổ nhất đế

a.png

Chân dung Đường Thái Tông , màu trên lụa, trước đây là bộ sưu tập của Nam Huân Điện cố cung Bắc Kinh, nay thuộc Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc.
Mạnh Hải Biên dịch

Từ Tùy Văn Đế đến Tùy Dạng Đế, cho đến Lý Uyên, Lý Thế dân khởi binh ở Thái Nguyên (năm thứ 13 niên hiệu Đại Nghiệp, năm 617), chỉ mấy chục năm ngắn ngủi, thiên hạ đại loạn, khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, chiến loạn lại bắt đầu. Thiên triều Đại Tùy mở màn hạ màn, màn diễn lại gần đến hồi chót. Từ cổ loạn thế xuất anh hùng.

Thái Tông Đại Đường bắt đầu từ năm 16 tuổi đã xung phong dẫn đầu đoàn quân, cưỡi ngựa bắn cung, xông pha chiến đấu, thống lĩnh ba quân, không sức mạnh nào có thể địch nổi, đánh tan giặc cướp, bình định Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ.

Sau khi lên ngôi, Thái Tông dẫn dắt thần dân khai sáng thời hoàng kim Trinh Quán thịnh thế thiên hạ an hưởng thái bình, xưa nay chưa từng có. Thái Tông văn võ song toàn, trí huệ hơn người. Với tư cách là Hoàng đế, ông hạ mình cầu hiền, lắng nghe can gián, chỉ dùng người hiền năng, Đạo trị quốc của ông được hậu thế tôn sùng. Với tư cách là tướng quân, ông dẫn quân đánh đâu thắng đó, chiến công hiển hách, uy danh vang xa. Là một thi nhân, ông chuyên cần sáng tác, tạo nên thể ngâm, mở ra sự phồn thịnh văn nhã suốt 300 năm của triều đại nhà Đường.

Trong 23 năm Thái Tông tại vị, nền chính trị quốc gia trong sạch, kinh tế phồn vinh, xã hội an định, võ nghệ hưng thịnh. Văn hóa nghệ thuật, thi từ ca phú, chói lọi huy hoàng, rực rỡ như mặt trời trên bầu trời. Đại Đường vĩ đại, cường thịnh xưa nay chưa từng có, muôn nước đến chầu, là quốc gia hưng thịnh giàu mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ.

Thời Trinh Quán thịnh Đường, dưới sự duy hộ của đích thân Thái Tông, ba tôn giáo lớn là Nho, Thích, Đạo đều hưng thịnh. Đến nay, rất nhiều con phố người Hoa ở các nước trên thế giới đều gọi là “phố Đường Nhân”, thành tích thái bình thịnh trị thời Trinh Quán mãi được hậu thế truyền tụng.

Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ

Ngày Mậu Ngọ, tháng 12 năm thứ 18 niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy (ngày 28 tháng 1 năm 599), Lý Thế Dân, Hoàng đế Thái Tông của Đại Đường đản sinh ở biệt quán Võ Công (cảnh nội Hàm Dương, Thiểm Tây ngày nay). Khi đó có hai con rồng chơi đùa ở bên ngoài cổng dịch quán, ba ngày mới đi (Cựu Đường Thư – Thái Tông Thượng).

Cao Tổ Lý Uyên đóng quân ở Kỳ Châu, Thái Tông khi đó chỉ có bốn tuổi. Một vị thư sinh tự nhận là giỏi xem tướng, khi nhìn thấy Cao Tổ nói: “Ngài là quý nhân, hơn nữa còn có quý tử”. Khi nhìn thấy Thái Tông nói: “Dung nhan rồng phượng, tướng mạo hệt như mặt trời, đến năm 20 tuổi, ắt có thể tế thế an dân”. Lý Uyên nghe xong, đây rõ ràng tỏ rõ Thái Tông Lý Thế Dân sau này sẽ trở thành Hoàng đế! Lời này nếu như truyền ra bên ngoài, há không phải mang đến họa diệt môn! Cao Tổ sợ thư sinh để lộ lời nói ra bên ngoài, liền sai người truy sát, thư sinh không biết đã đi đâu mất. Cao Tổ tin là thiên Thần, bởi vậy tiếp thu ý “tế thế an dân”, đặt là tên của Thái Tông Lý Thế Dân”. Như lời của vị thầy tướng, thân thế của Thái Tông quả thực không hề tầm thường, trong “Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh Tự“ (Bài tự khắc trên chuông chùa Đại Hưng Thiện), Thái Tông hé lộ thân phận Kim Luân Thánh Vương của mình, giáng sinh trong hoàng thất, tấm lòng bao dung thiên hạ, phổ độ chúng sinh: “Hoàng đế Đạo nghiệp Kim Luân, tâm nơi lầu vàng, che phủ vạn phương, đi thuyền khắp tam giới. Muốn lấy nhạc mây hòa, cùng với tiếng trống Pháp để hoằng dương giáo hóa. Tiếng nhạc Nhã tụng thịnh thế cùng với Phạn âm Phật Pháp vang xa”. Năm Trinh Quán tứ 9 (năm 635), trong “Độ tăng ư thiên hạ chiếu” (Chiếu độ tăng nhân khắp thiên hạ), Thái Tông cũng bày tỏ rõ: “Trẫm Khâm Nhược Kim Luân, cung kính theo mệnh ngồi ngôi báu, dùng Đức chí thượng giáo huấn muôn dân, không nơi xa xôi nào không nghĩ đến, dùng phép tắc của bậc đại Thánh, không nơi tối tăm nào không xem xét tới, muốn cho người người đều không phải khổ não, nhà nhà đều no đủ, nhân nghĩa, trường thọ, các nguyện cầu duyên ẩn đều linh ứng, che chở hết thảy sinh linh. Ngũ phúc tỏ rõ nơi phép tắc, tam tai chấm dứt chốn thế gian”.

Thái Tông “khi mới được sinh ra là không biết khóc”. Dường như hết thảy của nhân gian đều vâng theo sai khiến dưới thiện hóa vô tư vô ngã của ông. Thuở thiếu thời, Thái Tông thông minh dị thường, nhìn xa trông rộng, nắm bắt thời cơ hành sự quyết đoán, ôm chí lớn mà không câu chấp những việc nhỏ nhặt, tuổi đời còn nhỏ, lo xa nghĩ rộng, đương thời không ai có thể đoán ra được tâm trí của ông.

Thái Tông ứng nghiệm lời của thầy tướng, từ năm 18 tuổi khuyên cha khởi binh, mở đầu một đời phi phàm tế thế an dân của mình. Sau khi lên ngôi, chỉ trong thời gian mấy năm, các nước Hoa Hạ chia năm xẻ bảy, chiến loạn không ngừng suốt gần 400 năm đã được thống nhất dưới vương triều Đại Đường.

Ngày Kỷ Tỵ 26 tháng 5 năm thứ 23 niên hiệu Trinh Quán (ngày 10 tháng 7 năm 649), Thái Tông Lý Thế Dân lâm bệnh mất ở điện Hàm Phong, cung Thúy Vy, hưởng thọ 51 tuổi, táng ở Chiêu lăng. Năm 674 (năm đầu niên hiệu Thượng Nguyên thời Đường Cao Tông) thêm thụy hiệu là Văn Võ Thánh Hoàng Đế. Năm 749 (Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Bảo, Đường Huyền Tông) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Hoàng Đế. Năm 754 (năm thứ 13 niên hiệu Thiên Bảo) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu Hoàng Đế.

“Tân Đường Thư” khen Thái Tông rằng: “Quân chủ có thể tế thế an dân giống như Thái Tông đây thật khó có người thứ hai! Hạ Vũ có thiên hạ, truyền 16 đời quân vương, nhưng chỉ Thiếu Khang có công nghiệp trung hưng vương triều. Thành Thang nhà Thương có thiên hạ, truyền đến 28 đời quân vương, người hưng thịnh nhất trong đó, chỉ có ba người hiệu xưng “tam tông” (Thái Giáp, Võ Đinh, Tổ Ất). Chu Võ Vương có được thiên hạ, truyền vị 36 đời quân vương, ngoài công lao trị vì đáng được kể đến như Thành Vương, Khang Vương và Tuyên Vương ra, còn những quân chủ khác đều không đáng khen ngợi“.Dù rằng ghi chép trong “ Kinh Thi ”, “Thượng Thư”, đôi lúc có những chỗ thiếu sót, nhưng ba đời Hạ, Thương, Chu chiếm giữ thiên hạ hơn 1700 năm, truyền thừa hơn 70 vị quân vương, những vị trác tuyệt trong đó cho hậu thế thấy rõ, chẳng qua chỉ có sáu bảy vị quân vương này mà thôi. Quân chủ có thể mở ra thời hoàng kim có thể nói thật khó có được vậy!

“Cựu Đường thư” đánh giá rằng: “Sử thần nói: Thần thấy Văn Hoàng đế phát tích rất nhiều điều kỳ lạ, thông minh Thần vũ. Sử dụng người, vật vô tư, không bè đảng, người có chí đều được sử dụng hết tài năng… Nghe lời can gián quyết đoán chẳng nghi hoặc, theo việc thiện tự nhiên mau lẹ, ngàn năm ca ngợi, chỉ có duy nhất một người mà thôi”.

Ngô Căng trong lời tựa của “Trinh Quán chính yếu” nói: “Nền chính trị giáo hóa thời Thái Tông, tốt đẹp đủ đầy có thể thấy rõ, chấn động cổ kim, xưa nay chưa từng có vậy”.

Cái nhìn toàn diện về chiến cuộc

Những năm đầu Đại Đường kiến lập, lãnh thổ chỉ giới hạn ở vùng Quan Trung và Hà Đông. Bắt đầu từ những năm đầu niên hiệu Vũ Đức (năm 618), Đường Cao Tổ Lý Uyên thân là hoàng đế, trấn thủ Trường An. Nhưng quần hùng trong thiên hạ đồng thời tồn tại, vương triều Lý Đường cần phải chinh chiến khắp nơi, bình định bốn phương mới có thể nhất thống thiên hạ được. Đương thời, những người xưng vương xưng đế, lãnh binh hùng bá một phương có khá nhiều.

Khi Lý Uyên khởi binh, hai cha con Tiết Cử, Tiết Nhân Cảo chiếm giữ vùng Lũng Hữu, xưng đế, quốc hiệu Tần. Lưu Vũ Chu xưng đế, quốc hiệu Hán, là một chi nhánh lực lượng quan trọng ở miền bắc của vùng Sơn Tây, trực tiếp uy hiếp đến địa phận Thái Nguyên, vốn là lãnh thổ của Lý Đường. Vương Thế Sung chiếm giữ Hà Nam, xưng đế, quốc hiệu Trịnh, thế lực lớn mạnh, vốn không thể xem thường được. Đậu Kiến Đức thành lập chính quyền, quốc hiệu Hạ, xưng hùng vùng Hà Bắc, không ai bì nổi. Ở vùng trung du, hạ du của Trường Giang, nhóm người Tiêu Tiển, Đỗ Phục Uy, Phụ Công,… đều nóng lòng chờ đợi thời cơ. Biên giới phía bắc thì có Đột Quyết là giặc, thế lực vô cùng lớn mạnh, đang nhòm ngó Trung Nguyên.

Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, quần hùng tranh ngôi bá chủ, ai có thể quét sạch quần hùng thì mới có thể thống lĩnh thiên hạ, trở thành bậc vương giả trị quốc. Chính cái gọi là : “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc” (chiến tranh để chinh phục thiên hạ, bậc vương giả trị vì quốc gia).

Trong những trận chiến chủ yếu góp phần thống nhất thiên hạ của Đại Đường, Thái Tông hoặc là trực tiếp tham gia cùng khởi tác dụng quan trọng trong đó, hoặc là trực tiếp làm thống soái, đặc biệt là đích thân thống lĩnh đội quân nhà Đường trong các trận đánh bại Tiết Nhân Cảo, Tống Kim Cang, Lưu Vũ Chu, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Lưu Hắc Thát. Đó đều là những trận chiến then chốt nhất, cũng là những lần đại chiến hình thế nguy cấp nhất, chiến sự gian nan nhất trong suốt quá trình thống nhất thiên hạ của Đại Đường. Sau mỗi lần chiến tranh thắng lợi, Thái Tông xem trọng việc trấn an kẻ hàng, thu thập người tài, ý nghĩa đặc biệt sâu xa. Thái Tông bởi vì lập được nhiều chiến công, về sau được Cao Tổ phong là Thiên Sách Thượng Tướng, địa vị ở trên tất cả các công hầu.

2-7.png

Bản đồ những năm Trinh Quán thời Đường Thái Tông. (Ảnh: Jiuqiaozai/Wikipedia )
Tài năng dần hiển lộ

Năm thứ 11 niên hiệu Đại Nghiệp, Tùy Dạng Đế bị 10 vạn quân thiết kỵ của Đột Quyết bao vây ở Nhạn Môn, không cách nào đột phá vòng vây được, chỉ có thể buộc chiếu thư lên trên đầu gỗ, thả xuống sông Phàn cho chiếu thư thuận theo dòng chảy mà trôi xuống, mong rằng có người nhìn thấy chiếu thư sẽ tìm đến cứu viện. Thái Tông năm đó chỉ mới 16 tuổi, gia nhập quân ngũ, ở dưới quyền của tướng quân Vân Định Hưng. Khi đó, dưới trướng tướng quân Vân Định Hưng chỉ có 2 vạn tân binh, hơn nữa phần nhiều đều là bộ binh. Thái Tông kiến nghị lên Vân Định Hưng: Sở dĩ Đột Quyết dám bao vây thiên tử, là cho rằng chúng ta không có quân cứu viện. Chi bằng chúng ta chia quân đội thành hàng dài nối liền trước sau, kéo dài mấy chục dặm, để quân địch ban ngày nhìn thấy cờ xí phấp phới, buổi tối nghe thấy tiếng chiêng trống, sẽ lầm tưởng là đại quân áp sát, như vậy mới có thể không đánh mà thắng. Còn nếu họ biết thực hư của ta, hai binh giáp mặt đánh nhau, thì thắng bại khó đoán trước được.

Vân tướng quân đã tiếp nhận kế nghi binh của Thái Tông , binh Đột Quyết nhìn thấy quân Tùy cuồn cuộn nối liền không dứt, quả nhiên cho rằng cứu binh của quân Tùy ồ ạt kéo đến, bèn giải vây bỏ chạy.
 
Nam chinh Bắc chiến đánh đâu thắng đó

Những năm đầu Đại Đường kiến lập, lãnh thổ chỉ giới hạn ở vùng Quan Trung và Hà Đông. Bắt đầu từ những năm đầu niên hiệu Vũ Đức (năm 618), Đường Cao Tổ Lý Uyên thân là hoàng đế, trấn thủ Trường An. Nhưng quần hùng trong thiên hạ đồng thời tồn tại, vương triều Lý Đường cần phải chinh chiến khắp nơi, bình định bốn phương mới có thể nhất thống thiên hạ được. Đương thời, những người xưng vương xưng đế, lãnh binh hùng bá một phương có khá nhiều.

Khi Lý Uyên khởi binh, hai cha con Tiết Cử, Tiết Nhân Cảo chiếm giữ vùng Lũng Hữu, xưng đế, quốc hiệu Tần. Lưu Vũ Chu xưng đế, quốc hiệu Hán, là một chi nhánh lực lượng quan trọng ở miền bắc của vùng Sơn Tây, trực tiếp uy hiếp đến địa phận Thái Nguyên, vốn là lãnh thổ của Lý Đường. Vương Thế Sung chiếm giữ Hà Nam, xưng đế, quốc hiệu Trịnh, thế lực lớn mạnh, vốn không thể xem thường được. Đậu Kiến Đức thành lập chính quyền, quốc hiệu Hạ, xưng hùng vùng Hà Bắc, không ai bì nổi. Ở vùng trung du, hạ du của Trường Giang, nhóm người Tiêu Tiển, Đỗ Phục Uy, Phụ Công,… đều nóng lòng chờ đợi thời cơ. Biên giới phía bắc thì có Đột Quyết là giặc, thế lực vô cùng lớn mạnh, đang nhòm ngó Trung Nguyên.Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, quần hùng tranh ngôi bá chủ, ai có thể quét sạch quần hùng thì mới có thể thống lĩnh thiên hạ, trở thành bậc vương giả trị quốc. Chính cái gọi là : “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc” (chiến tranh để chinh phục thiên hạ, bậc vương giả trị vì quốc gia).

Trong những trận chiến chủ yếu góp phần thống nhất thiên hạ của Đại Đường, Thái Tông hoặc là trực tiếp tham gia cùng khởi tác dụng quan trọng trong đó, hoặc là trực tiếp làm thống soái, đặc biệt là đích thân thống lĩnh đội quân nhà Đường trong các trận đánh bại Tiết Nhân Cảo, Tống Kim Cang, Lưu Vũ Chu, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Lưu Hắc Thát. Đó đều là những trận chiến then chốt nhất, cũng là những lần đại chiến hình thế nguy cấp nhất, chiến sự gian nan nhất trong suốt quá trình thống nhất thiên hạ của Đại Đường.

Trong thời gian Lý Uyên trấn giữ Thái Nguyên,Thái Tông 18 tuổi. Tướng giặc Cao Dương là Ngụy Đao Nhi, tự hiệu Lịch Sơn Phi, vô cùng kiêu dũng , dẫn binh đến tấn công Thái Nguyên. Lý Uyên dẫn binh đánh trả, không may rơi sâu vào trong trận địch, không cách nào ra khỏi vòng vây.Thái Tông dùng kỵ binh nhẹ phá vòng vây mà tiến vào, giương cung bắn địch, quân địch tan tác, cứu thoát Lý Uyên khỏi từ trong vạn người. Sau đó, bộ binh của quân địch lại kéo đến, Lý Uyên và Thái Tông lại hăng hái đánh trả, đại phá quân địch.

Thật ra, khí số nhà Tùy đã tận, khởi nghĩa dấy lên ở khắp nơi, khói lửa chiến tranh bao phủ, dân chúng lầm than.Thái Tông chuẩn bị huấn luyện nghĩa binh, thường xuyên cứu trợ người dân, trọng đãi binh sĩ, bỏ tiền nuôi tân khách. Nhân sĩ giang hồ, nghĩa sĩ hiệp khách, ai nấy đều tự nguyện dốc hết sức mình, chuẩn bị đầy đủ cho nghĩa binh Lý Đường khởi nghĩa.

Tháng 5 năm 13 niên hiệu Đại Nghiệp (năm 617), Thái Tông luôn mang một tấm lòng với thiên hạ, mong muốn cứu vớt người dân thoát khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng; lo nghĩ cho muôn dân, bàn tính kế sách trong màn trướng; kế thừa thiên ý, thuận theo lòng dân, khuyên cha khởi binh. Lý Uyên sau đó ở Tấn Dương lấy khẩu hiệu cần vương thảo tặc (giúp vua thảo phạt gian tặc) chính thức khởi binh, mở ra một triều đại mới là Đại Đường. Cùng với quân khởi nghĩa, Thái Tông dẫn binh công đánh phá được Tây Hà. Quan Bái là hữu lĩnh Đại Đô Đốc ,cùng ba quân đều thuộc quản hạt của Thái Tông , được phong là Đôn Hoàng Quận Công .

Tháng 7, Thái Tông theo Lý Uyên xuất chinh, giằng co với 2 vạn tinh binh của Tống Lão Sinh – viên tướng nhà Tùy ở Ấp Hoắc tỉnh Sơn Tây. Vừa khéo đúng lúc mưa hoài không dứt, cạn kiệt nguồn lương thực. Cao Tổ thảo luận với trưởng sử Bùi Thích, chi bằng tạm thời trở về Thái Nguyên, sau đó mới mưu đồ khởi sự. Thái Tông khẩn cầu cha đừng rút quân. Thái Tông nói : “Vốn dĩ hưng lập đại nghĩa là vì để cứu vớt bách tính, trước hết cần phải đánh vào Hàm Dương, hiệu lệnh thiên hạ; mới gặp phải kẻ địch nhỏ nhoi liền điều quân trở về, e rằng những người gia nhập nghĩa quân sẽ phải giải tán trong một sớm. Quay về trấn giữ Thái Nguyên một vùng, đây chẳng qua chỉ là hành vi của giặc cỏ mà thôi, làm sao có thể bảo toàn bản thân đây!”. Nhưng Lý Uyên không nghe theo, ra lệnh đốc thúc nghĩa quân mau chóng lên đường. Thái Tông liền khóc lớn ở bên ngoài, tiếng khóc vang vào tận trong lều trại. Lý Uyên đòi gặp hỏi nguyên nhân, Thái Tông nói: “Hiện nay, quân đội dựa vào chính nghĩa mà bắt tay hành động, nếu như tiến bước, chiến đấu nhất định sẽ giành được thắng lợi, còn như lui về thể nào cũng sẽ giải tán. Nghĩa quân tan rã ngay trước mắt, quân địch thừa cơ đuổi đánh theo sau, bỏ mạng chỉ trong khoảnh khắc, bởi vậy mà đau lòng”. Lý Uyên hiểu ra và ngưng việc lui binh.

Tháng 8, mưa tạnh, dẫn quân đi đánh chiếm Ấp Hoắc. Thái Tông sợ Tống Lão Sinh không xuất chiến, bèn dẫn theo vài kỵ binh đến dưới thành huyện Hoắc trước, cầm theo roi ngựa ra dấu, giống như đã bao vây thành vậy để chọc giận Lão Sinh. Lão Sinh quả nhiên tức giận, mở cửa thành xuất binh, bày binh bố trận. Lý Uyên và Kiến Thành cùng dàn trận ở thành đông, Thái Tông và Sài Thiệu bày trận ở thành nam. Lão Sinh chỉ huy quân sĩ cấp tốc tiến lên, áp sát Cao Tổ trước, lúc này Kiến Thành đột nhiên ngã ngựa, Lão Sinh thừa cơ tiến công, đội quân của Lý Uyên và Kiến Thành vội vàng rút lại phía sau. Thái Tông từ bãi đất ở thành nam dẫn đầu hai đội kỵ binh vội vàng đi xuống, phá tan đội quân của Lão Sinh, lại thống lĩnh đại quân ra sức tấn công, quân địch đại bại, vứt bỏ vũ khí chạy trốn. Lão Sinh lui về đến cổng thành, cửa thành hạ xuống, Lão Sinh tay nắm lấy sợi dây thừng muốn leo lên thành,nhưng bị chém chết, thế là đại quân Lý Đường đã bình định được Ấp Hoắc.

Đến Hà Đông, hào kiệt vùng Quan Trung tranh nhau kéo đến tham gia nghĩa quân. Thái Tông xin tiến quân vào quan ải, đánh chiếm kho thóc Vĩnh Phong cứu tế dân nghèo, thu phục quần hùng và chúng hào kiệt đánh chiếm kinh đô, Cao Tổ khen hay. Thái Tông dẫn quân vượt qua Hoàng Hà, trước tiên bình định Vị Bắc. Quan dân và thân sĩ hào kiệt ở các vùng phụ cận kinh đô kéo đến quân trại, mỗi ngày có đến mấy nghìn người xin được gia nhập nghĩa quân, già trẻ dìu nhau, đầy khắp doanh trại. Thái Tông thu nạp anh tài, tận dụng tài năng, người ở xa gần nghe thấy vậy, đều nô nức kéo đến đầu quân.

Quân Đường cắm trại ở Kính Dương, binh sĩ ưu tú có trên 9 vạn, đánh tan tặc khấu người Hồ là Lưu Diêu Tử, thu phục bộ hạ của y, lưu lại Ân Khai Sơn, Lưu Hoành Cơ đóng quân ở thành cũ Trường An. Bản thân Thái Tông dẫn quân xông lên Tư Trúc, đứng đầu bọn cướp là Lý Trọng Văn, Hà Phan Nhân, Hướng Thiện Chí đều đến gặp mặt, dừng chân ở A Thành, thu được 13 vạn binh sĩ. Người dân Trường An đưa thịt rượu đến cửa doanh trại tiếp đãi nghĩa quân nhiều không kể xiết, Thái Tông đều ân cần hỏi han, sau đó đích thân tiễn chân, quà cáp nhất loạt không nhận. Quân lệnh nghiêm minh, không ai làm trái. Tiếp sau dẫn theo nghĩa quân bình định kinh thành, Ông được cải phong là Tần Quốc Công.

Bắt Tiết Cử , Phá Lưu Vũ Chu

Tiết Cử nguyên là hiệu úy phủ Kim Thành dưới triều Tùy, khi Lý Uyên khởi binh, Tiết Cử chiếm cứ quận Kim Thành (Lan Châu, Cam Túc ngày nay) khởi binh, công thành chiếm đất, chiếm cứ vùng Lũng Hữu. Tháng 7 xưng đế, quốc hiệu Tần. Lý Uyên đánh chiếm Trường An. Con trai của Tiết Cử là Tiết Nhân Cảo dẫn binh tiến vào Phù Phong (vùng Phụng Tường, Thiểm Tây ngày nay), bị Thái Tông đánh lui.

Năm đầu niên hiệu Võ Đức (năm 618), Tiết Cử xâm chiếm Kinh Châu (vùng Kinh Châu, tỉnh Cam Túc ngày nay). Cao Tổ Lý Uyên hạ lệnh: Thái Tông làm nguyên soái, dẫn theo nhóm người đại tướng Khuất Đột Thông, đội quân Bát Tổng quản ra kháng cự. Khi đó, Thái Tông bị bệnh sốt rét, ủy thác việc quân cho Lưu Văn Tĩnh, Ân Khai Sơn, và căn dặn họ: “Tiết Cử dẫn binh tiến sâu vào đất ta, lương thực ít ỏi, binh sĩ mỏi mệt, nếu đến khiêu chiến, các ông nhớ phải cẩn thận, chớ có thuận theo. Đợi khi ta khỏi bệnh, sẽ cùng các ông phá trận”. Khai Sơn sau khi rời khỏi, nói với Văn Tĩnh rằng: “Chúa công lo ông không làm nên trò, vậy nên mới nói như vậy thôi. Thiết nghĩ, nếu quân giặc nghe nói chúa công có bệnh, ắt sẽ khinh ta, chúng ta cần phải cho chúng thấy uy vũ của ta”. Hai người không nghe lời khuyên của Thái Tông, khoe khoang quân uy, bày trận ở tây nam Cao Chỉ, tự phụ binh nhiều mà không thiết lập phòng bị. Tiết Cử đánh úp từ phía sau, Bát tổng quản đều bại, binh sĩ tử thương rất nhiều, Thái Tông ôm bệnh dẫn binh về lại Trường An. Tiết Cử chiếm lĩnh Cao Chỉ.

Tháng 9, Tiết Cử qua đời, Thái Tông được bổ nhiệm làm Nguyên soái công đánh Tiết Nhân Cảo, hai quân giằng co ở thành Thổ Thứ không phân thắng bại, hai bên xây thành đắp lũy giằng co hơn 60 ngày. Tiết quân có hơn 10 vạn quân, quân thế cường thịnh, nhiều lần đến khiêu chiến. Thái Tông đóng chặt cửa thành không ra. Các tướng xin nghênh chiến, Thái Tông nói: “Quân ta vừa mới bại trận, sĩ khí sụt giảm, quân địch cậy thắng mà kiêu ngạo, có tâm xem thường quân ta, nên phải đóng chặt bờ lũy mà chờ đợi thời cơ. Quân địch kiêu ngạo, quân ta phấn chấn, chỉ trong một trận là có thể đánh bại được”, và hạ lệnh: “Ai còn dám đòi nghênh chiến, xử trảm không tha!”. Thái Tông án binh bất động để làm tiêu tan nhuệ khí của đối phương, cuối cùng Tiết quân lương thực ăn hết, tướng địch là Mâu Quân Tài, Lương Hồ Lang đến xin đầu hàng. Thái Tông biết lúc này, quân sĩ của Tiết Nhân Cảo đã không đồng lòng với nhau, thế là lệnh cho Tổng quản hành quân Lương Thực đóng trại ở Thiển Thủy Nguyên để dẫn dụ quân địch xuất chiến. Tướng địch là Tông La Hầu mừng rỡ, dốc hết quân đội tinh nhuệ tấn công, Lương Thực chỉ phòng thủ chứ không xuất chiến. Tông La Hầu công đánh rất gấp. Thái Tông biết quân địch đã mỏi mệt, nói với các tướng rằng: “Quân địch nhuệ khí sắp tan, quân ta giờ đã đến lúc đánh trả lại”. Liền lệnh cho tướng quân Bàng Ngọc trước tiên đóng trận ở phía nam Thiển Thủy Nguyên dẫn dụ quân địch. Tướng địch Tông La Hầu tập trung quân đội tiến đến đánh lại, quân Bàng Ngọc gần như thất bại. Nhưng Thái Tông đích thân dẫn theo đại quân đánh úp bất ngờ giành lấy được phía bắc Thiển Thủy Nguyên. Tông La Hầu từ xa nhìn trông thấy, lần nữa rút quân trở về kháng cự. Thái Tông dẫn theo mấy chục kỵ binh tinh nhuệ công đánh vào trận địch, cùng với quân Bàng Ngọc nội ứng ngoại hợp ra sức công đánh, Tông La Hầu toàn quân tan tác, mấy nghìn người thiệt mạng, quân sĩ nhảy vào khe núi hẻm núi mà chết nhiều không thể tính đếm.

Thái Tông dẫn theo hơn hai nghìn kỵ binh đuổi theo quân địch đang tháo chạy, đuổi mãi đến Thổ Thứ. Tiết Nhân Cảo vô cùng sợ hãi, thủ thành tự vệ. Đậu Quỹ ghìm chặt ngựa gắng sức khuyên can Thái Tông, rằng: “Nhân Cảo vẫn chiếm giữ thành trì kiên cố, tuy ta đã đánh bại La Hầu, cũng không thể khinh suất mà tiến vào thành địch, xin hãy án binh quan sát trước đã”. Thái Tông nói: “Cháu đã suy nghĩ rất lâu, cái thế chẻ tre, không thể để mất được, cậu không cần phải khuyên cháu nữa!”. Thái Tông tiếp tục thừa thắng xông lên. Tiết Nhân Cảo bày trận dưới thành, Thái Tông chiếm cứ Kinh Thủy rồi bày trận, bọn người dũng tướng Hồn Can bên Tiết Nhân Cảo lúc tham gia chiến đấu đã đầu hàng Thái Tông. Tiết Nhân Cảo sợ quá, dẫn binh vào thành cố thủ. Đến lúc trời tối, đại quân Thái Tông lũ lượt kéo đến, bao vây bốn mặt. Nửa đêm, tướng sĩ thủ thành tranh nhau xuống thành đầu hàng. Tiết Nhân Cảo đành phải xin hàng, Thái Tông thu được hơn 1 vạn tinh binh, nam nữ năm vạn người.

Các tướng chúc mừng, bèn hỏi Thái Tông: “Đại Vương đánh một trận mà giành được phần thắng, gấp gáp bỏ lại bộ binh, lại không tiến đánh, khinh kỵ binh mãi đến dưới thành, mọi người đều cho rằng không thể đánh bại được đối phương, thế mà cuối cùng lại có thể giành được phần thắng, vì sao vậy?”. Thái Tông đáp rằng: “La Hầu chỉ huy đều là người Lũng Ngoại, binh tướng đều dũng mãnh, ta đặc biệt đánh úp bất ngờ mà công phá, thu hoạch cũng không nhiều. Nếu như trì hoãn tiếp nữa, quân địch đều vào trong thành cả, Nhân Cảo vỗ về an ủi rồi lại trọng dụng, lúc đó mới khó đánh bại; trong lúc cấp bách, đối phương vừa mới bại trận trở về Lũng Ngoại. Sĩ khí hao tổn, Nhân Cảo sợ vỡ mật không rảnh nghĩ cách, nhờ vậy ta mới công đánh được”. Mọi người nghe vậy đều tâm phục.

Trận này, Thái Tông thu được rất nhiều kỵ binh tinh nhuệ, vẫn lệnh cho anh em Tiết Nhân Cảo và tướng địch là Tông La Hầu, Địch Trưởng Tôn thống lĩnh. Thái Tông cùng họ du ngoạn, cưỡi ngựa bắn cung, không chút gián cách. Nhóm người quy hàng cảm ân Thái Tông khoan hồng đại lượng, và cũng khiếp sợ trước uy thế của Thái Tông, đều nguyện ý lấy cái chết để đáp đền. Thái Tông khải hoàn trở về, dâng biểu chiến thắng ở thái miếu. Cao Tổ bổ nhiệm Thái Tông là Thái úy, trấn thủ Trường Xuân cung, quan binh Quan Đông toàn bộ đều do ông điều động chỉ huy. Không lâu sau, Thái Tông lại được tấn thăng lên làm Tả võ hầu đại tướng quân, Tổng quản Lương Châu.

Thái Tông năm sau, trong lúc đi ngang qua chiến trường cũ đánh bại Tiết Cử đã đặc biệt viết một bài thơ biểu đạt hoài niệm:
 
“Kinh phá Tiết Cử chiến địa”:

Tích niên hoài tráng khí, đề qua sơ trượng tiết.

Tâm tùy lãng nhật cao, chí dữ thu sương khiết.

Di phong kinh điện khởi, chuyển chiến trường hà quyết.

Doanh toái lạc tinh trầm, trận quyển hoành vân liệt.

Nhất huy phân lệ tịnh, tái cử kình nghê diệt.

Ư tư phủ cựu nguyên, thuộc mục trú hoa hiên.

Trầm sa vô cố tích, giảm táo hữu tàn ngân .

Lãng hà xuyên thủy tịnh, phong vụ bão liên hôn.

Thế đồ cức lưu dịch , nhân sự thù kim tích.

Trường tưởng diểu tiền tung, phủ cung liêu tự thích.

Dịch nghĩa:

Đi qua chiến địa công phá Tiết Cử

Nhớ lại bản thân lúc còn là thiếu niên, khí khái anh hùng hừng hực, cầm thương giáo cầm phù tiết, anh dũng giết địch.

Trong lòng sáng chói cao như bầu trời, chí hướng mục tiêu thuần khiết trong sáng như thu sương.

Binh lực di chuyển thần tốc như ánh điện, khí thế này như nước Trường Hà cuồn cuộn tuôn trào.

Doanh lũy quân Tiết như sao sa ngoài bầu trời, phút chốc nát tan chìm nghỉm,

Mà trận binh cũng giống như gió cuộn mây ngang, lập tức chia năm xẻ bảy.

Cứ như vậy, một lần đại chiến, khiến cho quân địch rất là kiêu căng phải thu lại,chiến đầu lần nữa, hoàn toàn tiêu diệt quân địch hung bạo.

Ngồi ở trên xe của đế vương, nhìn xuống vùng đất bằng chiến đấu kịch liệt ngày dạo trước.

Vết tích chiến đấu ác liệt năm nào giữa hai bên, dường như đã bị đất cát chôn vùi, chỉ có chiến xa và bếp lò vẫn lưu giữ lại chút dấu vết thủa xưa.

Nước gợn được ánh nắng chiều chiếu rọi, trong suốt biết bao, núi non như những cánh hoa sen, bao phủ trong sương mù, trông thật mờ mờ ảo ảo.

Vật đổi sao dời, thế gian chỉ trong nháy mắt biến hóa muôn hình muôn dạng, vạn vật nơi cõi người, hôm nay đã khác xưa.

Nghĩ lại chiến đấu đẫm máu chốn sa trường trong mấy năm nay, nhìn thấy thiên hạ thái bình trước mắt, mới cảm thấy được sự an ủi sâu sắc trong tâm.


Quan Trung tuy ngày càng củng cố, nhưng Thái Nguyên – vùng đất khởi binh của Lý Uyên, lại sa vào cảnh nguy hiểm. Lưu Vũ Chu là người Mã Ấp, kiêu dũng thiện chiến, kết giao rộng với hào hiệp, chính thức phản lại nhà Tùy. Lại cử sứ giả liên minh với Đột Quyết, Thủy Tất khả hãn Đột Quyết lập Lưu Vũ Chu là “Định Dương khả hãn” (Dương là họ của hoàng tộc triều Tùy). Lưu Vũ Chu xưng đế, quốc hiệu Hán, trở thành một chi nhánh lực lượng quan trọng ở miền bắc Sơn Tây trong cảnh hỗn loạn cuối triều Tùy. Sau khi Lý Uyên dựng lập nên nhà Đường. Lưu Vũ Chu vẫn thường xuyên mượn nhờ lực lượng của Đột Quyết trực tiếp uy hiếp Thái Nguyên, vậy nên không thể xem thường được.

Tháng 4 năm 2 niên hiệu Võ Đức (năm 619), Lưu Vũ Chu liên minh với Đột Quyết, tiến vào chiếm giữ dãy núi Hoàng Xà lĩnh (miền bắc Du Thứ, Sơn Tây). Lý Nguyên Cát đóng giữ ở Thái Nguyên cử Trương Đạt Thành đánh đuổi Lưu Vũ Chu, kết quả quân Đường rơi vào tay giặc. Lưu Vũ Chu đánh chiếm Du Thứ, bao vây các huyện Tịnh Châu. Lúc này, Tống Kim Cương ở Hà Bắc bị Đậu Kiến Đức đánh bại, đến nương nhờ Lưu Vũ Chu. Tháng 6, Lưu Vũ Chu lệnh cho Tống Kim Cương dẫn ba vạn binh tiến công Thái Nguyên, tướng nhà Đường là Bùi Thích liên tiếp bại trận, Lý Nguyên Cát trấn giữ Thái Nguyên bỏ thành trốn chạy về Trường An. Tấn Châu (vùng Lâm Phần, Sơn Tây ngày nay) cho đến thị trấn Bắc Thành, ngoài Hạo Châu (vùng Phần Dương, Sơn Tây ngày nay) ra, toàn bộ đều đã rơi vào tay của Lưu Vũ Chu. Lưu Vũ Chu hình thành hình thế vây chặt lấy Thái Nguyên.
Tháng 10, Tống Kim Cương đánh hạ Cối Châu (Dực Thành, Sơn Tây ngày nay). Lã Sùng Mậu, người huyện Hạ, giết chết huyện lệnh, liên minh với Lưu Vũ Chu. Vương Hành Bản chiếm đóng Bồ Bản (phía bắc Vĩnh Tế, Sơn Tây ngày nay) cũng liên minh với Lưu Vũ Chu. Nhà Đường ở bờ đông Hoàng Hà chỉ còn lại một góc nhỏ ở vùng tây nam đất Tấn. Quan Trung đang ở trong cảnh nguy kịch.

Cao Tổ hạ sắc chỉ, rằng: “Thế giặc đã vậy, khó mà phân tranh, nên bỏ Hoàng Hà đi về phía đông, cẩn thận trấn giữ Quan Tây mà thôi”, Thái Tông lập tức dâng tấu, xin được ra trận: “Thái Nguyên, vốn là nền tảng gây dựng vương nghiệp, là gốc rễ của quốc gia; giàu có sung túc ở Hà Đông, tài nguyên của Kinh Ấp. Nếu để bỏ hết cả, quần thần ắt sẽ thầm oán giận trong lòng. Mong có thể cho nhi thần ba vạn tinh binh, ắt bình định được Lưu Vũ Chu, lấy lại đất Phàn, đất Tấn”. Lúc này, cũng chỉ có Thái Tông có thể xuất chinh, cứu vãn vương triều Lý Đường. Cao Tổ hạ lệnh: Quân đội Quan Trung toàn bộ đều quy về Thái Tông thống lĩnh, tiến đánh Tống Kim Cang, Lưu Vũ Chu.

Tháng 11 cùng năm, Thái Tông thống lĩnh ba vạn tinh binh tiến đến Long Môn quan, đạp băng vượt qua Hoàng Hà, tiến vào chiếm giữ thành Bách, kết trận “bối thủy”, dàn ra trận thế “đưa thân vào chỗ chết rồi sống lại” giằng co với Tống Kim Cang . Thái Tông đồng thời cử binh lính chặt đứt con đường lương thực của Tống quân. Tống Kim Cang bởi một mạch thắng trận, chưa từng thất bại, lần này đi sâu vào lãnh địa Lý Đường, chiến tuyến quá dài, viện trợ khó khăn, thêm nữa lại xem thường quân đội nhà Đường. Thái Tông nắm chắc cơ hội chiến đấu, lúc này gặp lúc đại tướng của Tống Kim Cang là Uất Trì Kính Đức, Tầm Tương dẫn quân trở về Cối Châu. Thái Tông lệnh cho Binh bộ Thượng thư Ân Khai Sơn, Tổng quản Tần Thúc Bảo chặn đánh ở Mỹ Lương Xuyên, giành được phần thắng, giết hơn hai ngàn quân địch. Ngay sau đó, Kinh Đức, Tầm Tương dẫn theo tinh kỵ viện trợ quân Tống Vương Hành Bản ở Bồ Bản. Thái Tông tự mình thống lĩnh bộ kỵ ba nghìn, giữa đêm từ đường vắng đến An Ấp chặn đánh, quân địch đại bại. Kính Đức, Tầm Tương may mắn dẫn quân thoát thân. Thái Tông bắt hết mọi người trở về thành Bách. Tống Kim Cang muốn đánh không được, mà lại không muốn từ bỏ, con đường lương thực bị chặt đứt, không có lương thảo tiếp tế, lòng quân xao động, cục diện thất bại thấy rõ ngay trước mắt.

Tháng 2 năm 3 niên hiệu Võ Đức, Tống Kim Cang cuối cùng bởi quân sĩ đói khát nên phải rút quân trốn chạy, Thái Tông quyết đoán dẫn quân đuổi theo, đuổi kịp Tầm Tương ở Lã Châu, đánh bại quân địch. Quân Đường thừa thắng kéo lên phía bắc, trong một ngày đêm tập kích bất ngờ, dọc đường hơn hai trăm dặm diễn ra mười trận chiến lớn nhỏ. Hai ngày không ăn, ba ngày không cởi áo giáp, đuổi kịp Tống Kim Cang ở Giới Hưu, lại một ngày diễn ra tám trận đánh, đều đánh bại đối phương, bắt và giết hơn mấy vạn người. Nhóm người Uất Trì Kính Đức dẫn theo 8 nghìn tàn quân còn sót lại xin được quy hàng Thái Tông

3-2.jpg

Uất Trì Kính Đức của diện tàng bản thời nhà Thanh.
Sau khi Thái Tông đánh bại Tống Kim Cang, Lưu Vũ Chu thấy thế lớn đã qua đi, bèn trốn chạy sang Đột Quyết, cuối cùng lại bị Đột Quyết giết chết. Tống Kim Cang muốn tập hợp tàn quân rồi lại nghênh chiến tiếp, nhưng đã khó có lực hồi thiên, đành phải dẫn theo khoảng trăm tàn quân bên cạnh đi về phương bắc cầu cạnh Đột Quyết, lại cũng bị Đột Quyết giết chết. Vùng đất Thái Nguyên mất rồi lại lấy lại được. Các quận Hà Đông do Lưu Vũ Chu chiếm đóng, đều quy về Đại Đường. Thái Tông lại một lần nữa xoay chuyển cục diện, cứu vớt vương triều Lý Đường khỏi cảnh diệt vong.
Đại thắng tại Thanh Thành

Từ sau khi Tùy Dạng Đế tiền triều giành được chính quyền, đông đô Lạc Dương bèn trở thành trung tâm của cả nước, vùng đất này vốn là ở Trung Nguyên, nằm ở trung tâm của Đại Vận Hà. Nhưng lúc này, Lạc Dương đã bị Vương Thế Sung chiếm đoạt. Vương triều Đại Đường nếu muốn thống nhất thiên hạ, ắt phải lấy được Lạc Dương…

Trong thời gian Lý Uyên đánh chiếm Trường An, Vương Thế Sung khi ấy đang cùng giao chiến với quân Ngõa Cương. Đội quân này tiếng tăm hiển hách, nhưng vào tháng 9 đầu năm Võ Đức (năm 618), mấy chục vạn đại quân Ngõa Cương cuối cùng đều bị đại bại dưới tay Vương Thế Sung. Vương Thế Sung đánh bại quân Ngõa Cương của Lý Mật, lại có thêm được một bộ phận tướng sĩ và châu huyện của Lý Mật. Tháng 10, Lý Mật đến nhờ vả triều Đường, không lâu sau bởi ông ta phản lại nhà Đường mà bị giết. Còn Vương Thế Sung lúc này chiếm giữ Lạc Dương, và chiếm được một phần địa bàn ở Hà Nam của nhà Đường. Tháng 4 năm thứ 2 niên hiệu Võ Đức (năm 619), Vương Thế Sung xưng đế, lấy quốc hiệu là nhà Trịnh, khí thế rất là hùng mạnh.

Tháng 5, năm thứ ba, niên hiệu Võ Đức (năm 620), Thái Tông sau khi tiêu diệt Lưu Vũ Chu từ tiền tuyến Sơn Tây về đến Trường An. Trải qua hơn một tháng nghỉ ngơi chỉnh đốn, đến tháng 7 ông phụng mệnh của Cao Tổ, dẫn quân xuất chinh, đông tiến Lạc Dương, thảo phạt Vương Thế Sung. Đội quân đóng ở Cốc Châu. Tướng quân của Đại Đường là La Sĩ Tín dẫn quân tiên phong bao vây Từ Giản (30 dặm về phía đông, huyện Tân An, Hà Tây ngày nay). Vương Thế Sung dẫn theo 30 vạn tinh binh đến cứu viện. Thái Tông dẫn theo kỵ binh nhẹ thăm dò quân tình, bất ngờ gặp phải Vương Thế Sung, hai bên xảy ra trận ác chiến. Bởi quân số chênh lệch quá lớn, hơn nữa do đường xá hiểm trở, lại bị Vương Thế Sung bao vây, Thái Tông lệnh cho toàn tướng sỹ mở con đường máu đột phá vòng vây, còn bản thân ông cũng thân chinh đốc thúc. Khi đó, đại tướng của Vương Thế Sung là Đơn Hùng Tín dẫn kỵ binh xông lên trước giáp công, thế trận tấn công thật là vô cùng hiểm ác, Thái Tông tả xung hữu đột, trái phải bắn cung, ai nấy đều bị trúng tên mà ngã xuống, trong trận chiến này, đích thân ông bắt được đại tướng của Vương Thế Sung là Yến Hân. Trở về doanh trại sau cuộc huyết chiến, khắp mặt Thái Tông bám đầy bụi đất xa trường đến nỗi ngay cả binh tướng dưới quyền cũng nhận không ra nên mới chặn ông ở ngoài cửa mà nhất định không cho vào doanh trại. Thái Tông bèn gỡ mũ giáp xuống, lúc này hết thảy tướng sỹ mới hân hoan chào đón Thái Tông khải hoàn. Thừa thắng, ngay ngày hôm sau, Thái Tông dẫn theo 5 vạn kỵ binh đánh chiếm Từ Giản, Vương Thế Sung hay tin này sợ quá cho rút toàn bộ quân phòng thủ đang trấn giữ Từ Giản về lại Lạc Dương.

Thái Tông liền cử Tổng quản hành quân là Sử Vạn Bảo từ Nghi Dương đi về phía nam chiếm giữ Long Môn, Lưu Đức Uy từ Thái Hành đi về phía đông bao vây Hà Nội, Vương Quân Khuếch từ Lạc Khẩu chặn đứng con đường vận chuyển lương thảo của Vương Thế Sung; lại cử Hoàng Quân Hán dẫn theo thủy quân ban đêm từ sông Hiếu Thủy xuôi dòng đi xuống tập kích thành Hồi Lạc. Từ Hoàng Hà trở về phía nam lúc này, không ai là không hưởng ứng quân Đường; trái lại binh tướng dưới quyền của Vương Thế Sung khi ấy hết thành lũy này đến thành lũy khác nối tiếp nhau chủ động đầu hàng. Đại quân của Đường Thái Tông tiến vào chiếm giữ Lạc Dương, quay mặt về phía bắc Mang Sơn, liên doanh áp sát Lạc Dương với khí thế dễ như trở bàn tay vậy. Mấy tháng tiếp sau đó, binh tướng trấn giữ các nơi còn lại của Vương Thế Sung cũng lũ lượt kéo đến đầu hàng; Tháng 7 năm 620, Trưởng sử Vị Châu là Trương Công Cẩn và Thứ sử Vị Châu là Thôi Khu dâng thành Vị Châu quy hàng nhà Đường; tháng 8, Đặng Châu quy hàng; tháng 9, Tổng quản Hiển Châu là Điền Toản dùng toàn bộ 25 châu xin quy hàng; Tổng quản Quân Châu của Vương Thế Sung là Dương Khánh xin hàng; Thứ sử Úy Châu Thời Đức Duệ lấy toàn bộ 7 châu xin hàng; tháng 10, đại tướng Trương Trấn Châu xin hàng, tiếp theo đó, Vinh, Biện, Vị, Dự, v.v… 9 châu lần lượt đến quy hàng. Đến đây, các quận huyện xung quanh Lạc Dương đều đã nằm trong tay Thái Tông, Lạc Dương đã trở thành một tòa thành trơ trọi.

Vào tháng 9 , Thái Tông dẫn theo 500 kỵ binh đến lăng Tuyên Võ Đế Bắc Ngụy để thị sát chiến địa, Vương Thế Sung bèn lợi dụng cơ hội này dẫn theo 1 vạn kỵ binh bất ngờ xuất hiện, vây kín toàn bộ đội quân của Thái Tông ở trong. Đại tướng của Vương Thế Sung là Đơn Hùng Tín phi ngựa, giương giáo đâm thẳng về phía Thái Tông, chủ lực của quân Đường khi ấy muốn cứu viện cũng không kịp, mắt thấy Thái Tông sắp phơi thây dưới ngựa . Thật may thay vào đúng tích tắc nguy hiểm cận kề ấy Uất Trì Kính Đức tức thời thúc ngựa hô lớn, rồi cứ thuận theo thế phi ngựa vắt ngang mà vận hết sức bình sinh đâm Đơn Hùng Tín. Uất Trì Kính Đức nhân đó mà bảo vệ được Thái Tông xông ra thoát khỏi vòng vây.

Tháng 2 năm thứ 4 niên hiệu Võ Đức, quân Đường tiến vào chiếm giữ cung Thanh Thành. Doanh lũy Thanh Thành khi ấy còn chưa xây xong, Vương Thế Sung dẫn theo 2 vạn binh mã xuất hiện tấn giữ ở cổng, bày trận đối diện Cốc Thủy. Thái Tông cùng Uất Trì Kính Đức lúc này một chủ, một tướng hợp bích tiên phong lập tức thống lãnh kỵ binh xông vào phá trận của Vương Thế Sung như vào trong chốn không người, quân Đường sĩ khí vang dội, hào khí ngất trời, tiền hô hậu ủng theo sát phía sau, đánh bại đội quân của Vương Thế Sung chỉ trong chốc lát. Tướng địch là Trấn Trí Lược bị bắt, quân Đường giết chết hơn nghìn quân địch, lại bắt giữ thêm 6 nghìn bại binh của Thế Sung. Thảm bại sau trận chiến này, Vương Thế Sung từ đó không dám tùy tiện xuất chiến, bèn sang cầu cứu Đậu Kiến Đức.

Trong cuốn “Tư Trị Thông Giám” có viết: Thái Tông vì để phát huy sở trường dã chiến của kỵ binh quân nhà Đường, đã đặc biệt chọn ra những kỵ binh kiêu dũng nhất, tập hợp thành một nhóm quân tinh nhuệ nhất trong các nhóm quân tinh nhuệ gọi là: ‘Đội quân áo giáp sắt đen’. Tướng sĩ trong nhóm quân đó khắp người đều mặc quân phục và áo giáp màu đen, chia thành hai đội tả – hữu, lại lệnh cho Tần Thúc Bảo, Trình Tri Tiết và Uất Trì Kính Đức, Địch Trưởng Tôn chia nhau thống lĩnh hai đội tả hữu quân. Mỗi lần ra trận, bản thân Thái Tông cũng mặc áo giáp đen, đích thân chỉ huy.

Cuối tháng giêng năm thứ 4 niên hiệu Võ Đức (năm 621), hai tướng dưới trướng của Đường Thái Tông là Khuất Đột Thông và Đậu Quỹ xuất quân đi tuần tra trận địa danh lũy các quân, giữa đường bỗng gặp phải đội hùng binh của Vương Thế Sung. Quân Đường bất ngờ không kịp chuẩn bị, suýt chút bị quân Trịnh tiêu diệt. Thái Tông hay tin này, đích thân dẫn theo đội quân áo giáp sắt đen tiến đến cứu viện, đại phá Vương Thế Sung, bắt sống tướng lĩnh kỵ binh của quân địch là Cát Ngạn Chương, giết chết và bắt sống hơn 6 nghìn binh mã.
2-5.jpg

Đại tướng Tần Thúc Bảo đại tướng triều Đường.
 
Đầu tháng 2 năm 621, do Lạc Dương bị bao vây lâu ngày, lương thực thiếu hụt, Vương Huyền Ứng – con trưởng của Vương Thế Sung đang đóng quân ở Võ Lao nghe tin liền dẫn theo mấy nghìn người vận chuyển lương thảo cứu tế cho cha ở Lạc Dương. Thái Tông hay tin, lệnh cho tướng lĩnh là Lý Quân Hâm xuất binh tập kích. Vương Huyền Ứng vội vàng ứng chiến, bị Lý Quân Hâm đánh tan tác, toàn bộ lương thảo đều rơi vào trong tay quân Đường, Vương Huyền Ứng đành phải một mình trốn về Lạc Dương.

Thái Tông cảm thấy thời cơ phát động cuộc tổng tấn công với Lạc Dương đã chín muồi, liền cử Vũ Văn Sĩ về triều xin lệnh. Lý Uyên phê chuẩn thỉnh cầu. Thái Tông được lệnh, bèn vào ngày 23 tháng 2 năm 621 dẫn theo đại quân tiến vào chiếm giữ cung Thanh Thành. Quân Đường vừa đến nơi còn chưa kịp thiết lập doanh trại, Vương Thế Sung đã đích thân dẫn 2 vạn quân mã xuất thành tấn công. Các tướng khi ấy đều sợ, Thái Tông lệnh cho kỵ binh tinh nhuệ bày trận ở dưới núi Mang Sơn, sau đó thân chinh dẫn theo các vị tướng lĩnh tiến lên phía lăng Võ Đế Bắc Ngụy quan sát tình hình quân địch, đoạn ông nói với tả hữu rằng: “Quân địch đã đến bước đường cùng, lần này Vương Thế Sung dốc hết toàn bộ binh lực vào trận chiến này cũng chỉ là tìm may trong một trận. Hôm nay nếu ta công phá được, lần sau quân địch sẽ không còn dám xuất thành nữa!”. Bèn lệnh cho Khuất Đột Thông dẫn theo 5 nghìn người vượt qua Cốc Thủy, tấn công Vương Thế Sung. Sau đó, Thái Tông đích thân dẫn theo đội quân áo giáp đen xông vào trận địch.

Thái Tông cưỡi con tuấn mã có tên “Táp lộ tử” toàn thân màu tím phi nhanh như bay, dẫn theo chỉ mấy chục kỵ binh tinh nhuệ nhất, giống như mũi tên vừa rời dây cung cứ thế mà xông thẳng vào trận địch, cuối cùng lại xuyên ngang qua mà ra, chỉ trong chốc lát đã làm xáo trộn hết thảy đội quân tiên phong của Vương Thế Sung. Binh sĩ quân Trịnh thấy khí thế ấy đã tim đập chân run, vô cùng hoảng sợ, chưa đánh đã muốn bại rồi, trong trận chiến ấy, quân địch bị giết chết nhiều vô số kể.

3-3.jpg

Khâu Hành Cung (trái) đang nhổ một mũi tên cho “ Táp Lộ Tử “ được mô tả trong <Triệu Lăng lục tuấn đồ quyển > ” của Triệu Lâm thời nhà Kim, được sưu tầm bởi Bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh.
Lúc này, để gỡ thế bí Vương Thế Sung cũng mau chóng tập kết những bộ hạ đang chạy tán loạn mà bày ra thế trận lần nữa, tiếp tục ác chiến với quân Đường. Trận chiến sinh tử giữa Quân Trịnh và quân Đường này diễn ra vô cùng khốc liệt, bắt đầu từ giờ Thân cứ thế mà ác chiến mãi cho đến giờ Ngọ, quân Trịnh nhiều lần bị kỵ binh của quân Đường đánh cho tan tác, nhưng Vương Thế Sung vẫn nhiều lần ngoan cường chỉnh binh tái chiến, cuối cùng sức tàn lực kiệt quân địch dần dần lui trận, Thái Tông thừa thắng như chẻ tre chỉ huy binh sĩ truy kích, một lần bắt gọn hết thảy cả đám tàn quân. Trong trận chiến ấy quân Trịnh bị giết tổng cộng khoảng 8 nghìn người.

Vương Thế Sung không dám xuất chiến, chỉ là tự thủ trong thành, đợi chờ viện quân của Đậu Kiến Đức. Quân Đường đào chiến hào dưới thành Lạc Dương, và bố trí phòng thủ dài khắp xung quanh để ngăn Vương Thế Sung đột phá vòng vây. Trong thành Lạc Dương của Vương Thế Sung khi đó cố thủ vững như thành đồng, phòng bị vô cùng chặt chẽ, đạn pháo, tên nỏ do quân Trịnh từ trên thành bắn xuống gây ra khá nhiều tổn thất và thương vong cho quân Đường, Vương Thế Sung bước đầu đã đạt được mục đích thủ thành chiến đấu. Thái Tông dẫn quân bốn mặt công thành, ngày đêm không nghỉ, trải qua mười mấy ngày cũng chưa thể phá được. Tướng sĩ quân Đường đều mệt mỏi lui về, Tổng quản hành quân Lưu Hồng Cơ xin được thu quân, Thái Tông nói: “Hôm nay ồ ạt đến đây, chi bằng hãy làm một mẻ khỏe suốt đời. Các châu phía Đông đều đã hàng phục, duy chỉ có Lạc Dương tòa thành lẻ loi này, thế không trụ được lâu, công quả sắp thành, cớ sao lại bỏ về!”. Nói dứt lời bèn hạ lệnh trong quân rằng: “Lạc Dương chưa phá, sẽ không trở về, ai dám trái lệnh, trảm không tha!”. Kể từ đó, mọi người không ai dám nói chuyện trở về nữa. Đường Cao Tổ sau khi nghe tin cấp báo về tình hình quân Đường ở Lạc Dương cũng có phần lo lắng, bèn hạ mật lệnh cho Thái Tông rút quân trở về. Thái Tông dâng biểu nói: Lạc Dương nhất định có thể công phá được, lại cử Phong Đức Di vào triều nói rõ hình thế. Phong Đức Di nói với Cao Tổ rằng: “Vương Thế Sung tuy chiếm ưu thế, những người đi theo ông ta đều là những kẻ thất phu theo lệnh mà hành xử. Giờ chỉ có một thành Lạc Dương này mà thôi, nếu ta dốc hết trí lực, công hạ chỉ là chuyện trong nay mai. Nay nếu trở về, thế giặc phục hồi, càng liên kết với nhau, ngày sau ắt khó đánh bại!”. Đường Cao Tổ nghe theo kiến nghị của Thái Tông, không còn yêu cầu thu quân trở về nữa.

Võ Lao Thần uy

Đậu Kiến Đức là thủ lĩnh nông dân nổi dậy chống lại sự cai trị của Tùy Dạng Đế, từng tham gia vào đội quân khởi nghĩa của Cao Sỹ Đạt ở quận Thanh Hà. Ông không chỉ đánh bại Quách Tuân và Tiết Thế Hùng ở quận Trác mà còn xóa sổ các lực lượng tàn dư của nhà Tùy mà đứng đầu là Vũ Văn Hóa Cập. Đậu Kiến Đức sau đó đã thành lập chính quyền, định đô tại Lạc Thọ, tự xưng là Trường Lạc Vương, sau đổi thành Hạ Vương.

Khi Thái Tông tấn công kinh đô Lạc Dương của nước Trịnh, Vương Thế Sung biết không thể kháng cự nổi nên đã cầu cứu Đậu Kiến Đức. Đậu Kiến Đức vì muốn duy trì thế chân vạc giữa ba nước, sợ nếu Vương Thế Sung thất thủ thì lực lượng của nhà Đường càng lớn mạnh, đến lúc đó thì vận mệnh của mình khó tránh gặp hiểm nguy, vậy nên đã vội vã dấy binh, dẫn 30 vạn quân ngày đêm đi cứu viện Lạc Dương.

Các tướng lĩnh của Thái Tông e thế địch mạnh, sợ không chống nổi nên có ý muốn rút quân vây Lạc Dương. Tiêu Vũ, Khuất Đột Thông và Phong Đức Di đều xin rút lui về để quan sát. Thái Tông nói: Đậu Kiến Đức đang ở thế mạnh, nếu ta sợ hãi rút lui để cho Đậu – Vương hợp sức với nhau thì càng nguy. Vương Thế Sung đã hết lương thực, bên trong bên ngoài người người mất lòng tin, quân ta không cần tấn công, chỉ việc ngồi chờ quân địch tự bại. Nhưng Đậu Kiến Đức gần đây mới chiến thắng Mạnh Hải Công, các tướng thì tự kiêu còn binh lính thì lười biếng. Khi ta tiến công đánh chiếm Võ Lao Quan, trấn giữ nơi hiểm yếu, nếu quân địch mạo hiểm thắng thua với quân ta thì việc công phá quân địch là điều tất yếu. Còn nếu như quân địch không đánh, trong vòng mười ngày chúng sẽ tự sụp đổ. Nhưng nếu không tấn công nhanh thì mất đi cơ hội tốt, đợi khi quân Đậu Kiến Đức vượt qua Võ Lao, thu phục được những khu vực gần thành Lạc Dương thì quân Đường sẽ rơi vào nguy hiểm.

Với nhận định như vậy, Thái Tông ra lệnh cho Lý Nguyên Cát, Khuất Đột Thông tiếp tục vây Lạc Dương, chỉ vây mà không đánh. Còn bản thân ông thì lãnh đạo Lý Thế Tích, Trình Tri Tiết, Tần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, chỉ rút một phần nhỏ là 3500 quân và dùng 3500 quân đó với 1 vạn quân trong đồn Tị Thủy ở gần Lạc Dương để chống với quân của Đậu Kiến Đức, dùng chiến thuật tập kích, đánh phá những đoàn tiếp tế lương thực của Đậu.

Sau khi đến Võ Lao, Thái Tông dẫn năm trăm quân để do thám doanh trại của Đậu Kiến Đức. Hai doanh trại cách nhau 20 dặm. Thái Tông chia quân của mình phục kích trên đường đi, các cuộc phục kích được dẫn dắt bởi Lý Thế Tích, Tần Thúc Bảo và Trình Tri Tiết, còn Thái Tông thì dẫn Uất Trì Kính Đức và bốn người khác cưỡi ngựa đi thẳng đến doanh trại của Đậu Kiến Đức. Thái Tông nói với Uất Trì Kính Đức: “Ta nắm giữ cung tên còn ngươi thì tùy tùng bên ta, dù thiên binh vạn mã cũng không thể làm gì ta được”. Đến nơi cách doanh trại Đậu Kiến Đức 3 dặm thì gặp phải quân tuần tra của đối phương. Thái Tông hét lên: “Tần Vương ta!” rồi bắn một mũi tên. Quân địch kinh ngạc, bèn tức tốc phái tới năm, sáu ngàn kỵ binh đuổi theo. Thái Tông và Uất Trì Kính Đức “thong dong cầm dây cương cưỡi trên ngựa mà đi”. Quân địch đuổi theo đều bị dẫn vào ổ phục kích đã được bố trí từ trước, cuối cùng bị đánh tan tác, tàn quân vội vàng bỏ chạy.

4-2.jpg

Bức chân dung đứng của Lý Thế Tích được lấy từ tranh của Lưu Nguyên thời nhà Thanh và được khắc bởi Chu Quế. Bản khắc của Trụ Hốt Đường Ở Tô Châu năm thứ 7 Khang Hy triều Thanh.
Đậu Kiến Đức đi về phía tây từ Huỳnh Dương, xây dựng một thành lũy ở Bản Chử, còn Thái Tông đóng quân tại Võ Lao Quan. Mật thám của quân Đường báo tin: “Đậu Kiến Đức nghe tin quân Đường lương thảo đã hết, đang bố trí ngựa đến phía bắc sông Hoàng Hà, chuẩn bị tấn công Võ Lao”. Thái Tông biết được kế sách của địch nên giả vờ chăn ngựa ở Hà Bắc để dụ Đậu Kiến Đức. Sáng hôm sau, quả nhiên Đậu Kiến Đức dẫn quân đến. Thái Tông dẫn theo một số tướng lĩnh lên đồi cao quan sát, nói rằng: Giặc xuất phát từ Sơn Đông chưa từng thấy đối thủ mạnh, nay lâm nguy nhưng rất huyên náo và có ý coi thường chúng ta. Chúng ta án binh bất động thì khí thế của chúng tự nhiên suy tàn, dàn trận lâu thì binh lính đói bụng, tất yếu sẽ tự rút lui, ta truy đuổi theo và tấn công chúng, tất sẽ thắng. Ta hẹn với các vị, qua chính ngọ (giờ trưa) sẽ đả bại được chúng!
 
Đậu Kiến Đức bày trận từ tờ mờ sáng đến trưa, quân lính đói bụng, tất cả ngồi xếp hàng, tranh nhau uống nước, tuần tra rồi rút lui. Thái Tông nói: “Có thể tiến đánh địch rồi!”. Ông bèn dẫn kỵ binh đuổi theo và dụ quân địch, tất cả các quân đều theo sau. Đậu Kiến Đức quay trở lại sư đoàn bày binh bố trận, chưa bày xếp chỉnh tề xong thì bị Thái Tông tiến đánh. Chẳng bao lâu, rất nhanh chóng hai bên giao chiến, tứ bề ầm ĩ. Thái Tông dẫn Sử Đại Nại, Trình Giảo Kim, Tần Thúc Bảo, Vũ Văn Hâm cùng toàn quân vẫy cờ đến, nhô ra từ phía sau và giơ cao biểu ngữ. Quân giặc thấy vậy gục ngã. Thái Tông truy đuổi theo ba mươi dặm, trảm đầu hơn ba ngàn tên và thu được năm mươi vạn quân, đồng thời bắt sống Đậu Kiến Đức. Thái Tông khiển trách rằng: “Ta lấy việc chiến tranh để hỏi tội, vốn dĩ là do tội của Vương Thế Sung, được hay mất, tồn hay vong thì ông không dự liệu được, sao lại còn xâm phạm quân của ta?”. Đậu Kiến Đức vừa run sợ vừa nói: “Hôm nay nếu tôi không bị bắt ở đây, e rằng ông sẽ phải viễn chinh xa xôi mới bắt được tôi”.

Cao Tổ nghe tin Thái Tông thắng lớn, bắt sống được Đậu Kiến Đức, mừng rỡ vô cùng, liền khen ngợi Thái Tông và viết chiếu thư rằng : “Nhà Tùy đang tan rã, Hào Hàn bị cô lập, quần hùng hợp nhất, một ngày sạch sẽ, binh sỹ chiến thắng mà không thương vong một ai, thật không hổ là một bề tôi xứng đáng, đó đều là công lao của Tần Vương vậy”.

Đường Thái Tông trói Đậu Kiến Đức giải đến Đông đô dưới thành Lạc Dương, Vương Thế Sung nhìn thấy Đậu Kiến Đức bị bắt thì rất sợ hãi, bèn dẫn tướng lĩnh hơn 2000 người đến trước cổng thành xin đầu hàng, thế chân vạc từ đó đã bị phá vỡ. Quân nhà Đường vào chiếm thành, quân lệnh nghiêm ngặt, không cướp bóc giết hại dân lành. Vậy là chỉ trong một trận mà Thái Tông thắng được hai nước Trịnh và Hạ, làm chủ được Hoa Bắc. Thái Tông bất khả chiến bại trong trận chiến, tấn công liên tục, nhờ đó đã thu phục được một nửa giang sơn cho Đại Đường.

Khi Thái Tông tiến vào cung thì ra lệnh cho Tiêu Vũ, Đậu Qủy và những người khác đóng cửa ngân khố, không lấy dù chỉ một đồng, để cho Ký Thất Phòng thu nhận sách vở cùng những bức tranh của triều đại nhà Tùy. Vì vậy, thuộc hạ của Vương Thế Sung là Đoàn Đạt và hơn năm mươi người đã thả tất cả những người bị giam cầm oan và truy điệu cho những người đã chết. Khi biết có sự thưởng phạt không thỏa đáng trong các tướng sỹ, Cao Tổ đã lệnh cho thượng thư Tả Phác xử trảm Bùi Tịch để làm yên lòng quân.

Tháng Sáu năm thứ 4 niên hiệu Nguyên Đức (năm 621), lúc khải hoàn trở về, Thái Tông mặc áo giáp vàng, bày xếp trận với 1 vạn con ngựa sắt, 3 vạn binh sỹ mang áo giáp, phía trước phía sau đoàn quân đều gõ trống thổi kèn, bắt sống Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức cùng các khí tài của nhà Tùy dâng lên Thái Miếu.

Trong chiến dịch quan trọng nhất của nhà Đường để thống nhất thiên hạ, đội quân áo giáp đen của Thái Tông chỉ dùng lực lượng 1000 kỵ binh mà đánh phá được quân địch hùng mạnh gấp nhiều lần. Trước Võ Lao Quan, Thái Tông lại sử dụng đội quân áo giáp đen làm tiên phong, thể hiện sức mạnh to lớn, 3000 thiết kỵ binh tiến thẳng vào trại địch, đánh bại hơn 10 vạn quân của Đậu Kiến Đức, bắt sống Đậu Kiến Đức và bức hàng Vương Thế Sung. Sự nghiệp thống nhất thiên hạ của Đại Đường vì đó mà được kiến lập. Vì những chiến công như thế nên Thái Tông được Đường Cao Tổ phong làm Thiên sách Thượng tướng quân, vị trí xếp trên các bậc vương được tấn phong. Tại thời điểm này, Thiên sách Thượng tướng quân là vị trí dưới Cao Tổ và gần như là chức vị Thái tử, điều này cho thấy Cao Tổ rất coi trọng Thái Tông.



Mười tám vị học sỹ


Năm Trinh Quán thứ mười hai (638 năm), Thái Tông Thiểm (nay là thuộc huyện Thiểm, Hà Nam ) và Lạc (Lạc Dương) thăm lại các địa danh xưa, gợi nhớ hiện tại và quá khứ, và viết nên kiệt tác bất hủ”Hoàn Thiểm thuật hoài” (cảm hoài khi trở về Thiểm Tây):

Phiên âm Hán Việt:

Khái nhiên phủ trường kiếm,
Tế thế khải yêu danh.
Tinh kỳ phân điện cử,
Nhật vũ túc thiên hành.
Biến dã truân vạn kỵ,
Lâm nguyên trú ngũ doanh.
Đăng sơn huy võ tiết,
Bối thủy tung thần binh.
Tại tích nhung qua động,
Kim lai vũ trụ bình.


Dịch nghĩa:

Bất đắc dĩ phải cầm thanh trường kiếm,
Cũng chỉ vì tế thế cứu dân chứ không phải vì danh vì lợi.
Cờ xí rợp trời chiến trường sóng gió,
Quân tình cấp bách tác phong dũng mãnh.
Khắp nơi đều có thiên binh vạn mã, quân doanh giăng kín nơi nơi.
Chiến trường như leo núi, binh pháp linh hoạt như thần.
Sự hy sinh của cuộc chiến xưa,
Nay mới được hòa bình thống nhất.


Vào lúc đất nước dần yên ổn, Thái Tông quyết tâm nghiên cứu kinh sách và mở một viện bảo tàng văn học để tiếp đãi học sỹ bốn phương. Hành Đài Tư Huân Lang Trung Đỗ Như Hố cùng mười tám vị học sỹ hay cùng Thái Tông đàm luận kinh sách thánh hiền, thường say mê thảo luận đến khuya mới nghỉ ngơi.

Xưa (các nước chư hầu trước thời Tây Hán), nước Sở coi trọng người tài đức, Sở Nguyên Vương coi trọng Thân Công và Mục Sinh. Vào thời Hán Cảnh Đế, Lương Hiếu Vương tiếp đãi kẻ sĩ, coi trọng đạo đức, càng trọng hơn những người có tài tranh biện, chẳng hạn như Trâu Dương và Mai Thừa. những quy phạm tiêu chuẩn mà người xưa để lại trong quá khứ có thể khiến người đời sau phải ngưỡng mộ. Vì trọng đức và tu dưỡng bản thân, khắp nơi đều thấy người hiền minh. Nghĩ nhớ đến người tài, muốn lưu giữ lại, tìm kiếm những trụ cột, cùng chung chí khí. Vì thế mà gửi gắm hy vọng sẽ thiết lập được sự chính quy và bù đắp những thiếu sót. Học tập không mệt mỏi giống như Học Cung thời Tề Tuyên Vương vậy, tổ chức yến tiệc giống như ở Hoàng Kim Đài ở nước Yên. Mười tám vị Đại học sỹ đến từ Giang Nam và Hà Bắc, chế định quy các quy phạm, các quy tắc, đề xướng văn phong (lối hành văn),cho các học sỹ ở quán này.

1606110801472669-300x447-1.jpg

Tác phẩm”tranh về hội văn”,”tranh mười tám vị học sỹ đời Đường” của Tống Huy Tông Triệu Cát, được sưu tầm bởi Bảo tàng cố Cung Quốc gia, Đài Bắc
Vào tháng 12 năm Vũ Đức thứ 4 (tức năm 621), tướng cũ của Đậu Kiến Đức là Lưu Hắc Thát khởi binh tạo phản, Thái Tông thống lĩnh toàn quân của mình thảo phạt về phía đông đánh ở Hà Bắc để đối phó với Lưu Hắc Thát, kẻ địch mạnh cuối cùng trong cuộc chiến thống nhất của nhà Đường. Vào tháng đầu tiên của năm thứ năm năm Vũ Đức (622). Thái Tông đầu tiên chia quân để cắt đứt con đường vận chuyển lương thực quân địch và hai bên đã cầm chân nhau trong hai tháng. Lưu Hắc Thát bị bức cho phải nóng lòng chiến đấu ngay, bèn dẫn 20 vạn bộ binh và kỵ binh áp sát.

Thái Tông đích thân dẫn đầu đội kỵ binh tinh nhuệ, đầu tiên đánh bại kỵ binh của địch, sau đó dùng thừa thắng xuất kích san bằng bộ binh của đối phương, quân địch tan rã và chặt đầu hơn 1 vạn người. Trước đó, Thái Tông đã cử người đắp đập để chặn thượng nguồn con sông và làm cho nước sông cạn xuống, để cho Lưu Hắc Thát có thể băng qua được sông. Đợi đến lúc tác chiến thật sự thì hạ lệnh đào đập,nước lớn đổ ào ạt, làm cho sông sâu hơn một trượng. Quân địch đã bị đánh bại, và khi tháo chạy vào giữa sông thì tất cả chúng đều bị nước nhấn chìm. Chỉ có Lưu Hắc Thát và hơn 200 kị binh chạy sang Đột Quyết, nhưng tất cả người của ông ta đều bị bắt, như thế Hà Bắc đã được bình định. Lúc bấy giờ, Từ Viên Lãng đóng quân ở Từ châu và Cổn châu, Thái Tông liền dẫn quân thảo phạt, như vậy các quận các ấp như vùng Hoàng Hà, Tế Thủy, Trường Giang, Hoài Thủy v.v… đều đã được bình định.

Vào mùa thu năm Vũ Đức thứ bảy (năm 624), Khả Hãn thứ hai của người Đột Quyết từ Nguyên Châu nổi lên, xâm nhiễu Quan Trung. Chuyện kể rằng Cao Tổ nói:”Chỉ vì quân Hồ thấy gia quyến thân thuộc cùng người làm trong phủ của chúng đều ở hết tại kinh đô, khi quân Đột Quyết đến, thiêu đốt, cướp phá khiến cho Trường An không còn là kinh đô nữa, như thế quân giặc Hồ mới tự dừng lại.”

Cao Tổ muốn dời đô để tránh quân Đột Quyết nên đã cử Trung thư thị lang Vũ Văn Sỹ Cập đi về núi phía nam nơi mà có thể ở được khảo sát, lập tức muốn dời đô về nơi đó. Tiêu Vũ và mọi người đều cho rằng không nên, tuy nhiên không ai dám can dán thẳng thừng. Nhưng Thái Tông trực tiếp khuyên Cao Tổ không nên dời đô, hãy cho Thái Tông một hai năm thời gian, nếu như không đánh bại được Kiết Lợi của Đột Quyết thì lúc đó hãy bàn việc dời đô.

(Thái Tông tự thuật nói:”Hoắc Khứ Bệnh, tướng quân của nhà Hán, có chí hướng quyết tâm tiêu diệt Hung Nô, khiến cho Hung nô phải xưng thần và trở thành nước phiên dậu cho nhà Hán, nay quân họ Hồ quấy nhiễu liên miên không dứt, bệ hạ lại muốn dời đô, việc này xin để thần đi giải quyết Hiệt Lợi, cho thần một hai năm thời gian, nếu không đánh bại được quân địch thì cứ theo kế sách mà dời đô cũng chưa muộn, thần không dám can gián”. Cao Tổ tức giận và sai Thái Tông đem hơn 30 kỵ binh đi tuần tra xem xét sạn đạo (đường nhỏ ven vách núi). Ngày hôm sau, Thái Tông lại dâng tấu xin đừng dời Đô, sau đó Cao Tổ đã nhận lời khuyên và không dời đô nữa.

7-2.jpg

Phòng Huyền Linh 1 trong 18 vị học sỹ
Long chủng thiên mã (những con ngựa trời ban mang dong giống như rồng)

Thái Tông biết xem ngựa, biết nhìn ngựa, ông có được thần tuấn mã trong các loài ngựa mà định thiên hạ. Thái Tông cực kỳ yêu thích chiến mã, và chúng đã nam chinh bắc chiến lập nên những chiến công bất hủ cho vương triều Đại Đường và đánh bại vô số kẻ địch. Thái Tông có bài thơ”Vịnh ẩm mã”:

“Tuấn cốt ẩm trường kinh, bôn lưu sái lạc anh; tế văn liên phún tụ, loạn hạnh nhiễu đề oanh. Thuỷ quang yên thượng trắc, mã ảnh lưu trung hoành; phiên tự thiên trì lý, đằng ba long chủng sinh.”

Dịch nghĩa: Bài vịnh về ngựa uống nước:”Chiến mã uống nước sông Kinh, Ngựa phi chạy làm cho nước vẩy lên quanh cả đàm cổ ngựa, kết tụ thành các đường viền nhỏ, cỏ hạnh um tùm vây quanh chân ngựa. Mước trong phản chiếu yên ngựa, hình ảnh ngựa tung hoành trong dòng nước; đảo qua đảo lại như đang ở trong thiên trì, ngựa phốc bay lên như con rồng vậy.”

Để tưởng nhớ con ngựa chiến đã từng cứu Thái Tông gặp nạn, Thái Tông cũng đã ra lệnh cho khắc “chiêu lăng lục tuấn” (6 con tuấn mã ở Chiêu Lăng): “Ngựa mà Trẫm đã cưỡi, nó đã cứu giúp trẫm khi gặp nạn, lấy đá khắc đúng hình dáng của ngựa, bày trí nó ở hai bên trái và phải, kéo bức màn để che đi ý nghĩa.” (“Sách phủ nguyên quy”, quyển 42). Vì vậy, thợ thủ công Diêm Lập Đức và họa gia Diêm Lập Bản đã dùng phù điêu để khắc họa 6 con chiến mã và đặt chúng ở phía đông và phía tây ở phía trước hai bên Chiêu Lăng. Họa gia huyền thoại Diêm Lập Bản đã phụng chỉ mà vẽ ra “lục tuấn đồ” (Bức tranh sáu con ngựa). Người thợ thủ công Diêm Lập Đức đã sử dụng nó như một bản thiết kế và chạm khắc nó như một bức phù điêu, được đặt ở phía đông và phía tây trước hai bên Chiêu Lăng.

Từ xưa đến nay, ngựa tốt đều có danh hiệu, có tên tuổi, sáu con ngựa được phân ra đặt tên là: Quyền mao qua, thập phạt xích, bạch đề ô, đặc lặc phiêu, thanh truy, táp lộ tử. Vào năm Trinh Quán thứ mười một, Thái Tông đích thân đã viết “Lục mã đồ tán” (tán tụng bức tranh 6 con ngựa). Trong các trận giao chiến khốc liệt của sáu con ngựa này, nhiều con bị trúng tên, bị thương nặng, chúng vẫn bảo vệ, cõng lấy Thái Tông và cuối cùng đã giúp Thái Tông chiến thắng kẻ thù.

Khi Đường Thái Tông dấy binh, bản đồ của hoàng đế được phác thảo ra, Hứa Lạc Nhân đã dâng tặng một con ngựa cho Thái Tông ở tại Võ Lao Quan (Hổ Lao Quan ), con ngựa có đầu màu đen và toàn thân màu vàng. Thái Tông thấy con ngựa của mình rất thần tốc, vì vậy bất cứ khi nào chỉ huy trận chiến, ông đều cưỡi con ngựa này. Thái Tông cho rằng “đây là con ngựa đứng đầu”, nó từng được gọi là “Lạc nhân qua”, và tên gọi của nó là “Quyền mao qua”. Khi Thái Tông cưỡi chú ngựa này đi bình định Lưu Hắc Thát, nó bị sáu mũi tên ở phía trước và hai mũi tên ở phía sau. Thái Tông đã khen ngợi và nói: “Nguyệt tinh án bí, thiên tứ hoành hành. Hồ thỉ tải tập, phân ai khuếch thanh.” đại ý nghĩa là sau khi chú ngựa trời này hiện diện, thì chiến loạn được dừng lại.

8-2.jpg

Hình ảnh phù điêu “Quyền mao qua” trong 6 con ngựa tại Chiêu Lăng, hiện nằm trong Bảo tàng Khảo cổ học và Nhân chủng học, Đại học Pennsylvania.
9-2.jpg

Bức tranh”quyền mao qua” trong “Chiêu Lăng lục tuấn đồ quyển” của Triệu Lâm” thời nhà Kim. Bên trái là Khu hành cung, do Bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh sưu tầm.
“Thập phạt xích” có màu đỏ tươi, là một con hãn huyết bảo mã (ngựa quý lông đỏ son), là con ngựa được Thái Tông cưỡi khi đi bình định Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức. Trong trận chiến đó nó bị trúng bốn mũi tên ở phía trước và một mũi tên ở phía sau. Thái Tông ca ngợi nói: “Triển giản vị tĩnh, phủ việt thân uy, chu hán sính túc, thanh tinh khải quy”. Đại ý nghĩa là bên cạnh dấu chân ngựa lưu lại mồ hôi màu đỏ tươi, cùng với cờ xí màu xanh ca khúc khải hoàn trở về.

11-2.jpg

Bức tranh “Thập phạt xích” được miêu tả trong “Chiêu lăng lục tuấn đồ quyển” của Triệu Lâm thời nhà Kim, được sưu tầm bởi Bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh.
“Bạch đề ô” màu đen tuyền, bốn móng của nó màu trắng, nó đã được Thái Tông cưỡi khi đi bình định Tiết Nhân Cảo, lúc đó Thái Tông đã cưỡi con “Bạch đề ô” mà đột kích xuyên đêm, khiến cho Tiết Nhân Cảo không thể vào thành để cố thủ, sau đó Tiết Nhân Cảo buộc phải đầu hàng. Thái Tông khen ngợi và nói: “Ỷ thiên trường kiếm, truy phong tuấn túc. Tổng bí bình lũng, hồi yên định thục.” Ý là đem truy phong tuấn mã (nhanh như gió) so sánh với thanh binh khí ỷ thiên trường kiếm. Con ngựa này theo Thái Tông chiến đấu ở Lũng Tây đến Tứ Xuyên, và đắc được chiến thắng thần tốc.

12-1.jpg

Bức tranh “Bạch đề ô” trong “Chiêu Lăng lúc tuấn đồ quyển” của Triệu Lâm thời nhà Kim. Bên trái là Khâu Hành Cung, do Bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh sưu tầm.
Đặc Lặc Phiêu, với bộ lông màu trắng vàng và cái miệng màu đen, được Hoàng đế Thái Tông cưỡi khi đi bình định Tống Kim Cang. Tống Kim Cang có một đội quân rất tinh nhuệ, và dàn quân trận dài bảy dặm từ phía bắc đến phía nam. Thái Tông đã cùng chú ngựa này của mình đích thân xông trận, toàn quân của họ Tống kia đại bại tan tác, qua trận này Thái Tông đã ca ngợi nói: “ứng sách đằng không, thừa thanh bán hán, nhập hiểm thôi địch, thừa nguy tế nạn”,ý nghĩa là khí thế của con ngựa này như bay lên không trung với mọi thứ thế oai dũng, ra vào chổ hiểm đẩy lùi quân địch, hùng dũng trợ giúp trong lúc nguy nan.
 
“Thanh truy mã” là con ngựa mang màu xanh trắng, Thái Tông đã cưỡi con ngựa “Thanh truy mã” này, tự mình dẫn quân tiên phong lao vào chiến tuyến của kẻ thù, một phát bắt được Đậu Kiến Đức, trong trận đó “Thanh truy” trúng năm mũi tên. Thái Tông đã khen ngợi và nói: “Túc khinh điện ảnh, thần phát thiên cơ. Sách tư phi luyện, định ngã nhung y.” Có thể thấy rằng dáng người của chú ngựa này mạnh mẽ như đang bay và hình ảnh phi nước đại trong trận chiến thật oai phong. Chiến thắng ở Võ Lao Quan đã giúp Đại Đường giành thắng lợi trong cuộc chiến thống nhất trong những năm đầu.

Cái tên “Táp lộ tử” bắt nguồn từ ngôn ngữ Đột Quyết, nó được dịch sang tiếng Hán là “Sa bát lược” và “Thủy ba la” nó có nghĩa là dũng cảm và mạnh mẽ, và đó là danh hiệu của Khan Hãn của người Đột Quyết. Tên thật là ngựa chiến màu tím của Dũng Kiện Khả Hãn. Khi Thái Tông đánh nhau ác liệt với Vương Thế Sung, con ngựa này thân trong mưa tên mà trúng tên, sau đó Khâu Hành Cung đã rút mũi tên cho nó và con ngựa bị chết mất. Thái Tông khen ngợi chú ngựa này và nói: “Tử yến siêu dược, cốt đằng thần tuấn, khí triệp tam xuyên, uy lăng bát trận.” Khí thế thần thái của chú ngựa này quả là có được sức sống ngoan cường.

Mối họa từ trong Vương tộc

Vào năm Đại Nghiệp thứ 13 (năm 617), Thái Tông mưu lược cùng Lý Uyên đã khởi binh. Lý Uyên từng nói với Thái Tông rằng: “Đại nghiệp thành công như hôm nay, tất cả thiên hạ này đều là do con giành được, vì thế nên lập con làm Thái Tử.” Thái Tông một mực bái tạ chối từ.

Sau khi Cao tổ đăng cơ rồi, vẫn luôn muốn lập Thái Tông làm Thái tử. Thái Tông kiên quyết từ chối không nhận mà bẩm rằng: “Trưởng ấu có thứ tự, quốc gia có quy củ, đây là cái lý xưa nay không đổi. Hơn nữa trên có huynh trưởng, Thế Dân sao dám nhận! Lý Thế Dân bèn nhường huynh trưởng lập làm Đông cung.” Cao tổ liền phong con trưởng là Lý Kiến Thành làm Thái Tử, con thứ Lý Thế Dân được lập làm Tần Vương, người con trai thứ 4 là Lý Nguyên Cát được lập làm Tề Vương. Tước phong của Thái Tông là cao đến không còn gì cấp phong được nữa, Cao Tổ đã sáng tạo ra một danh xưng xưa nay chưa từng có đó là tước hiệu “Thiên Sách thượng tướng”, vị trí này là ở trên các Vương, nắm toàn bộ binh quyền.

“Tất cả thiên hạ của Cao Tổ, đều là công lao của Thái Tông.” (Tư trị thông giám). Lúc công lao sự nghiệp của Thế Dân ngày càng hưng thịnh, Cao Tổ đã hứa riêng với Thái Tông là sẽ lập ông làm Thái tử, Kiến Thành biết được bí mật này, y đã cùng Tề vương Lý Nguyên Cát âm mưu làm loạn.” (trích trong Cựu Đường Thư ‧ Cao tổ nhị thập nhị tử truyện)

1b-1.jpg

Vương Song Khoan vẽ “tấm gương về Trăm vị Anh Hùng” Đường Thái Tông Lý Thế Dân
Con người Lý Nguyên Cát, tướng mạo xấu xí, tính tình tàn ác. Lúc mới được sinh ra, mẫu thân là Thái Mục hoàng hậu rất ghét vẻ bề ngoài của y nên không muốn nuôi dưỡng. Lúc đó bà hầu gái là Trần Thiện Ý tự muốn nuôi dưỡng y, vì thế Nguyên Cát tránh được chết yểu. Khi lớn lên, Nguyên Cát trở thành một con người hung tàn, sống cuộc sống xa hoa dâm dật. Thường lấy nô bộc, cùng các thê thiếp, và binh lính mặc áo giáp giao chiến với nhau làm trò tiêu khiển, đánh đấm lẫn nhau, khiến cho nhiều người tử thương. Sau đó có lần Nguyên Cát đích thân tham gia trò chơi thì bị đâm trọng thương, Nguyên Cát định giết sạch đám người tiêu khiển đó, bà hầu gái Trần Thiện Ý ngăn y lại khuyên không nên giết người vô cớ. Năm Vũ Đức thứ 2 (năm 619), Lưu Vũ Chu tiến sát Tịnh Châu. Nguyên Cát lấy làm sợ hãi, y đã nói với Tư Mã Lưu Đức Uy rằng: “Khanh đem những binh lính già yếu giữ lấy thành, ta đem những binh lính trẻ khỏe đi nghênh chiến, vì xuất quân vào ban đêm, nên y mang theo thê thiếp của y rồi vứt bỏ quân lính mà trốn chạy về kinh sư, Tịnh Châu bị rơi vào tay địch. (Cựu Đường Thư ‧ Cao tổ nhị thập nhị tử truyện)

Con người Lý Kiến Thành, thường hay kể công mỗi khi lập được chút công lao gì đó, tính tình lười nhác nhưng lại hay đa nghi, tham luyến tửu sắc. “Vương Khuê và Ngụy Trưng từng nói với Kiến Thành rằng: “Điện hạ vì có địa vị là con trưởng, thích làm theo ý mình mà không e dè hậu quả, công lao có đủ nhưng đừng hay đi kể lể, tiếng tăm về nhân đức còn chưa được truyền xa. Ngược lại Tần Vương lại có công lao nổi trội, uy chấn tứ hải, lòng người đều hướng về, điện hạ làm sao yên được đây?” (Cựu Đường Thư Ẩn Thái tử Kiến Thành truyện)

Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát hay hối lộ các Phi Tử của Cao Tổ, cũng có tư thông với một số phi tử. Khi Thái Tông bình định đông đô, có phi tử muốn xin Thái Tông lấy các bảo vật trong cung nhà Tùy, lại còn thường hay mua quan bán tước cho họ hàng thân thích của mình, những việc làm đó đều bị Thái Tông cự tuyệt hết. Thái Tông đã biểu thị rằng: “Tất cả bảo vật đều đã thu giữ, để dâng lên Cao Tổ, còn các chức quan tương ứng thì giao cho những người có năng lực đảm nhiệm. “Nhóm sủng phi của Cao Tổ rất oán hận đối với Thái Tông, thường ở trước mặt Cao Tổ nói những điều tốt có lợi cho Thái tử và Nguyên Cát, còn đối với Thái Tông thì hay buông lời công kích và gièm pha.

Lòng đố kị đến nỗi cuồng loạn

Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát sinh lòng đố kỵ, muốn dùng trăm phương ngàn kế để trừ khử Thái Tông.
lg.php


Có một lần, Thái Tông theo Cao Tổ đi đến phủ của Nguyên Cát, Nguyên Cát đã lệnh cho tướng hộ vệ là Vũ Văn Bảo mai phục trong phòng, tùy thời để hành thích Tần Vương. Nhưng khi ấy Lý Kiến Thành lo rằng có Phụ Hoàng cùng đi, nên khó mà thành công được, bèn ngăn Nguyên Cát lại.

Đô đốc Dương Văn Cán của Khánh Châu đã bị Kiến Thành mua chuộc, hai anh em Kiến Thành và Nguyên Cát tự mình chiêu mộ các dũng sĩ. Kiến Thành sai Sử Lang tướng Nhĩ Thất Hoán cùng Hiệu Úy Kiều Công Sơn trợ giúp Dương Văn Cán khởi binh. Hai người đó đã rất sợ hãi, và tố giác việc Thái tử mưu phản với Cao Tổ. Cao Tổ giận dữ, muốn đem Kiến Thành giáng xuống làm Thục Vương. Sau đó nhờ Nguyên Cát cùng các phi tần trong cung cầu xin, Kiến Thành mới được miễn tội và được trở lại kinh thành.
 
Vào một đêm nọ, Kiến Thành đã thiết đãi yến tiệc mời Thái Tông tham dự, đã chuẩn bị sẵn rượu độc. Thái Tông đã uống mấy ly, đột nhiên cảm giác đau trong tim, rồi thổ huyết khá nhiều. Hoài An Vương Lý Thần Thông đã nhanh chóng đỡ Thái Tông về Tây Cung, đại nạn lần này Thái Tông vẫn không chết.

Khi Thái Tông bị thổ huyết, Cao Tổ muốn để Thái Tông lánh về Lạc Dương, Cao Tổ nói rằng: “Thế Dân tài giỏi thao lược, bình định thiên hạ, tất cả đều là công lao của con. Ta muốn lập con kế thừa ngôi vị, nhưng con kiên quyết từ chối. Còn Kiến Thành thì đã trưởng thành, đã được lập làm Thái Tử kế vị cũng lâu rồi, nay ta không đành lòng phế truất nó. Xem ra huynh đệ các con hình như không thể dung hòa được, nếu cùng sinh sống ở Kinh Thành, e rằng sẽ xảy ra chuyện lộn xộn không ngớt, Nay ta để Thế Dân đi về Lạc Dương, sẽ làm Vương tại vùng đất phía đông Thiểm Tây.”

Kiến Thành cùng Nguyên Cát bí mật bàn bạc với nhau: “Nếu Tần Vương đến Lạc Dương, rồi có đất đai địa bàn binh lính đầy đủ, như vậy e rằng về sau khó có thể khắc chế được; chi bằng hãy để hắn ở lại Trường An,thì một phát có thể trừ khử hắn dễ dàng hơn rồi.” Về sau đúng là Cao tổ thay đổi chủ ý. Và Thái Tông bị bức bách không biết phải như thế nào mới được ổn, cuối cùng việc đi Lạc Dương không thành.

Cao tổ chuẩn bị kế hoạch đi săn ở phía nam kinh thành, lệnh cho 3 con trai trong lần đi săn này thử thi thố tài năng xem ra sao. Kiến Thành có một con ngựa bất kham của người Hồ (Hồ mã), chú ngựa này rất to béo khỏe khoắn, nhưng tính khí thất thường khó để thuần phục, Kiến Thành cố ý tặng cho Thái Tông và nói: “Nhị đệ giỏi về cưỡi ngựa, cưỡi nó thử một lần xem sao.” Trong lúc đi săn khi Thái Tông đang trên đà truy đuổi một con hươu hoang, ngựa Hồ bỗng nhiên nhảy xốc lên khiến Thái Tông suýt té ngã, nhưng may Thái Tông quay người lại, vững vàng mà nhảy xuống đứng vững bên đường; ngựa Hồ dừng lại, sau đó Thái Tông lại một lần nữa cưỡi lên ngựa mà đi tiếp, liên tục bị ba lần như thế. Thái Tông nghĩ: “Hắn dự trù mượn con ngựa Hồ này để hại ta, nhưng mà con người ta sống chết có số cả rồi, chỉ dựa vào bọn họ mà có thể làm hại được ta sao?”

Lý Kiến Thành xúi giục Phi Tần của Cao Tổ hãm hại Lý Thế Dân rằng: “Tần Vương tự xưng là, ta đây tiếp thụ thiên mệnh, chính là sẽ làm chúa tể của thiên hạ.” Cao Tổ nghe vậy bèn vô cùng giận dữ, lúc trước mặt có Kiến Thành và Nguyên Cát đã trách cứ Thái Tông rằng: “Ngươi có lòng mưu cầu đế vị vội vàng như vậy sao”. Thái Tông bèn lột mũ xuống (Vương mão), rồi quỳ xuống đất dập đầu với Cao Tổ, xin đem bản thân mình giao phó cho quan phủ chấp pháp điều tra kiểm chứng. Vừa hay có tấu báo lên rằng quân Đột Quyết đang tấn công xâm lược, Cao Tổ bèn vội chuyển qua cùng Thái Tông bàn cách đối phó với quân xâm lược Đột Quyết nên không truy cứu chuyện đó nữa.

Cao Tổ đến Thái Hòa Cung nghỉ mát, Thái Tông và Nguyên Cát đi cùng. Nguyên Cát nói với Kiến Thành rằng: “Chờ đệ đến Thái Hòa Cung rồi, liền phái các lính tinh nhuệ bắt hắn lại. Đem hắn nhốt vào hầm không cho ra ngoài, chỉ mở một cái cửa hầm để đưa đồ ăn thôi.”

Quân Đột Quyết tiến vào chiếm giữ bờ nam sông Hoàng Hà,vây đánh Ô Thành. Lý Kiến Thành tiến cử Lý Nguyên Cát thay mặt Thái Tông dẫn quân bắc phạt, lệnh cho các mãnh tướng như Tần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, Trình Tri Tiết, Đoàn Chí Huyền cùng các tướng lĩnh khác của phủ Tần Vương quy về Nguyên Cát thống lĩnh, chọn lựa các tinh binh cùng tướng giỏi ở phủ Tần Vương xung hết về phủ Tề Vương. Người có trí mưu tài lược của Phủ Tần Vương là Phòng Huyền Linh cùng Đỗ Như Hối, đã bị Kiến Thành cùng Nguyên Cát vu khống hãm hại và bị đuổi đi.

Võ tướng Uất Trì Cung dũng mãnh thiện chiến nhất, Lý Kiến Thành đưa đi một xe vàng bạc hòng tặng cho Uất Trì Cung để mua chuộc nhưng Uất Trì Cung từ chối không nhận. Sau đó Lý Nguyên Cát bèn sai người đi hành thích, thích khách không dám đi. Nguyên Cát bèn dùng cách khác vu khống hãm hại Uất Trì Cung, khi Uất Trì Cung sắp bị giết, lúc đó Thái Tông đã lấy tính mạng của mình ra bảo đảm nên Uất Trì Cung được may mắn thoát chết. Nguyên Cát dùng vàng bạc gấm vóc dẫn dụ Hữu Nhị Hộ Quân – Đoàn Chí Huyền, Đoàn Chí Huyền không nhận. Sau đó Nguyên Cát còn vu khống hãm hại tổng quản Tả Nhất Mã Quân – Trình Trí Tiết, nhưng Cao Tổ lại tha tội và cho Trình Trí Tiết đi làm Thứ sử ở Khang Châu.

Trước tình hình như thế khiến cho các quan nhân trong phủ Tần Vương đều tỏ ra sợ hãi. Khi ấy Phòng Huyền Linh cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ thương lượng bàn bạc với nhau rằng: “Hận thù đã hình thành, một khi mối họa bộc phát ra, phủ Tần Vương không thể vãn hồi nỗi, sự tồn vong của xã tắc đã trở thành vấn đề lớn rồi. Và đi thuyết phục Tần Vương tiếp nhận sách lược và hành động bình định và nắm giữ binh quyền như Chu Công và Thái Thúc năm xưa, để an định nội bộ Hoàng Thất và quốc gia. Thời khắc này đây chính là cốt lõi cho sự tồn vong, tình thế hiện tại nguy cấp vô cùng!”

Nguyên Cát thỉnh cầu Cao Tổ diệt trừ Thái Tông, Cao Tổ nói: “Tần Vương có công lao cực kỳ to lớn trong việc bình định thiên hạ, không có biểu lộ ra tội trạng gì, nếu như muốn giết nó, thì dựa vào lý do gì?” Nguyên Cát nói: “Tần Vương thường xuyên chống lại chiếu lệnh. Lúc vừa mới bình định Lạc Dương, kiêu căng ngạo mạn thỏa thuê đắc chí, không muốn tranh thủ thời gian hồi kinh bẩm báo, tự ý ban thưởng tiền tài và vật phẩm thu được, tự mình dựng lập ân đức cá nhân. Vi phạm, chống đối đã đến mức độ như này rồi, chẳng lẽ như thế còn chưa phải phản nghịch sao? Lý Nguyên Cát một mực mong muốn nhanh chóng giết chết Tần Vương, không buồn đến lý do gì hết! Lúc ấy Cao Tổ im lặng không nói gì.

Kiến Thành nói với Nguyên Cát rằng: “Nay chúng ta đã đoạt hết binh lính tinh nhuệ của Tần Vương, đệ đệ đã thống lĩnh mấy vạn quân rồi, khi ta cùng Tần Vương đến hồ Côn Minh, nhân lúc thiết đãi yến tiệc tiễn biệt đệ đệ, thì chúng ta lập tức mệnh lệnh các dũng sĩ bắt hắn giết đi, rồi loan tin báo rằng Tần Vương vì bạo bệnh nên qua đời đột ngột, khi ấy Phụ Hoàng sẽ không thể không tin.”

Thời khắc soán vị sắp đến, Lý Kiến Thành nói với Lý Nguyên Cát rằng, “Ta lại phái người khuyên nói với Phụ Hoàng, muốn ông ấy đem triều chính giao hết cho ta. Sau khi đăng cơ, lập tức phong cho đệ làm Hoàng Thái đệ. Và đám người Uất Trì Kính Đức đã rơi vào trong tay đệ, đến lúc đó muốn chôn sống bọn chúng hay làm gì tùy đệ xử lý.” Nhưng Lý Nguyên Cát tự bản thân hắn lại càng có tính toán thâm sâu hơn: “Chỉ cần diệt trừ Tần Vương xong, thì việc cướp đoạt ngôi vị Thái Tử lại dễ dàng như trở bàn tay.”

Thừa Vương Chí nghe được âm mưu này, bèn mật báo với Thái Tông, làm cho Thái Tông may mắn tránh khỏi được độc thủ của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát.

Sự biến Huyền Vũ môn

Vào thời khắc sinh mệnh đang trên đà gặp hiểm nguy, Thái Tông thở dài mà rằng: “Cốt nhục tương tàn, là chuyện đại ác từ xưa nay! Ta đã biết cái mối họa này không sớm thì muộn cũng sẽ xảy ra, để nó tự bộc phát, sau đó sử dụng chính nghĩa để đánh lại nó, cũng chỉ đành như vậy thôi chứ không còn cách nào khác sao? Nếu như có con đường khác, tuyệt đối ta không chọn con đường này”.

Thái Tông do dự không quyết định, mọi người trên dưới trong phủ đồng lòng kiến nghị với Thái Tông: “Tề vương vốn không cam lòng ở dưới ngôi vị Thái tử, âm mưu phản loạn còn chưa thành công, đã có lòng muốn diệt trừ Thái tử. Tề vương này lòng tham không đáy, tâm địa ác độc, ra tay tàn bạo , không có việc gì là không dám làm. Nếu như hai người bọn họ mà được đắc thắng, e rằng thiên hạ này cũng không còn thuộc về Đại Đường nữa!”

Điều phải làm để “An xã tắc”:

  • Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát không dung Thái Tông, ngay cả Thái Tông muốn tránh về Lạc Dương, vĩnh viễn không tranh giành gì với họ nhưng họ cũng không cho phép, muốn đẩy Thái Tông đến tử địa rồi mới thấy được yên tâm.
  • Nếu như Thái Tông bị chúng tiêu diệt rồi, Nguyên Cát tất sẽ giết chết Kiến Thành mà tự lập ngôi vị.
  • Nguyên Cát là kẻ tiểu nhân, vô đức vô năng, lại có tâm đố kỵ người tài, nếu để thiên hạ rơi vào tay y, quốc chính tất loạn.
  • Khắp nơi Chư hầu chinh chiến còn chưa được nghỉ ngơi, quốc gia còn đang khó khăn, bách tính đang lầm than cơ cực, bọn ngoại tộc đang lăm le nhìn mà thèm thuồng như muốn nuốt chửng trung nguyên .
  • Trùng hợp thay mấy vạn kỵ binh quân Đột Quyết đang đồn trú phía Nam sông Hoàng Hà, bao vây Ô Thành, nếu như trong triều không có người gánh vác được trọng trách, sớm muộn Đại Đường sẽ nguy cơ.
  • Thiên hạ khói lửa, chiến loạn lại tái khởi phát, bách tính sẽ lầm than khốn cùng thay.
  • Lấy võ công an định quốc gia, khai sáng thiên triều thịnh thế, ngoài Thái Tông ra còn ai nữa đây?
Chúng tướng lĩnh trên dười đồng lòng khuyên Thái Tông rằng: “Đại vương, Ngu Thuấn là người như thế nào?”

Thái Tông trả lời: “Trí tuệ thâm thúy, tài hoa hơn người, ôn hòa khiêm cung, công chính thành thật, là một người con trai hiếu thuận, là một quân chủ thánh minh”.

Chúng tướng lĩnh thuộc hạ lại hỏi: “Nếu Thuấn Đế lúc khơi thông đào giếng nước mà không tránh thoát khỏi độc thủ lấy đất lấp giếng chôn Thuấn Đế của phụ thân và đệ đệ của ông, thì Thuấn Đế đã biến thành bùn đất trong giếng rồi; Nếu khi Thuấn Đế đang ở kho thóc bị phụ thân cùng đệ đệ ra tay phóng hỏa mà không thoát được, thì cũng đã hóa thành tro tàn cùng với kho lúa, làm sao trở thành Thánh Quân về sau này, đem ân trạch của mình ban khắp thiên hạ cho được, lưu truyền chuẩn tắc cho hậu thế ? Thuấn Đế bị phụ thân dùng roi nhỏ đánh thì cố gắng chịu đựng, nhưng bị đánh bằng gậy to liền bỏ chạy, là bởi vì trong lòng Thuấn Đế suy nghĩ đều là đại sự!”.

“Trời đã ban cho mà không lấy, ngược lại sẽ bị tai họa trừng phạt. Thời đến mà không hành theo, ngược lại phải chịu tai ương”. Trải qua nhiều lần nhường nhịn, đến tận thời khắc này không thể nhẫn nhịn được nữa, Thái Tông quyết định thuận theo thiên ý mà hành động, uy nghiêm đường đường chính chính mà xuất thủ, không khoanh tay chịu chết. Đây mới thật sự là vì đại nghĩa”.


Ngày Đinh Tỵ mùng 1 tháng 6 năm Vũ Đức thứ 9 (tức ngày 29 tháng 6 năm 626), Thái Bạch Kim Tinh xuất hiện vào giờ Ngọ vị trí phương hướng chính Nam. Chưa hết ngày mùng 3 tháng 6 (tức ngày 1 tháng 7 năm 626), Thái Bạch Kim Tinh một lần nữa xuất hiện vào giờ Ngọ vị trí phương hướng chính Nam. Từ xưa cổ nhân đều biết đây là chỉ điềm báo “Hoàng quyền sẽ thay đổi”.

Phó Dịch mật tấu với Đường Cao Tổ: “Thái Bạch đang nằm ở vị trí địa phận của Tần vương, như vậy Tần Vương sẽ có được thiên hạ”.

Cao Tổ đem mật tấu nói chuyện với Thái Tông. Thái Tông bèn bẩm báo tình hình dâm loạn hậu cung của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát cho Cao Tổ , lại nói: “Thần không có một chút nào phụ các huynh đệ, nay họ lại muốn giết thần, họ đối xử với thần như kẻ địch vậy. Nay lỡ thần chết uổng mạng, âm hồn có xuống được suối vàng, sẽ hổ thẹn khi gặp lại bọn gian tặc!”

Phi tử Trương Tiệp Dư của Cao Tổ trộm biết được ý của Thái Tông, bèn cấp tốc báo cho Kiến Thành. Kiến Thành đã triệu Nguyên Cát âm mưu giết hại Thái Tông, Nguyên Cát nói: “Cho binh lính chuẩn bị mọi thứ ở trong cung phủ, rồi mượn cớ ốm bệnh không lên triều được, để xem tình thế như thế nào”.

Kiến Thành nói: “Quân binh đã chuẩn bị xong xuôi, đang đợi đệ cùng tham gia, dò hỏi tin tức”. (Trích trong quyển thứ 191, Tư trị thông giám)
 
Ngày Canh Thân tức mùng 4 tháng 6 năm Đường Vũ Đức thứ 9 (ngày 2 tháng 7 năm 626), Kiến Thành cùng Nguyên Cát sáng sớm đã phái bốn, năm trăm binh sĩ mai phục tại Huyền Vũ môn. Thái Tông gọi Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Uất Trì Cung mang theo một đội tinh binh đi cùng. Thái Tông cùng một đoàn người vừa đi vào, Nguyên Cát giương cung lắp tên bắn về phía Thái Tông trước, nhưng bắn không trúng. Sau đó hai người Kiến Thành, Nguyên Cát liền tiếp tục nhắm về hướng Thái Tông bắn ba mũi tên, Thái Tông sớm đã có phòng bị, trước khi đến đây thì đã mang sẵn áo giáp trên người rồi, nên không bị bắn thương. Trong hỗn loạn như thế, Tần Quỳnh đã nhắm bắn trả lại một tên, mũi tên đó bắn trúng khiến Kiến Thành mất mạng. Nguyên Cát thấy tình thế thất thủ muốn chạy trốn, liền bị Uất Trì Kính Đức một tiễn bắn chết tại chỗ. Đây chính là “Sự biến Huyền Vũ môn” mà lịch sử đã có đề cập đến.

Sau khi bình định xong trận kịch chiến Huyền Vũ môn, Tể tướng Tiêu Vũ cùng quần thần trong triều bẩm tấu với Cao Tổ rằng: “Kiến Thành, Nguyên Cát trước nay không có công lao gì, hai người bọn họ mang tâm đố kỵ với Tần Vương, bọn họ đã sử dụng gian kế với Tần Vương. Hiện tại Tần Vương đã đem bọn họ tiêu diệt rồi, đây là chuyện tốt. Bệ hạ về sau có thể an tâm đem các việc của quốc gia đại sự truyền lại cho Tần Vương”.

Cao tổ nói: “Chuyện đem Đế vị truyền cho Tần Vương, đó chính là tâm nguyện xưa nay của ta rồi”. Lúc ấy Thái Tông nằm vào trong lòng Cao Tổ, khóc lớn một hồi lâu.

Sách sử ghi chép

“Hoàng thái tử Kiến Thành, thân là đích trưởng, vị trí cao chỉ đứng thứ hai sau Hoàng Đế, nhưng hành động lỗ mãng, tính tình hiếu thắng và rất là hà khắc. Thích gần gũi với bọn tiểu nhân, nghe theo lời tà mưu, vứt bỏ thân nhân, ngăn cách với cốt nhục, mưu đồ nghịch tặc, là một người bất hiếu. Tư Đồ Tề Vương Nguyên Cát, thân mang trọng trách, mà không biết suy nghĩ, ăn bổng lộc không ít, chức vị không nhẹ. Nhưng lại làm trái thiên kinh địa nghĩa, hiệp trợ với kẻ đầu sỏ, giúp Kiến Thành hành ác, xúi giục phản loạn, tâm địa đại nghịch bất đạo, nay đã bại lộ. Tội ác của hai người bọn họ vô số, gây họa không ngừng, sớm muộn sẽ bị bắt”. (Trích trong Chiếu xá việc tiêu diệt Kiến Thành, Nguyên Cát – quyển 1 bộ thứ nhất Toàn Đường văn)

“Vua Thuấn không thể nhân từ đối với bốn loại tội trạng, vua Nghiêu không thể dạy dỗ được Đan Chu, nhưng không phải vì thế mà cái chí dũng của họ không có. Trong những năm Thần Nghiêu (danh xưng chỉ Đường Cao Tổ – Lý Uyên ) bị bọn xấu vu oan, những tháng ngày bị Kiến Thành ghen ghét công lao với Thái Tông, nhưng Thái Tông đã vượt qua được những bức bách đó, ai quan tâm đến sự sụp đổ của vương triều, hay sự thịnh vượng của quốc gia, không có thời gian để cho phép những việc vô bổ nữa, và nỗi sợ “huynh đệ tương tàn”. (Trích trong Cựu Đường Thư ‧ Thái Tông bản kỷ)

“Tây Bá hầu Cơ Xương khai sáng nhà Chu, nhà Chu đã xuất hiện ba bậc thánh vương. Dùng văn công mà bình thiên hạ, bằng hữu khắp thiên hạ vậy. Tru diệt nghịch tặc Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ mà nhà Chu có chính đạo thời Thành Vương và Khang Vương. Thịnh thế của thời Trinh Quán, đến nay vẫn mãi được ngợi ca”. (Trích trong Cựu Đường Thư – Thái Tông bản kỷ)

“Kiến Thành là một con người tàn nhẫn, không có tài cán để làm chủ quản quốc gia đại sự; Nguyên Cát tính tình hung ác, điên cuồng, sẽ khiến tan cửa nát nhà. Nếu không phải Thế Dân anh minh quyết đoán, tích lũy công đức, thì dựa vào đâu để dựng nên 300 năm cơ nghiệp triều Đường, với 20 mấy đời vua ? Hoặc giả nếu cứ chăm chăm xét các tiểu tiết, tất sẽ lỡ mất việc lớn, hãy xem bài học của Tần Nhị Thế và Tùy Dưỡng Đế thì không kịp nữa rồi”. (Trích trong Cựu Đường Thư – Cao tổ nhị thập nhị tử truyện)

“Kiến Thành, Nguyên Cát, quả thực là hai tên hung ác. Cấu kết bè phái bên trong bên ngoài, những hành vi đó khiến người và thần không dung. Nhưng khi tối tăm đến cùng thì ánh sáng sẽ xuất hiện, khi nỗi lo ưu cận kề thì Thánh vương xuất lai.Vận mệnh trời ban thuộc về Văn Hoàng (tức chỉ Thái Tông), công đã thành và giữ gìn được chính đạo. Thiện ác đã phân, xã tắc an định”. (Trích Cựu Đường Thư ‧ Cao tổ nhị thập nhị tử truyện)
“Cổ Công bỏ con trưởng Thái Bá, lập Quý Lịch làm Thái tử; Văn Vương bỏ con trưởng Bá Ấp Khảo, lập Võ Vương làm Thái tử. Như vậy có sai không? Nếu như chọn đúng người hiền, ví dụ với người hiền đại công đại đức to lớn như Thái Tông đây, trên hợp ý trời dưới hợp ý đất, thật chẳng khác nào như sự minh trí của Cổ Công và Văn Vương năm xưa vậy, dù người ngốc nghếch đến đâu, cũng biết rõ là Thái Tông nên có được thiên hạ. Cao Tổ có nghi ngờ về mối họa trong vương tộc nhưng không xem xét được thấu triệt, không để ý! Vì thế dẫn đến sự việc Kiến Thành, Nguyên Cát mưu hại Thái Tông, sau đó Thái Tông vận dụng kế sách vừa qua là do cực chẳng đã, là vạn bất đắc dĩ, thực sự mà nói nếu bàn dân thiên hạ đều đứng ở vị trí của Thái Tông thì họ cũng sẽ hành động như Thái Tông, việc này so với việc nghĩa Chu Công tru diệt Quản Thúc Tiên, Thái Thúc Độ, thật sự cũng tương tự nhau vậy”. (Trích trong Thiệu thị văn kiến lục – Tống Thiệu Bá Ôn)

Sáng Thế Chủ đã an bài Đại Đường thịnh thế trở thành đỉnh cao của văn hóa Trung Hoa, tất nhiên cũng sẽ an bài sắp xếp những nhân tố giúp sức để an định thiên hạ, trừ tà ác, diệt bạo loạn.

Trinh Quán năm thứ 14, Thái Tông nói với Phòng Huyền Linh rằng: “Không biết từ xưa đến nay về việc lịch sử của quốc gia, vì sao không để cho Hoàng Đế được xem qua?”

Phòng Huyền Linh đáp rằng: “Lịch sử của quốc gia là ghi chép đồng thời một cách khách quan cả các việc thiện lẫn việc ác, có nhiều người, nhiều vị quân vương làm những chuyện phi pháp. Vì e sợ các việc làm sai trái của mình bị ghi chép truyền lại cho hậu nhân nên xóa đi các ghi chép sự thật sự kiện về mình, vì vậy người đời sau sẽ không thể thấy được”.

Lý Thế Dân nói: “Ý của Trẫm khác với người xưa. Nay muốn tự mình xem qua lịch sử quốc gia, nếu là việc thiện, cũng sẽ không cần phải bàn luận gì nữa. Nhưng nếu có việc bất thiện, cũng muốn coi xem để lấy bài học giáo huấn mà răn đe bản thân, để tự mình tu sửa. Khanh hãy làm bổn phận viết đúng sự thật lịch sử của khanh”.

Thái Tông nhìn thấy Sự biến Huyền Vũ môn ngày 4 tháng 6, ghi chép không nhiều và viết có né tránh, bèn nói với Phòng Huyền Linh rằng: “Xưa kia Chu Công tru diệt Quản Thúc Tiên, Sái Thúc Độ mà khiến nhà Chu được yên ổn, Qúy Hữu dùng rượu độc giết chết Thúc Nha mà làm cho nước Lỗ được an định. Nay những việc Trẫm đã làm, nghĩa cử đó cũng giống với việc làm của người xưa, xây dựng nên sự an định cho xã tắc, làm lợi cho muôn dân bách tính. Việc Sử quan chấp bút, có gì viết nấy không cần che giấu? Nên cắt bỏ những từ ngữ nói quá hoặc không đúng sự thật, hãy viết đúng sự thật của sự việc”.

Quan Thị Trung là Ngụy Trưng tấu rằng: “Thần nghe nói rằng người ở vị trí chí tôn vô cực, không cần lo sợ điều gì. Có sử của quốc gia, căn cứ vào đó để trừng phạt cái ác tuyên dương khuyến thiện, nếu ghi chép không lấy sự thật làm chuẩn, người đời sau sẽ xem như thế nào? Bệ hạ nay bảo Sử quan chỉnh sửa lại đúng trách nhiệm, thật hợp với công đạo vậy”. (Trích trong Trinh Quán chính yếu – Quyển 7 – Luận văn sử)

“Sự biến Huyền Vũ môn” vốn là một sự kiện chói lọi thiên thu tốt đẹp. “An xã tắc, lợi vạn dân”, lời của Thái Tông tràn đầy chính khí, thấu tình đạt lý. Sử quan chấp bút, đường đường chính chính, không có gì khuất tất ẩn giấu!


Nguồn : Epoch Times Hoa Ngữ
 

Có thể bạn quan tâm

Top