Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng


Chân dung Đường Thái Tông , màu trên lụa, trước đây là bộ sưu tập của Nam Huân Điện cố cung Bắc Kinh, nay thuộc Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc.
Mạnh Hải Biên dịch
Từ Tùy Văn Đế đến Tùy Dạng Đế, cho đến Lý Uyên, Lý Thế dân khởi binh ở Thái Nguyên (năm thứ 13 niên hiệu Đại Nghiệp, năm 617), chỉ mấy chục năm ngắn ngủi, thiên hạ đại loạn, khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, chiến loạn lại bắt đầu. Thiên triều Đại Tùy mở màn hạ màn, màn diễn lại gần đến hồi chót. Từ cổ loạn thế xuất anh hùng.
Thái Tông Đại Đường bắt đầu từ năm 16 tuổi đã xung phong dẫn đầu đoàn quân, cưỡi ngựa bắn cung, xông pha chiến đấu, thống lĩnh ba quân, không sức mạnh nào có thể địch nổi, đánh tan giặc cướp, bình định Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ.
Sau khi lên ngôi, Thái Tông dẫn dắt thần dân khai sáng thời hoàng kim Trinh Quán thịnh thế thiên hạ an hưởng thái bình, xưa nay chưa từng có. Thái Tông văn võ song toàn, trí huệ hơn người. Với tư cách là Hoàng đế, ông hạ mình cầu hiền, lắng nghe can gián, chỉ dùng người hiền năng, Đạo trị quốc của ông được hậu thế tôn sùng. Với tư cách là tướng quân, ông dẫn quân đánh đâu thắng đó, chiến công hiển hách, uy danh vang xa. Là một thi nhân, ông chuyên cần sáng tác, tạo nên thể ngâm, mở ra sự phồn thịnh văn nhã suốt 300 năm của triều đại nhà Đường.
Trong 23 năm Thái Tông tại vị, nền chính trị quốc gia trong sạch, kinh tế phồn vinh, xã hội an định, võ nghệ hưng thịnh. Văn hóa nghệ thuật, thi từ ca phú, chói lọi huy hoàng, rực rỡ như mặt trời trên bầu trời. Đại Đường vĩ đại, cường thịnh xưa nay chưa từng có, muôn nước đến chầu, là quốc gia hưng thịnh giàu mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ.
Thời Trinh Quán thịnh Đường, dưới sự duy hộ của đích thân Thái Tông, ba tôn giáo lớn là Nho, Thích, Đạo đều hưng thịnh. Đến nay, rất nhiều con phố người Hoa ở các nước trên thế giới đều gọi là “phố Đường Nhân”, thành tích thái bình thịnh trị thời Trinh Quán mãi được hậu thế truyền tụng.
Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ
Ngày Mậu Ngọ, tháng 12 năm thứ 18 niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy (ngày 28 tháng 1 năm 599), Lý Thế Dân, Hoàng đế Thái Tông của Đại Đường đản sinh ở biệt quán Võ Công (cảnh nội Hàm Dương, Thiểm Tây ngày nay). Khi đó có hai con rồng chơi đùa ở bên ngoài cổng dịch quán, ba ngày mới đi (Cựu Đường Thư – Thái Tông Thượng).
Cao Tổ Lý Uyên đóng quân ở Kỳ Châu, Thái Tông khi đó chỉ có bốn tuổi. Một vị thư sinh tự nhận là giỏi xem tướng, khi nhìn thấy Cao Tổ nói: “Ngài là quý nhân, hơn nữa còn có quý tử”. Khi nhìn thấy Thái Tông nói: “Dung nhan rồng phượng, tướng mạo hệt như mặt trời, đến năm 20 tuổi, ắt có thể tế thế an dân”. Lý Uyên nghe xong, đây rõ ràng tỏ rõ Thái Tông Lý Thế Dân sau này sẽ trở thành Hoàng đế! Lời này nếu như truyền ra bên ngoài, há không phải mang đến họa diệt môn! Cao Tổ sợ thư sinh để lộ lời nói ra bên ngoài, liền sai người truy sát, thư sinh không biết đã đi đâu mất. Cao Tổ tin là thiên Thần, bởi vậy tiếp thu ý “tế thế an dân”, đặt là tên của Thái Tông Lý Thế Dân”. Như lời của vị thầy tướng, thân thế của Thái Tông quả thực không hề tầm thường, trong “Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh Tự“ (Bài tự khắc trên chuông chùa Đại Hưng Thiện), Thái Tông hé lộ thân phận Kim Luân Thánh Vương của mình, giáng sinh trong hoàng thất, tấm lòng bao dung thiên hạ, phổ độ chúng sinh: “Hoàng đế Đạo nghiệp Kim Luân, tâm nơi lầu vàng, che phủ vạn phương, đi thuyền khắp tam giới. Muốn lấy nhạc mây hòa, cùng với tiếng trống Pháp để hoằng dương giáo hóa. Tiếng nhạc Nhã tụng thịnh thế cùng với Phạn âm Phật Pháp vang xa”. Năm Trinh Quán tứ 9 (năm 635), trong “Độ tăng ư thiên hạ chiếu” (Chiếu độ tăng nhân khắp thiên hạ), Thái Tông cũng bày tỏ rõ: “Trẫm Khâm Nhược Kim Luân, cung kính theo mệnh ngồi ngôi báu, dùng Đức chí thượng giáo huấn muôn dân, không nơi xa xôi nào không nghĩ đến, dùng phép tắc của bậc đại Thánh, không nơi tối tăm nào không xem xét tới, muốn cho người người đều không phải khổ não, nhà nhà đều no đủ, nhân nghĩa, trường thọ, các nguyện cầu duyên ẩn đều linh ứng, che chở hết thảy sinh linh. Ngũ phúc tỏ rõ nơi phép tắc, tam tai chấm dứt chốn thế gian”.
Thái Tông “khi mới được sinh ra là không biết khóc”. Dường như hết thảy của nhân gian đều vâng theo sai khiến dưới thiện hóa vô tư vô ngã của ông. Thuở thiếu thời, Thái Tông thông minh dị thường, nhìn xa trông rộng, nắm bắt thời cơ hành sự quyết đoán, ôm chí lớn mà không câu chấp những việc nhỏ nhặt, tuổi đời còn nhỏ, lo xa nghĩ rộng, đương thời không ai có thể đoán ra được tâm trí của ông.
Thái Tông ứng nghiệm lời của thầy tướng, từ năm 18 tuổi khuyên cha khởi binh, mở đầu một đời phi phàm tế thế an dân của mình. Sau khi lên ngôi, chỉ trong thời gian mấy năm, các nước Hoa Hạ chia năm xẻ bảy, chiến loạn không ngừng suốt gần 400 năm đã được thống nhất dưới vương triều Đại Đường.
Ngày Kỷ Tỵ 26 tháng 5 năm thứ 23 niên hiệu Trinh Quán (ngày 10 tháng 7 năm 649), Thái Tông Lý Thế Dân lâm bệnh mất ở điện Hàm Phong, cung Thúy Vy, hưởng thọ 51 tuổi, táng ở Chiêu lăng. Năm 674 (năm đầu niên hiệu Thượng Nguyên thời Đường Cao Tông) thêm thụy hiệu là Văn Võ Thánh Hoàng Đế. Năm 749 (Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Bảo, Đường Huyền Tông) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Hoàng Đế. Năm 754 (năm thứ 13 niên hiệu Thiên Bảo) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu Hoàng Đế.
“Tân Đường Thư” khen Thái Tông rằng: “Quân chủ có thể tế thế an dân giống như Thái Tông đây thật khó có người thứ hai! Hạ Vũ có thiên hạ, truyền 16 đời quân vương, nhưng chỉ Thiếu Khang có công nghiệp trung hưng vương triều. Thành Thang nhà Thương có thiên hạ, truyền đến 28 đời quân vương, người hưng thịnh nhất trong đó, chỉ có ba người hiệu xưng “tam tông” (Thái Giáp, Võ Đinh, Tổ Ất). Chu Võ Vương có được thiên hạ, truyền vị 36 đời quân vương, ngoài công lao trị vì đáng được kể đến như Thành Vương, Khang Vương và Tuyên Vương ra, còn những quân chủ khác đều không đáng khen ngợi“.Dù rằng ghi chép trong “ Kinh Thi ”, “Thượng Thư”, đôi lúc có những chỗ thiếu sót, nhưng ba đời Hạ, Thương, Chu chiếm giữ thiên hạ hơn 1700 năm, truyền thừa hơn 70 vị quân vương, những vị trác tuyệt trong đó cho hậu thế thấy rõ, chẳng qua chỉ có sáu bảy vị quân vương này mà thôi. Quân chủ có thể mở ra thời hoàng kim có thể nói thật khó có được vậy!
“Cựu Đường thư” đánh giá rằng: “Sử thần nói: Thần thấy Văn Hoàng đế phát tích rất nhiều điều kỳ lạ, thông minh Thần vũ. Sử dụng người, vật vô tư, không bè đảng, người có chí đều được sử dụng hết tài năng… Nghe lời can gián quyết đoán chẳng nghi hoặc, theo việc thiện tự nhiên mau lẹ, ngàn năm ca ngợi, chỉ có duy nhất một người mà thôi”.
Ngô Căng trong lời tựa của “Trinh Quán chính yếu” nói: “Nền chính trị giáo hóa thời Thái Tông, tốt đẹp đủ đầy có thể thấy rõ, chấn động cổ kim, xưa nay chưa từng có vậy”.
Cái nhìn toàn diện về chiến cuộc
Những năm đầu Đại Đường kiến lập, lãnh thổ chỉ giới hạn ở vùng Quan Trung và Hà Đông. Bắt đầu từ những năm đầu niên hiệu Vũ Đức (năm 618), Đường Cao Tổ Lý Uyên thân là hoàng đế, trấn thủ Trường An. Nhưng quần hùng trong thiên hạ đồng thời tồn tại, vương triều Lý Đường cần phải chinh chiến khắp nơi, bình định bốn phương mới có thể nhất thống thiên hạ được. Đương thời, những người xưng vương xưng đế, lãnh binh hùng bá một phương có khá nhiều.
Khi Lý Uyên khởi binh, hai cha con Tiết Cử, Tiết Nhân Cảo chiếm giữ vùng Lũng Hữu, xưng đế, quốc hiệu Tần. Lưu Vũ Chu xưng đế, quốc hiệu Hán, là một chi nhánh lực lượng quan trọng ở miền bắc của vùng Sơn Tây, trực tiếp uy hiếp đến địa phận Thái Nguyên, vốn là lãnh thổ của Lý Đường. Vương Thế Sung chiếm giữ Hà Nam, xưng đế, quốc hiệu Trịnh, thế lực lớn mạnh, vốn không thể xem thường được. Đậu Kiến Đức thành lập chính quyền, quốc hiệu Hạ, xưng hùng vùng Hà Bắc, không ai bì nổi. Ở vùng trung du, hạ du của Trường Giang, nhóm người Tiêu Tiển, Đỗ Phục Uy, Phụ Công,… đều nóng lòng chờ đợi thời cơ. Biên giới phía bắc thì có Đột Quyết là giặc, thế lực vô cùng lớn mạnh, đang nhòm ngó Trung Nguyên.
Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, quần hùng tranh ngôi bá chủ, ai có thể quét sạch quần hùng thì mới có thể thống lĩnh thiên hạ, trở thành bậc vương giả trị quốc. Chính cái gọi là : “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc” (chiến tranh để chinh phục thiên hạ, bậc vương giả trị vì quốc gia).
Trong những trận chiến chủ yếu góp phần thống nhất thiên hạ của Đại Đường, Thái Tông hoặc là trực tiếp tham gia cùng khởi tác dụng quan trọng trong đó, hoặc là trực tiếp làm thống soái, đặc biệt là đích thân thống lĩnh đội quân nhà Đường trong các trận đánh bại Tiết Nhân Cảo, Tống Kim Cang, Lưu Vũ Chu, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Lưu Hắc Thát. Đó đều là những trận chiến then chốt nhất, cũng là những lần đại chiến hình thế nguy cấp nhất, chiến sự gian nan nhất trong suốt quá trình thống nhất thiên hạ của Đại Đường. Sau mỗi lần chiến tranh thắng lợi, Thái Tông xem trọng việc trấn an kẻ hàng, thu thập người tài, ý nghĩa đặc biệt sâu xa. Thái Tông bởi vì lập được nhiều chiến công, về sau được Cao Tổ phong là Thiên Sách Thượng Tướng, địa vị ở trên tất cả các công hầu.

Bản đồ những năm Trinh Quán thời Đường Thái Tông. (Ảnh: Jiuqiaozai/Wikipedia )
Tài năng dần hiển lộ
Năm thứ 11 niên hiệu Đại Nghiệp, Tùy Dạng Đế bị 10 vạn quân thiết kỵ của Đột Quyết bao vây ở Nhạn Môn, không cách nào đột phá vòng vây được, chỉ có thể buộc chiếu thư lên trên đầu gỗ, thả xuống sông Phàn cho chiếu thư thuận theo dòng chảy mà trôi xuống, mong rằng có người nhìn thấy chiếu thư sẽ tìm đến cứu viện. Thái Tông năm đó chỉ mới 16 tuổi, gia nhập quân ngũ, ở dưới quyền của tướng quân Vân Định Hưng. Khi đó, dưới trướng tướng quân Vân Định Hưng chỉ có 2 vạn tân binh, hơn nữa phần nhiều đều là bộ binh. Thái Tông kiến nghị lên Vân Định Hưng: Sở dĩ Đột Quyết dám bao vây thiên tử, là cho rằng chúng ta không có quân cứu viện. Chi bằng chúng ta chia quân đội thành hàng dài nối liền trước sau, kéo dài mấy chục dặm, để quân địch ban ngày nhìn thấy cờ xí phấp phới, buổi tối nghe thấy tiếng chiêng trống, sẽ lầm tưởng là đại quân áp sát, như vậy mới có thể không đánh mà thắng. Còn nếu họ biết thực hư của ta, hai binh giáp mặt đánh nhau, thì thắng bại khó đoán trước được.
Vân tướng quân đã tiếp nhận kế nghi binh của Thái Tông , binh Đột Quyết nhìn thấy quân Tùy cuồn cuộn nối liền không dứt, quả nhiên cho rằng cứu binh của quân Tùy ồ ạt kéo đến, bèn giải vây bỏ chạy.