Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Kinh thành Thăng Long được dựng lên bằng tâm hồn Việt, ý chí Việt man rợ nhưng rõ ràng những ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác là lớn nhất
Đến kỷ nguyên của các triều đại sau, ta sẽ thấy Đại Việt khó lòng thoát khỏi sự mô phỏng“tất yếu” về nhiều phương diện từ người láng giềng khổng lồ phương Bắc ấy (chữ “tất yếu” của GS Trần Quốc Vượng, 2000). Tuy vậy, ngay sau ngàn năm Bắc thuộc, sự kháng cự về văn hóa cũng đã đến kỳ bùng nổ. Bằng tất cả nỗ lực và sự quật cường một nền văn hóa, lòng tự trọng của một dân tộc, thời kỳ Lý - Trần là một cuộc phục hưng mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc, nhất là lịch sử ngàn năm Thăng Long. Và tất nhiên điều đó không thể từ trên trời rơi xuống. Trong giai đoạn này, chúng ta vẫn tiếp nối một văn hóa Đông Sơn rực rỡ còn ẩn chứa, dù bị đứt gãy sau ngàn năm thuộc Bắc kết hợp với những yếu tố văn hóa ngoại lai - đó chính là nguồn cảm hứng từ Cham Pa, một nước láng giềng đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ với một nền nghệ thuật làm say đắm lòng người. Từ nguồn văn hóa phương Nam này cha ông chúng ta đã nhận ra đây chính là một trong những yếu tố làm nhạt nhòa sự mô phỏng từ phương Bắc, hay nói theo cách của cố GS Trần Quốc Vượng là việc “giải Hoa hóa”.
Nhờ đó tiền nhân chúng ta đã tạo nên một nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, và một kinh đô rất Việt nhưng cũng ẩn chứa nhiều tinh hoa của văn minh bên ngoài.Nếu như những viên gạch của thời kỳ Đại La chủ yếu có màu xám với độ nung khá cao, cứng và khó chạm khắc thì gạch của Hoàng Thành Thăng Long thời kỳ này đại bộ phận là có màu đỏ tươi, chất liệu mịn, độ nung không cao và dễ gọt cắt, chạm khắc. Những đặc trưng kỹ thuật này cho thấy đã có sự thay đổi lớn trong kỹ thuật làm gạch để phục vụ cho một ý đồ tạo hình và xây dựng khác với thời trước đó. Tôi cho là kỹ thuật này có thể đã được tham khảo từ kỹ thuật làm gạch của Cham pa, một dân tộc sản xuất và sử dụng gạch bậc thầy ở khu vực. Ý nghĩ này càng được củng cố trong tôi khi phát hiện viên gạch có viết những dòng chữ Chăm trên cả hai mặt gạch. Quan sát thật kỹ có thể nhận ra những dòng chữ này được viết lên gạch khi còn ở dạng mộc, thậm chí còn chưa khô. Dứt khoát không phải viết khi đã nung. Tôi là người mù chữ Chăm, mà lại Chăm cổ nữa thì càng tịt nên không dám nói gì về nội dung. Nhưng sự xuất hiện của viên gạch này có ý nghĩa cực kỳ to lớn cho việc nghiên cứu. Trước hết nó khẳng định sự có mặt của người thợ Chăm trên Hoàng Thành Thăng Long là sự thật như sử đã chép. Thứ hai, điều này quan trọng hơn với tôi, nó chứng tỏ người thợ Chăm ở Thăng Long không chỉ là người thợ xây mà còn là người làm ra những viên gạch đó, và chính họ đã mang đến Thăng Long kỹ thuật làm ra những viên gạch đỏ tươi, tạo hình đẹp, cùng với màu đỏ của bộ mái tuyệt vời đẹp và rất Việt xây cất lên những kiến trúc lung linh, lộng lẫy của Thăng Long khác xa những viên gạch xám đậm chất phương Bắc trước đó.
Vật liệu đá
Trên kinh thành Thăng Long người ta có thể nhận thấy có rất nhiều cấu kiện kiến trúc bằng đá, chủ đạo là sa thạch, một loại đá rất gần gũi với người thợ Cham Pa, loại đá không có thớ, dễ đục đẽo, tạo hình.
Lá đề cân trang trí hình chim phượng tại 18 Hoàng Diệu (trên) và Lá nhĩ, hay gọi là tympan theo các học giả phương Tây trên trán các ngôi đền thờ Cham Pa.
Gần như toàn bộ các tảng kê cột của kiến trúc Hoàng Thành đều bằng đá và được chạm hoa sen rất đẹp, nhất là những tảng kê cột thời Lý. Những bệ tượng tạo hình rồng, đặc biệt là những bậc lan can trang trí rồng, phượng, sóng nước, vân mây cực kỳ tinh xảo của thời Lý chắc sẽ có sự can thiệp của người thợ đá Cham Pa, thực hiện những ý tưởng Việt để tạo nên những tác phẩm tuyệt vời đến vậy.
Nghệ thuật tạo hình
Ở đây tôi không dám lạm bàn quá sâu, đơn giản chỉ vì tôi chưa bao giờ là người nghiên cứu chuyên nghiệp về lĩnh vực này, tuy nhiên với những gì thu lượm, học hỏi được trong những năm vừa qua tôi cũng xin có dăm ba ý kiến.
Tượng Kinari chùa Phật Tích, Bắc Ninh.
- Trước hết về biểu tượng lá đề ở Hoàng Thành, rõ ràng đó là vật trang trí kiến trúc, tuy nhiên nó còn mang tính quyền uy của vương triều. Hình tượng lá đề lớn, có tạo hình rồng hoặc phượng được đặt ở chính giữa bờ nóc của kiến trúc (vị trí của mặt nhật, nguyệt, hồ lô...trên các kiến trúc Trung Hoa hay ảnh hưởng Trung Hoa) là một sáng tạo tuyệt vời của tiền nhân chúng ta, Trung Hoa không có motif này. Nhưng tại sao lại là motif lá đề, tôi mạnh dạn cho rằng nguồn cảm hứng của sự sáng tạo ấy đến từ cái lá nhĩ, hay người Tây gọi là tympan trên trán các ngôi đền thờ Cham Pa. Ở Cham Pa, lá nhĩ trang trí các vị thần, đặt ở trên cửa chính của ngôi đền thờ, còn ở Đại Việt lá đề trang trí linh thú như rồng, phượng, đem đặt chính giữa bờ nóc. Thế là xong, người Chăm không thấy đó là của mình và người phương Bắc cũng chịu, không thể bảo là của họ, và đó chính là Đại Việt. Còn cái lá đề lệch, nhìn qua ta thấy đâu đó phảng phất hình bóng của vật trang trí góc tháp Chăm (người Pháp gọi là pierre d’accent), nhưng cũng không hoàn toàn là vậy, chỉ phảng phất thôi và ở Cham Pa nó được đặt ở các góc tháp, đền để tạo nên sự bay bổng, nhẹ nhõm cho một khối gạch đá khổng lồ. Còn ở đây, nó chạy dọc hai bên bờ nóc, chạy xuống bờ dải cùng với tàu mái lượn lên, với những hàng ngói ống có đầu ngói trang trí phong phú và cái lá đề tinh xảo trên lưng tạo nên một bộ mái cực kỳ mỹ miều và thanh thoát. Thế cũng là ổn, không ai phủ nhận được một bộ mái cung đình Đại Việt. Cái giỏi của cha ông ta là vậy.
Tượng thần Shiva (chùa Võng La, Đông Anh, Hà Nội). Chất liệu đá.
- Lại bàn thêm về một số hình tượng khác như đầu rồng, chúng ta dễ nhận thấy rồng thời kỳ này có cái vòi, cái nanh, cái lưỡi mang dáng dấp của makara Cham Pa (Hà Bích Liên 1998), nhưng rồng của Đại Việt ngậm ngọc và có một cái bờm vút cao nhẹ nhàng bay bổng phía sau gáy, cái đó Cham Pa không có được. Còn cái thân uốn lượn của con rồng thời Lý-Trần, đặc biệt là thời Lý thì đúng là một tuyệt tác của tổ tiên chúng ta. Những mặt hổ phù, dường như cũng mang cảm hứng từ mặt kala của Cham Pa chăng? Và còn Garuda, Kinnara của Cham Pa thì mọi người đều thấy xuất hiện khá nhiều trên các kiến trúc Lý-Trần nhất là các đền đài mà tôi chắc không thiếu được chúng ở tháp Báo Thiên kỳ vĩ nay đã không còn.
Đại Việt ra đời yếu, không có văn minh gì, sách sử ghi lại toàn xạo lông lồn là chính. Toàn đi ăn cướp văn minh Chăm pa


Mặt hổ phù đất nung tại 18 Hoàng Diệu và Mặt Kala trên tường tháp Mỹ Sơn F1.

Viên gạch khắc chữ Chăm tại 18 Hoàng Diệu.

Chân tảng đá hoa sen tại 18 Hoàng Diệu
Đến kỷ nguyên của các triều đại sau, ta sẽ thấy Đại Việt khó lòng thoát khỏi sự mô phỏng“tất yếu” về nhiều phương diện từ người láng giềng khổng lồ phương Bắc ấy (chữ “tất yếu” của GS Trần Quốc Vượng, 2000). Tuy vậy, ngay sau ngàn năm Bắc thuộc, sự kháng cự về văn hóa cũng đã đến kỳ bùng nổ. Bằng tất cả nỗ lực và sự quật cường một nền văn hóa, lòng tự trọng của một dân tộc, thời kỳ Lý - Trần là một cuộc phục hưng mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc, nhất là lịch sử ngàn năm Thăng Long. Và tất nhiên điều đó không thể từ trên trời rơi xuống. Trong giai đoạn này, chúng ta vẫn tiếp nối một văn hóa Đông Sơn rực rỡ còn ẩn chứa, dù bị đứt gãy sau ngàn năm thuộc Bắc kết hợp với những yếu tố văn hóa ngoại lai - đó chính là nguồn cảm hứng từ Cham Pa, một nước láng giềng đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ với một nền nghệ thuật làm say đắm lòng người. Từ nguồn văn hóa phương Nam này cha ông chúng ta đã nhận ra đây chính là một trong những yếu tố làm nhạt nhòa sự mô phỏng từ phương Bắc, hay nói theo cách của cố GS Trần Quốc Vượng là việc “giải Hoa hóa”.

Trang trí kiến trúc bằng đá mô típ hoa chăm pa dây tại 18 Hoàng Diệu.

Trang trí kiến trúc bằng đá mô típ Champa hoa dây tại tháp Dương Long
Nhờ đó tiền nhân chúng ta đã tạo nên một nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, và một kinh đô rất Việt nhưng cũng ẩn chứa nhiều tinh hoa của văn minh bên ngoài.Nếu như những viên gạch của thời kỳ Đại La chủ yếu có màu xám với độ nung khá cao, cứng và khó chạm khắc thì gạch của Hoàng Thành Thăng Long thời kỳ này đại bộ phận là có màu đỏ tươi, chất liệu mịn, độ nung không cao và dễ gọt cắt, chạm khắc. Những đặc trưng kỹ thuật này cho thấy đã có sự thay đổi lớn trong kỹ thuật làm gạch để phục vụ cho một ý đồ tạo hình và xây dựng khác với thời trước đó. Tôi cho là kỹ thuật này có thể đã được tham khảo từ kỹ thuật làm gạch của Cham pa, một dân tộc sản xuất và sử dụng gạch bậc thầy ở khu vực. Ý nghĩ này càng được củng cố trong tôi khi phát hiện viên gạch có viết những dòng chữ Chăm trên cả hai mặt gạch. Quan sát thật kỹ có thể nhận ra những dòng chữ này được viết lên gạch khi còn ở dạng mộc, thậm chí còn chưa khô. Dứt khoát không phải viết khi đã nung. Tôi là người mù chữ Chăm, mà lại Chăm cổ nữa thì càng tịt nên không dám nói gì về nội dung. Nhưng sự xuất hiện của viên gạch này có ý nghĩa cực kỳ to lớn cho việc nghiên cứu. Trước hết nó khẳng định sự có mặt của người thợ Chăm trên Hoàng Thành Thăng Long là sự thật như sử đã chép. Thứ hai, điều này quan trọng hơn với tôi, nó chứng tỏ người thợ Chăm ở Thăng Long không chỉ là người thợ xây mà còn là người làm ra những viên gạch đó, và chính họ đã mang đến Thăng Long kỹ thuật làm ra những viên gạch đỏ tươi, tạo hình đẹp, cùng với màu đỏ của bộ mái tuyệt vời đẹp và rất Việt xây cất lên những kiến trúc lung linh, lộng lẫy của Thăng Long khác xa những viên gạch xám đậm chất phương Bắc trước đó.
Vật liệu đá
Trên kinh thành Thăng Long người ta có thể nhận thấy có rất nhiều cấu kiện kiến trúc bằng đá, chủ đạo là sa thạch, một loại đá rất gần gũi với người thợ Cham Pa, loại đá không có thớ, dễ đục đẽo, tạo hình.


Lá đề cân trang trí hình chim phượng tại 18 Hoàng Diệu (trên) và Lá nhĩ, hay gọi là tympan theo các học giả phương Tây trên trán các ngôi đền thờ Cham Pa.
Gần như toàn bộ các tảng kê cột của kiến trúc Hoàng Thành đều bằng đá và được chạm hoa sen rất đẹp, nhất là những tảng kê cột thời Lý. Những bệ tượng tạo hình rồng, đặc biệt là những bậc lan can trang trí rồng, phượng, sóng nước, vân mây cực kỳ tinh xảo của thời Lý chắc sẽ có sự can thiệp của người thợ đá Cham Pa, thực hiện những ý tưởng Việt để tạo nên những tác phẩm tuyệt vời đến vậy.
Nghệ thuật tạo hình
Ở đây tôi không dám lạm bàn quá sâu, đơn giản chỉ vì tôi chưa bao giờ là người nghiên cứu chuyên nghiệp về lĩnh vực này, tuy nhiên với những gì thu lượm, học hỏi được trong những năm vừa qua tôi cũng xin có dăm ba ý kiến.

Tượng Kinari chùa Phật Tích, Bắc Ninh.
- Trước hết về biểu tượng lá đề ở Hoàng Thành, rõ ràng đó là vật trang trí kiến trúc, tuy nhiên nó còn mang tính quyền uy của vương triều. Hình tượng lá đề lớn, có tạo hình rồng hoặc phượng được đặt ở chính giữa bờ nóc của kiến trúc (vị trí của mặt nhật, nguyệt, hồ lô...trên các kiến trúc Trung Hoa hay ảnh hưởng Trung Hoa) là một sáng tạo tuyệt vời của tiền nhân chúng ta, Trung Hoa không có motif này. Nhưng tại sao lại là motif lá đề, tôi mạnh dạn cho rằng nguồn cảm hứng của sự sáng tạo ấy đến từ cái lá nhĩ, hay người Tây gọi là tympan trên trán các ngôi đền thờ Cham Pa. Ở Cham Pa, lá nhĩ trang trí các vị thần, đặt ở trên cửa chính của ngôi đền thờ, còn ở Đại Việt lá đề trang trí linh thú như rồng, phượng, đem đặt chính giữa bờ nóc. Thế là xong, người Chăm không thấy đó là của mình và người phương Bắc cũng chịu, không thể bảo là của họ, và đó chính là Đại Việt. Còn cái lá đề lệch, nhìn qua ta thấy đâu đó phảng phất hình bóng của vật trang trí góc tháp Chăm (người Pháp gọi là pierre d’accent), nhưng cũng không hoàn toàn là vậy, chỉ phảng phất thôi và ở Cham Pa nó được đặt ở các góc tháp, đền để tạo nên sự bay bổng, nhẹ nhõm cho một khối gạch đá khổng lồ. Còn ở đây, nó chạy dọc hai bên bờ nóc, chạy xuống bờ dải cùng với tàu mái lượn lên, với những hàng ngói ống có đầu ngói trang trí phong phú và cái lá đề tinh xảo trên lưng tạo nên một bộ mái cực kỳ mỹ miều và thanh thoát. Thế cũng là ổn, không ai phủ nhận được một bộ mái cung đình Đại Việt. Cái giỏi của cha ông ta là vậy.

Tượng thần Shiva (chùa Võng La, Đông Anh, Hà Nội). Chất liệu đá.
- Lại bàn thêm về một số hình tượng khác như đầu rồng, chúng ta dễ nhận thấy rồng thời kỳ này có cái vòi, cái nanh, cái lưỡi mang dáng dấp của makara Cham Pa (Hà Bích Liên 1998), nhưng rồng của Đại Việt ngậm ngọc và có một cái bờm vút cao nhẹ nhàng bay bổng phía sau gáy, cái đó Cham Pa không có được. Còn cái thân uốn lượn của con rồng thời Lý-Trần, đặc biệt là thời Lý thì đúng là một tuyệt tác của tổ tiên chúng ta. Những mặt hổ phù, dường như cũng mang cảm hứng từ mặt kala của Cham Pa chăng? Và còn Garuda, Kinnara của Cham Pa thì mọi người đều thấy xuất hiện khá nhiều trên các kiến trúc Lý-Trần nhất là các đền đài mà tôi chắc không thiếu được chúng ở tháp Báo Thiên kỳ vĩ nay đã không còn.


Tượng Makara Cham Pa tại Bảo tàng Điêu khắc Cham Đà Nẵng (trên) và Tượng đầu rồng tại 18 Hoàng Diệu.
Tạm kếtĐại Việt ra đời yếu, không có văn minh gì, sách sử ghi lại toàn xạo lông lồn là chính. Toàn đi ăn cướp văn minh Chăm pa