Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

“Lăng tẩm còn đây lưu hậu thế
Hoàng Đế Gia Long đấng khai triều
An nghỉ ngàn năm trong lòng đất
Theo vầng nhật nguyệt đá rong rêu
Một thuở giang sơn tay gầy dựng
Một thời bôn tẩu dấu binh đao
Đất Bắc Nhà Nam chung một mối
Ngôi trời Thiên Tử một vì sao
Dẹp tan giặc Huệ, Nguỵ Tây Sơn,
Giang sơn tổ nghiệp lại vẹn tròn.
Công danh rạng rỡ ngời muôn thuở,
Vun đắp non sông, đẹp ý son.
Băng hà đất mẹ Thừa Thiên ngự
Hậu tộc hương dâng khói lưng trời
Về ngang xứ Huế nghe niềm nhớ
Một đấng Tiên Vương tiếng để đời!”
Lăng mộ vua Gia Long có tên gọi khác là Thiên Thọ Lăng, được xây dựng trong 6 năm (1814-1820) gồm nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến vua Gia Long. Tổng thể lăng nằm trong một vùng núi hoang sơ, sơn thủy hữu tình thuộc thôn Định Môn, xã Hương Thọ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Toàn bộ quần thể lăng gồm 42 ngọn núi, đồi lớn nhỏ, trước lăng nổi bật là núi Đại Thiên Thọ nằm án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm.
Trước đây, để đến lăng Gia Long thì cách di chuyển duy nhất là đường thủy, đi đò hoặc thuyền xuôi theo dòng sông Hương qua chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén… Tuy nhiên ngày nay du khách đã có thể đến nơi đây bằng 2 lối:
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công.
Lăng vua Gia Long hoành tráng, nhưng đơn giản như cuộc đời của một võ tướng. Mật độ kiến trúc tương đối thưa. Các công trình được trải ra theo chiều ngang. Rộng rãi mênh mông, nhưng ở đây không có lầu đài đình tạ và cũng không xây dựng la thành. Núi đồi chung quanh giăng ra như một vòng thành thiên nhiên bao bọc tạo nên quy mô bề thế cho khu lăng tẩm. Đơn giản nhất là khu mộ táng thi hài vua và hoàng hậu. Hai nấm mộ bằng đá nằm song song, cách nhau chỉ một gang tay, có cùng khuôn khổ và kích thước, bên trên đều có hai mái chảy xuôi trông như những mái nhà mà thời gian đã nhuộm đen thành màu than đá. Không một nét chạm trổ, sơn son thếp vàng, tất cả chỉ là những tấm đá thanh phẳng lỳ, trơ trụi, tạo ra giữa chốn hoàn liêu này một không khí tĩnh mịch và uy nghiêm. Hai ngôi mộ nằm sát bên nhau biểu hiện tình cảm thủy chung cao đẹp giữa vua và hoàng hậu đã từng vào sinh ra tử với nhau trong suốt cuộc đời chinh chiến. Đó là điểm độc đáo của Lăng vua Gia Long mà không tìm thấy ở lăng vua Nguyễn nào khác.
Có một đặc điểm đáng chú ý là tất cả những con rồng ở các tầng sân, bậc thềm ở lăng vua Gia Long đều được đắp bằng vôi gạch chứ không chạm bằng đá như ở các lăng khác về sau.
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”.
Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.
Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là “hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
Men theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn - vua Minh Mạng.
Hoàng Đế Gia Long đấng khai triều
An nghỉ ngàn năm trong lòng đất
Theo vầng nhật nguyệt đá rong rêu
Một thuở giang sơn tay gầy dựng
Một thời bôn tẩu dấu binh đao
Đất Bắc Nhà Nam chung một mối
Ngôi trời Thiên Tử một vì sao
Dẹp tan giặc Huệ, Nguỵ Tây Sơn,
Giang sơn tổ nghiệp lại vẹn tròn.
Công danh rạng rỡ ngời muôn thuở,
Vun đắp non sông, đẹp ý son.
Băng hà đất mẹ Thừa Thiên ngự
Hậu tộc hương dâng khói lưng trời
Về ngang xứ Huế nghe niềm nhớ
Một đấng Tiên Vương tiếng để đời!”
Lăng mộ vua Gia Long có tên gọi khác là Thiên Thọ Lăng, được xây dựng trong 6 năm (1814-1820) gồm nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến vua Gia Long. Tổng thể lăng nằm trong một vùng núi hoang sơ, sơn thủy hữu tình thuộc thôn Định Môn, xã Hương Thọ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Toàn bộ quần thể lăng gồm 42 ngọn núi, đồi lớn nhỏ, trước lăng nổi bật là núi Đại Thiên Thọ nằm án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm.

Trước đây, để đến lăng Gia Long thì cách di chuyển duy nhất là đường thủy, đi đò hoặc thuyền xuôi theo dòng sông Hương qua chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén… Tuy nhiên ngày nay du khách đã có thể đến nơi đây bằng 2 lối:
- Đi qua cầu phao do người dân xây dựng bắc qua sông Tả Trạch;
- Đi đường lớn chạy qua cầu Tuần, lăng Minh Mạng và cầu Hữu Trạch bắc qua con sông cùng tên.

Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công.
Lăng vua Gia Long hoành tráng, nhưng đơn giản như cuộc đời của một võ tướng. Mật độ kiến trúc tương đối thưa. Các công trình được trải ra theo chiều ngang. Rộng rãi mênh mông, nhưng ở đây không có lầu đài đình tạ và cũng không xây dựng la thành. Núi đồi chung quanh giăng ra như một vòng thành thiên nhiên bao bọc tạo nên quy mô bề thế cho khu lăng tẩm. Đơn giản nhất là khu mộ táng thi hài vua và hoàng hậu. Hai nấm mộ bằng đá nằm song song, cách nhau chỉ một gang tay, có cùng khuôn khổ và kích thước, bên trên đều có hai mái chảy xuôi trông như những mái nhà mà thời gian đã nhuộm đen thành màu than đá. Không một nét chạm trổ, sơn son thếp vàng, tất cả chỉ là những tấm đá thanh phẳng lỳ, trơ trụi, tạo ra giữa chốn hoàn liêu này một không khí tĩnh mịch và uy nghiêm. Hai ngôi mộ nằm sát bên nhau biểu hiện tình cảm thủy chung cao đẹp giữa vua và hoàng hậu đã từng vào sinh ra tử với nhau trong suốt cuộc đời chinh chiến. Đó là điểm độc đáo của Lăng vua Gia Long mà không tìm thấy ở lăng vua Nguyễn nào khác.
Có một đặc điểm đáng chú ý là tất cả những con rồng ở các tầng sân, bậc thềm ở lăng vua Gia Long đều được đắp bằng vôi gạch chứ không chạm bằng đá như ở các lăng khác về sau.
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”.
Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.
Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là “hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
Men theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn - vua Minh Mạng.