Ngày này năm xưa, 14-9-1958, 67 năm công hàm 58

songhan

Thanh niên Ngõ chợ
Bahamas
5-van-ban_zzcp.jpg.webp

TQ cố ý suy diễn sai lệch nội dung công hàm Phạm Văn Đồng với ý đồ khẳng định yêu sách trái phép tại vùng biển này. Ảnh: FACEBOOK
 
Sửa lần cuối:
Quan điểm học giả các bên
1.Quan điểm phía china

/subject/china/peking
-review/1980/PR1980-07
.pdf

Trong một thời gian rất dài phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ từ thời xa xưa của Trung Quốc, thông qua các bản tuyên bố và công hàm của họ, hay trên báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của họ.

Vào ngày 15 tháng Sáu, 1956 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Lý Chí Mẫn, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Nhân dịp này Ung Văn Khiêm nói với Lý Chí Mẫn rằng "theo tư liệu Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa về mặt lịch sử thuộc về lãnh thổ Trung Quốc." Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi đón tiếp, đã trích dẫn chính xác tư liệu Việt Nam và chỉ ra rõ rằng "xét theo lịch sử, hai quần đảo này đã thuộc về Trung Quốc vào thời triều đại nhà Tống."

Trong bản Tuyên bố vào ngày 4 tháng Chín, 1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chiều rộng hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và tuyên bố rất rõ ràng "điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, bao gồm... Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc."

Vào ngày 6 tháng Chín, 1958, báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, đăng trang trọng trên trang nhất nội dung chi tiết bản tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Tờ báo viết: "Vào ngày 4 tháng Chín, 1958 Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận của Trung Quốc. Bản tuyên bố quy định chiều rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý (hơn 22 km). Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục Trung Quốc và các đảo duyên hải của Trung Quốc, cũng như Đài Loan và những đảo xung quanh, Quần đảo Bành Hồ, Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc ở ngoài biển khơi cách xa đại lục và các đảo duyên hải của Trung Quốc."

Vào ngày 14 tháng Chín cùng năm, trong công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng long trọng tuyên bố "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc." và "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy." Bức công hàm của Phạm Văn Đồng chứng minh rõ ràng Chính phủ Việt Nam đã công nhận Quần đảo Tây Sa và Quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong bản tuyên bố vào ngày 9 tháng Năm năm 1965 về việc Chính phủ Mỹ chỉ định "khu vực chiến đấu" cho lực lượng Mỹ tại Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sự chỉ định ấy là "mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc gia láng giềng" vì "Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson coi toàn thể nước Việt Nam và vùng biển kế cận mà trải dài độ 100 dặm từ bờ biển Việt Nam và một phần hải phận của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa tại Quần đảo Tây Sa là "khu vực chiến đấu" của lực lượng vũ trang Mỹ." Ở đây một lần nữa Chính phủ Việt Nam rõ ràng công nhận Quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Khi tường thuật những vụ xâm nhập của nước ngoài vào Quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng công nhận những đảo này thuộc về Trung Quốc. Chẳng hạn, vào ngày 13 tháng Năm, 1969 báo Nhân Dân tường thuật rằng "vào ngày 10 tháng Năm máy bay quân đội Mỹ đã xâm phạm không phận của Trung Quốc trên Đảo Vĩnh Hưng (1) và Đảo Đông Đạo (2) thuộc Quần đảo Tây Sa của Tỉnh Quảng Đông." Báo chí Việt Nam đã đăng nhiều bài tường thuật tương tự.

Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới do Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung. Một trường hợp khác, bài học tựa đề "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" trong sách giáo khoa địa lý dành cho học sinh lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản vào năm 1974 viết một đoạn như sau: "Chuỗi quần đảo từ Quần đảo Nam sa và Tây Sa đến Đảo Hải Nam, Đảo Đài Loan, Quần đảo Bành Hồ và Quần đảo Chu San... hình dạng như cây cung và tạo thành một Vạn Lý Tường Thành bảo vệ đại lục Trung Quốc."

Việt Nam nhấn mạnh một cách nghiêm túc rõ ràng rằng để xác lập chủ quyền lãnh thổ cần thiết phải đưa ra "những tài liệu nhà nước chính thức" và "những văn kiện có giá trị pháp lý". Những điều chúng tôi đã trích dẫn ở trên chính xác là "những tài liệu nhà nước chính thức" và "những văn kiện có giá trị pháp lý" của Việt Nam. Điều này chứng minh rõ ràng từ trước cho đến năm 1974 Chính phủ Việt Nam đã công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Giờ đây, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và tráo trở từ bỏ lập trường công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc ban đầu của họ và theo luật quốc tế đây là điều tuyệt đối không thể nào cho phép.



 
Quan điểm phía Việt Nam

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam​


23/05/201410:13

(Chinhphu.vn) - Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.​

aA
Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài báo "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung Công hàm 1958 cũng như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc đối với văn bản này:
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".


Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.

Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.

Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.

Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.

Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.

Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.

Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
 
Bán được thứ mình không sở hữu thì đỉnh cao kinh doanh rồi, công hàm cũng chơi chữ lắm , bọn tau cũng chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý xung quanh hòn đảo thuộc chủ quyền của tàu khựa thôi chớ bọn tau k công nhận đảo là của tàu, mỗi tội là h đ dám đi vào cái lãnh hãi kia nữa, nên đảo của nó luôn =))
 
Bán được thứ mình không sở hữu thì đỉnh cao kinh doanh rồi, công hàm cũng chơi chữ lắm , bọn tau cũng chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý xung quanh hòn đảo thuộc chủ quyền của tàu khựa thôi chớ bọn tau k công nhận đảo là của tàu, mỗi tội là h đ dám đi vào cái lãnh hãi kia nữa, nên đảo của nó luôn =))
Thì vùng này là của ngộ , lị cứ làm sao mà không đi qua vùng này mà vẫn đến được đảo là ok hết nha lị :vozvn (24):
 
Bán được thứ mình không sở hữu thì đỉnh cao kinh doanh rồi, công hàm cũng chơi chữ lắm , bọn tau cũng chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý xung quanh hòn đảo thuộc chủ quyền của tàu khựa thôi chớ bọn tau k công nhận đảo là của tàu, mỗi tội là h đ dám đi vào cái lãnh hãi kia nữa, nên đảo của nó luôn =))
Năm 1958, thì trong giấc mơ điên rồ nhất, các cốp lãnh đạo Bắc Việt cũng ko nghĩ sẽ tiêu diệt đc VNCH🤣
Mà cũng phải, chế độ VNCH còn đéo đâu mà đòi lên tiếng phân bua abc xyz,...ngụy quân ngụy quyền mà 🤣
 
Năm 1958, thì trong giấc mơ điên rồ nhất, các cốp lãnh đạo Bắc Việt cũng ko nghĩ sẽ tiêu diệt đc VNCH🤣
Mà cũng phải, chế độ VNCH còn đéo đâu mà đòi lên tiếng phân bua abc xyz,...ngụy quân ngụy quyền mà 🤣
Thời đó tình vô sản cuốc tế lớn, cứ nghỉ họ giữ dùm rồi trả lại.
Tiền lệ là china họ lấy đảo bạch long vic rồi trả lại cho vn.
Năm 1949, khi Trung Hoa Dân Quốc thất bại, mất lục địa họ chạy ra biển đánh chiếm các hòn đảo lập tiền đồn, trong đó có đảo Hải Nam. Hơn 110.000 quân Giải phóng quân được huy động đánh chiếm đảo Hải Nam vào năm 1950. Thất thủ, quân Trung Hoa Dân Quốc tổ chức tháo chạy về đảo Đài Loan. Một bộ phận nhỏ tàn quân của họ chạy ra đảo Bạch Long Vỹ. Tháng 7 năm 1955, Giải phóng quân Trung Quốc tấn công quân Quốc dân đảng và kiểm soát đảo này.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quản lý đảo Bạch Long Vỹ đến 16/01/1957 thì bàn giao lại cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
 
Năm 1958, thì trong giấc mơ điên rồ nhất, các cốp lãnh đạo Bắc Việt cũng ko nghĩ sẽ tiêu diệt đc VNCH🤣
Mà cũng phải, chế độ VNCH còn đéo đâu mà đòi lên tiếng phân bua abc xyz,...ngụy quân ngụy quyền mà 🤣
Cộng nhận, thời điểm đấy nghĩ cũng k dám nghĩ, thôi thì bán luôn cho thằng tàu bú viện trợ, mất gì của mình đâu, cái đảo thời đấy cũng quan trọng gì, đâu có khí tài mà đóng giữ, tư duy ngày đấy mấy cốp nông dân làm gì nghĩ đến tuyến đường hàng hải, cửa ngõ biển đông, hệ thống phòng thủ,radar cảnh báo...vvv
 
Giờ Việt Nam nên lôi mấy thằng 3 Tàu sống ở Việt Nam ra để trả thù :)
Trù chết con đĩ mẹ tụi nó :))
 
Năm 1958, thì trong giấc mơ điên rồ nhất, các cốp lãnh đạo Bắc Việt cũng ko nghĩ sẽ tiêu diệt đc VNCH🤣
Mà cũng phải, chế độ VNCH còn đéo đâu mà đòi lên tiếng phân bua abc xyz,...ngụy quân ngụy quyền mà 🤣
Thực sự ra mà nói tạo ra và truyền lại sự căm hận của lớp trẻ dành cho chế độ VNCH thì nó lại là bước đi ngu độn của Việt cộng, cũng như tạo ra lợi ích trực tiếp cho TQ.
Nó vừa mang tới ác cảm dành cho chính phủ Việt Nam, dễ bị cô lập. Thứ 2 là trong vấn đề biển đảo đéo còn tính kế thừa vì đã hô hào truyền thông tạo ra ác cảm với chế độ cũ ở trong nước, gián tiếp phủ nhận mọi sự kế thừa.
Đcm truyền thống bỏ cơm lụm cứt của đám Việt cộng đúng kiểu đéo thể nào mai một được.
 
Thực sự ra mà nói tạo ra và truyền lại sự căm hận của lớp trẻ dành cho chế độ VNCH thì nó lại là bước đi ngu độn của Việt cộng, cũng như tạo ra lợi ích trực tiếp cho TQ.
Nó vừa mang tới ác cảm dành cho chính phủ Việt Nam, dễ bị cô lập. Thứ 2 là trong vấn đề biển đảo đéo còn tính kế thừa vì đã hô hào truyền thông tạo ra ác cảm với chế độ cũ ở trong nước, gián tiếp phủ nhận mọi sự kế thừa.
Đcm truyền thống bỏ cơm lụm cứt của đám Việt cộng đúng kiểu đéo thể nào mai một được.
Nhà cầm quyền Cs bây giờ đag lâm vào tình thế " Há miệng mắc quai "
Một mặt, rêu rao VNCH là bọn ngụy quân ngụy quyền ko có tính chính danh
Trong khi đó, ra quốc tế nếu ko thừa nhận VNCH, thì giải quyết tranh chấp thế đéo nào đc 🤣
Lũ chó má xứng đáng bị Thượng Đế rủa sả 🤌
Đảo đảo con mẹ chúng nó 🤣
 
Nhà cầm quyền Cs bây giờ đag lâm vào tình thế " Há miệng mắc quai "
Một mặt, rêu rao VNCH là bọn ngụy quân ngụy quyền ko có tính chính danh
Trong khi đó, ra quốc tế nếu ko thừa nhận VNCH, thì giải quyết tranh chấp thế đéo nào đc 🤣
Lũ chó má xứng đáng bị Thượng Đế rủa sả 🤌
Đảo đảo con mẹ chúng nó 🤣
Bởi vậy dạo gần đây mới mắt nhắm mắt mở để cho đám KOLs như thằng Nhân với thằng dưa leo thằng Trung cừu lên thoải mái nói. =))
Chứ đcm để mấy thằng ngu tuyên giáo nó tiếp tục tuyên truyền ngáo ngơ thì 2 cái mỏ dầu Thanh Long với Bạch Hổ đéo được khai thác nữa luôn. =))
Đụ má đúng kiểu lượm cứt ỉa ra bốc lên ăn lại nhưng vẫn còn sĩ diện. Đéo muốn để cho ai biết. =))
 
Nhà cầm quyền Cs bây giờ đag lâm vào tình thế " Há miệng mắc quai "
Một mặt, rêu rao VNCH là bọn ngụy quân ngụy quyền ko có tính chính danh
Trong khi đó, ra quốc tế nếu ko thừa nhận VNCH, thì giải quyết tranh chấp thế đéo nào đc 🤣
Lũ chó má xứng đáng bị Thượng Đế rủa sả 🤌
Đảo đảo con mẹ chúng nó 🤣
Nó diễn trò chủ quyền cho dân xem thôi, chứ nó đâu có muốn kiện tụng tranh chấp gì.
Tq đánh thì cắt mất đảo như năm 88, rồi bảo là không nên nổ súng.
 
Quan điểm học giả các bên
1.Quan điểm phía china

/subject/china/peking
-review/1980/PR1980-07
.pdf

Trong một thời gian rất dài phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ từ thời xa xưa của Trung Quốc, thông qua các bản tuyên bố và công hàm của họ, hay trên báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của họ.

Vào ngày 15 tháng Sáu, 1956 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Lý Chí Mẫn, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Nhân dịp này Ung Văn Khiêm nói với Lý Chí Mẫn rằng "theo tư liệu Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa về mặt lịch sử thuộc về lãnh thổ Trung Quốc." Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi đón tiếp, đã trích dẫn chính xác tư liệu Việt Nam và chỉ ra rõ rằng "xét theo lịch sử, hai quần đảo này đã thuộc về Trung Quốc vào thời triều đại nhà Tống."

Trong bản Tuyên bố vào ngày 4 tháng Chín, 1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chiều rộng hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và tuyên bố rất rõ ràng "điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, bao gồm... Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc."

Vào ngày 6 tháng Chín, 1958, báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, đăng trang trọng trên trang nhất nội dung chi tiết bản tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Tờ báo viết: "Vào ngày 4 tháng Chín, 1958 Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận của Trung Quốc. Bản tuyên bố quy định chiều rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý (hơn 22 km). Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục Trung Quốc và các đảo duyên hải của Trung Quốc, cũng như Đài Loan và những đảo xung quanh, Quần đảo Bành Hồ, Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc ở ngoài biển khơi cách xa đại lục và các đảo duyên hải của Trung Quốc."

Vào ngày 14 tháng Chín cùng năm, trong công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng long trọng tuyên bố "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc." và "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy." Bức công hàm của Phạm Văn Đồng chứng minh rõ ràng Chính phủ Việt Nam đã công nhận Quần đảo Tây Sa và Quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong bản tuyên bố vào ngày 9 tháng Năm năm 1965 về việc Chính phủ Mỹ chỉ định "khu vực chiến đấu" cho lực lượng Mỹ tại Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sự chỉ định ấy là "mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc gia láng giềng" vì "Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson coi toàn thể nước Việt Nam và vùng biển kế cận mà trải dài độ 100 dặm từ bờ biển Việt Nam và một phần hải phận của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa tại Quần đảo Tây Sa là "khu vực chiến đấu" của lực lượng vũ trang Mỹ." Ở đây một lần nữa Chính phủ Việt Nam rõ ràng công nhận Quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Khi tường thuật những vụ xâm nhập của nước ngoài vào Quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng công nhận những đảo này thuộc về Trung Quốc. Chẳng hạn, vào ngày 13 tháng Năm, 1969 báo Nhân Dân tường thuật rằng "vào ngày 10 tháng Năm máy bay quân đội Mỹ đã xâm phạm không phận của Trung Quốc trên Đảo Vĩnh Hưng (1) và Đảo Đông Đạo (2) thuộc Quần đảo Tây Sa của Tỉnh Quảng Đông." Báo chí Việt Nam đã đăng nhiều bài tường thuật tương tự.

Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới do Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung. Một trường hợp khác, bài học tựa đề "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" trong sách giáo khoa địa lý dành cho học sinh lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản vào năm 1974 viết một đoạn như sau: "Chuỗi quần đảo từ Quần đảo Nam sa và Tây Sa đến Đảo Hải Nam, Đảo Đài Loan, Quần đảo Bành Hồ và Quần đảo Chu San... hình dạng như cây cung và tạo thành một Vạn Lý Tường Thành bảo vệ đại lục Trung Quốc."

Việt Nam nhấn mạnh một cách nghiêm túc rõ ràng rằng để xác lập chủ quyền lãnh thổ cần thiết phải đưa ra "những tài liệu nhà nước chính thức" và "những văn kiện có giá trị pháp lý". Những điều chúng tôi đã trích dẫn ở trên chính xác là "những tài liệu nhà nước chính thức" và "những văn kiện có giá trị pháp lý" của Việt Nam. Điều này chứng minh rõ ràng từ trước cho đến năm 1974 Chính phủ Việt Nam đã công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Giờ đây, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và tráo trở từ bỏ lập trường công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc ban đầu của họ và theo luật quốc tế đây là điều tuyệt đối không thể nào cho phép.



@Xoanquay ! Với thằng Đồng Già thì tao thấy nó đéo có cái gì gọi là có tài kinh bang tế thế. Mõm hô thì chắc bú khẹt cho thằng nào đó để đổi kấy ghế Thủ tướng. Nói thật ! Là so với Chu Ân Lai nó đéo có tí vé nào. Nói về Đồng thì không có tí nào về thành tựu trong quản lý Chính Phủ, điều hành kinh tế đất nước.
 
Nó diễn trò chủ quyền cho dân xem thôi, chứ nó đâu có muốn kiện tụng tranh chấp gì.
Tq đánh thì cắt mất đảo như năm 88, rồi bảo là không nên nổ súng.
Mấy cái đảo là cơ hội để kích động tinh thần dân tộc và hướng dư luận ra ngoài biển, để quần chúng quên đi cơm áo gạo tiền hằng ngày 🤣
 
@Xoanquay ! Với thằng Đồng Già thì tao thấy nó đéo có cái gì gọi là có tài kinh bang tế thế. Mõm hô thì chắc bú khẹt cho thằng nào đó để đổi kấy ghế Thủ tướng. Nói thật ! Là so với Chu Ân Lai nó đéo có tí vé nào. Nói về Đồng thì không có tí nào về thành tựu trong quản lý Chính Phủ, điều hành kinh tế đất nước.
CS thằng nào ko vậy 🤣😂🤣
 

Có thể bạn quan tâm

Top