

Nguồn hình ảnh,HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Một buổi lễ ở Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị, năm 1998
- Tác giả,Charles Keith
- Vai trò,Gửi cho BBC từ Michigan, Hoa Kỳ
- Tác giả,Alex-Thái Đình Võ
- Vai trò,Dịch
- một giờ trước
Tại các thành thị, người Công giáo nhiệt tình tham gia các cuộc biểu tình đòi độc lập, phủ kín các ngả đường. Các làng Công giáo ở nông thôn tự tổ chức những buổi lễ mừng riêng. Các chủng sinh trẻ tuổi bất chấp lệnh của các vị thừa sai yêu cầu không tham gia chính trị; một số cộng đồng thậm chí còn ngăn cản các thừa sai vào nhà thờ hoặc trục xuất họ hoàn toàn. Báo chí Công giáo và các hội đoàn giáo dân đã tích cực truyền tải tin tức chính trị và vận động người dân ủng hộ nền độc lập. Hình tượng tử đạo Công giáo – suốt nhiều thế kỷ là biểu tượng của sự ly khai và bách hại đối với người Công giáo Việt Nam – lúc bấy giờ, vào năm 1945, đã trở thành hiện thân của những hy sinh mà người Công giáo sẵn sàng dấn thân vì tổ quốc Việt Nam.
Tinh thần yêu nước ấy bắt nguồn từ những chuyển biến sâu sắc về văn hóa và chính trị trong đời sống Công giáo Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Sau Thế chiến I, Tòa Thánh Vatican chủ trương xây dựng các giáo hội quốc gia bền vững và tự chủ tại châu Á và châu Phi, thoát khỏi sự giám sát của các hội thừa sai. Năm 1925, Tòa Thánh Roma bổ nhiệm vị đại diện Giáo hoàng đầu tiên trực tiếp đến Việt Nam, và đến năm 1933, đã truyền chức giám mục cho người Việt Nam đầu tiên: Đức cha Nguyễn Bá Tòng.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông đã tạo điều kiện cho người Công giáo từ khắp nơi trong nước tham gia các Đại hội Thánh thể và hành hương Đức Mẹ. Trình độ dân trí ngày càng nâng cao giúp người Công giáo Việt Nam đọc được ngày càng nhiều ấn phẩm quốc ngữ, qua đó họ cảm nhận rõ hơn mối liên kết giữa các cộng đồng Công giáo trong nước cũng như với thế giới Công giáo toàn cầu. Những chuyển biến như vậy đã hình thành một ý thức tôn giáo dân tộc mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy làn sóng chủ nghĩa dân tộc chính trị bùng nổ trong đời sống Công giáo Việt Nam vào năm 1945 và những năm sau đó.
Chủ nghĩa dân tộc Công giáo hiện đại ở Việt Nam phản ánh hai định hướng tư tưởng chính, cả hai đều xuất hiện từ thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Thứ nhất là Công giáo Xã hội, vốn bắt nguồn từ nhiều thập niên phê phán chủ nghĩa tư bản công nghiệp trong giới Công giáo châu Âu. Quan điểm này cho rằng đạo đức và lòng bác ái không còn đủ để giải quyết tình trạng bất bình đẳng và khốn khó về kinh tế, và rằng nhà nước cần can thiệp tích cực hơn để bảo đảm phúc lợi và phẩm giá cho mọi người. Tại Việt Nam, Công giáo Xã hội phát triển như một phản ứng trước những bất cập và lạm dụng của chế độ thực dân, đặc biệt là trong giai đoạn Đại Khủng hoảng những năm 1930.
Tư tưởng thứ hai là chủ nghĩa chống cộng, được hình thành từ lập trường phản đối của Tòa Thánh Vatican đối với một hệ tư tưởng chính trị toàn cầu mà Giáo hội xem là vô thần và trái luân lý. Chủ nghĩa chống cộng bắt đầu lan rộng trong cộng đồng Công giáo Việt Nam sau các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930–1931 (khi một số cộng đồng Công giáo trở thành mục tiêu tấn công), cũng như trong làn sóng hoạt động hợp pháp của phong trào ******** tại Đông Dương vào các năm 1936–1937.

Nguồn hình ảnh,AFP via Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Trước Nhà thờ Thánh Giuse (Nhà thờ Lớn Hà Nội) vào năm 1954
Vào năm 1945, tinh thần chống cộng nhanh chóng pha trộn vào sự hào hứng với độc lập dân tộc. Cuối năm 1946, khi súng đạn vang lên giữa Việt Nam và Pháp, nhiều tín hữu Công giáo đã mang trong lòng nỗi bất an trước ảnh hưởng ngày càng lớn của ******** trong bộ máy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các đảng phái không ******** phần lớn đã bị loại khỏi bộ máy chính quyền, và nhà nước bắt đầu tìm cách kiểm soát chặt chẽ hơn các hội đoàn và trường học Công giáo.
Lê Hữu Từ, vị giám mục đầy quyền uy của Giáo phận Phát Diệm với ảnh hưởng lớn trong giới Công giáo, vẫn duy trì đối thoại với các lãnh đạo ******** nhưng cũng bắt đầu thúc đẩy việc mở rộng quyền tự chủ trước sự kiểm soát của nhà nước ********. Cho đến năm 1950, Phát Diệm cùng với giáo phận lân cận là Bùi Chu – vùng đất được xem là trung tâm lịch sử của Công giáo Việt Nam – vẫn phần lớn nằm ngoài quyền kiểm soát của cả chính quyền Pháp lẫn ********. Hai giáo phận này đã tổ chức được các lực lượng vũ trang riêng, một hệ thống thông tin – tuyên truyền, cùng với các tờ báo và đài phát thanh của chính mình. Tại miền Nam, nơi cộng đồng Công giáo phân bố rải rác hơn và lực lượng ******** chưa thiết lập được thế độc quyền chính trị như ở miền Bắc, nhiều người Công giáo vẫn tiếp tục tham gia vào phong trào kháng chiến chống Pháp với thành phần tư tưởng đa dạng và linh hoạt hơn.
Vị thế của người Công giáo Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập đã thay đổi nhanh chóng từ năm 1950 trở đi. Chiến thắng của phe ******** tại Trung Quốc vào năm 1949 không chỉ cung cấp hậu thuẫn vật chất cho phong trào ******** Việt Nam mà còn tiếp thêm nhiệt huyết về mặt ý thức hệ. Mối đe dọa ******** ngày càng lan rộng tại châu Á đã thúc đẩy Pháp và các lực lượng chính trị chống cộng người Việt hợp tác thành lập Quốc gia Việt Nam, như một giải pháp dân tộc chủ nghĩa nhằm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tòa Thánh Roma đã công nhận Quốc gia Việt Nam vào đầu năm 1950.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Hai người đang cầu nguyện trong một nhà thờ tại Sài Gòn vào năm 1959
Chiến tranh leo thang sau năm 1950 đã dần làm xói mòn quyền tự chủ của hai giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu, vốn rơi vào quyền kiểm soát của Quốc gia Việt Nam sau năm 1951. Khi hàng giáo phẩm chọn đứng hẳn về phía phi ********, người Công giáo sống trong các vùng do chính quyền Việt Minh kiểm soát bắt đầu phải đối mặt với sự nghi kỵ ngày càng tăng và những hạn chế chặt chẽ hơn trong đời sống hằng ngày. Một số ít linh mục và trí thức Công giáo vẫn tiếp tục công khai ủng hộ Việt Minh sau năm 1951, phần lớn là do niềm tin chân thành, nhưng từ thời điểm đó trở đi, họ đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Công giáo.
Chiến thắng của lực lượng ******** tại Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đã đặt ra cho phần lớn người Công giáo miền Bắc – cũng như nhiều người dân khác trong khu vực – một lựa chọn vô cùng khó khăn: nên ở lại quê hương dưới sự quản lý của chính quyền ********, hay rời bỏ tất cả để đi vào một tương lai bất định ở miền Nam phi ********?
Một đa số rõ rệt trong cộng đồng Công giáo miền Bắc – từ hai phần ba đến ba phần tư – đã chọn rời đi, nhưng đó không phải là một quyết định dễ dàng hay hiển nhiên. Những người lựa chọn ra đi đã làm vậy vì nhiều lý do: lo ngại về những giới hạn đối với tự do tôn giáo, quan ngại về điều kiện kinh tế khó khăn tại miền Bắc, sự ủng lập trường chống cộng không nhất thiết gắn với đức tin, ảnh hưởng từ giới giáo sĩ, cũng như tác động từ các chiến dịch tuyên truyền do Hoa Kỳ dẫn đầu (mặc dù chiến dịch tuyên truyền này có phần nổi bật, nhưng cuối cùng lại không mang tính quyết định). Sau giai đoạn tạm trú ban đầu tại các trại tỵ nạn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành tái định cư người Công giáo miền Bắc trên khắp miền Nam, theo một phương án mà họ kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh chính trị.
Tuy nhiên, đã có hàng trăm ngàn người Công giáo lựa chọn không rời miền Bắc vào năm 1954. Họ cũng có nhiều lý do khác nhau. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngăn cản một số người di cư, nhưng cũng có nhiều người chủ động ở lại vì niềm hy vọng dè dặt vào một bối cảnh chính trị hậu chiến ổn định hơn, vì mối ràng buộc với gia đình và cộng đồng, vì mong muốn giữ gìn đất đai và tài sản tổ tiên, hoặc đơn giản chỉ vì lo sợ trước một tương lai bất định ở miền Nam.
Trong thời chiến, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với người Công giáo bằng sự nghi kỵ và thù địch. Họ cấm các trường học của giáo xứ, hạn chế nghiêm ngặt hoạt động của các hội đoàn Công giáo và theo dõi chặt chẽ các linh mục cùng giới tu sĩ. Chỉ sau một thời gian ngắn, phần lớn người Công giáo đã cảm thấy bất mãn sâu sắc với chế độ ********. Cuộc nổi dậy lớn nhất chống lại chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 diễn ra tại Quỳnh Lưu – một huyện có đông đảo giáo dân. Mặc dù chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hạn chế mạnh mẽ vai trò của Tòa Thánh Vatican trong đời sống giáo hội, nhưng khác với Trung Quốc, họ không bao giờ thành lập một hệ thống giáo hội độc lập để đối trọng với Roma.
Ngô Đình Diệm dựa nhiều vào các mạng lưới đồng minh chính trị trong giới Công giáo để bổ nhiệm nhân sự vào các vị trí quan trọng trong chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Điều này mang lại cho một số cá nhân, cộng đồng và tổ chức Công giáo cơ hội tiếp cận đặc quyền đối với quyền lực và tài nguyên nhà nước. Ảnh hưởng của Công giáo đặc biệt rõ nét tại Huế và vùng phụ cận, nơi một người anh của Diệm – Ngô Đình Thục – làm tổng giám mục, và một người em – Ngô Đình Cẩn – dùng lực lượng dân vệ và mật vụ để cai trị bằng bàn tay sắt.
Sự đa dạng trong văn hóa và chính trị Công giáo tại miền Nam Việt Nam đã thể hiện rõ ngay sau khi đất nước bị chia cắt. Phần lớn người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam cùng với toàn bộ giáo xứ của họ, thường được tổ chức thành những làng có đa số hoặc hoàn toàn là giáo dân. Cả chính quyền Việt Nam Cộng hòa lẫn giới giáo quyền (đặc biệt là giám mục Phạm Ngọc Chỉ, một nhân vật có ảnh hưởng lớn, người đã dẫn đầu cuộc di cư từ Bùi Chu và sau đó đảm nhiệm Giáo phận Quy Nhơn) đều nỗ lực duy trì các cộng đồng này tại miền Nam. Tuy nhiên, điều đó đã gây khó khăn cho quá trình hội nhập về tinh thần và xã hội với người Công giáo bản địa, vốn có đời sống trần thế không bị chi phối mạnh mẽ bởi cấu trúc làng đạo và ảnh hưởng của giới giáo sĩ như ở miền Bắc.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Tổng giám mục Ngô Đình Thục (thứ ba từ trái) và Tổng thống Ngô Đình Diệm (thứ hai từ phải) vào năm 1963