I. Tay trắng thành bà chủ
Súng đã nổ và bà Nguyễn đã chết.
Các thành viên của đội hành quyết, xách súng chạy thục mạng vào rừng, ôm nhau khóc nức nở.
- Tại sao lại bắn mẹ Nguyễn? Tại sao? – Họ bàng hoàng hỏi nhau.
Hai trong số năm người của đội hành quyết sau đó phát cơn điên, chữa mãi không khỏi. Ba người còn lại thì hai ông gần đây đã chết vì tuổi tác, vì bệnh tật. Người cuối cùng tên Tuấn, năm nay sáu mươi tư tuổi, tóc bạc
như phấn, lưng hơi còng và tết năm nào cũng trốn nhà ra đi.
Ông đi đâu? Ông về đúng cái chỗ ngày trước bà Nguyễn đã gục xuống, thắp hương trên mộ bà, sì sụp khấn vái.
- Bà ơi! Con không bắn bà đâu! Không phải con!
Khô…ô…ng ph…ai…ải – Ông gào lên và nức nở như con nít.
Ông vẫn nhớ như in cái giây phút khủng khiếp ấy…
Lúc đó, viên đội trưởng hành quyết hô liền ba lệnh:
- Nâng súng!
- Lên đạn!
- Kẻ thù phía trước, bắn!
Ở gốc cây trước mặt, bà Nguyễn giật nảy lên. Máu.
Và tiếng bà Nguyễn rất rành rõ:
- Hồn tôi sẽ nhập vào cây rừng và chứng kiến cuộc đời của các người.
Viên đội trưởng tiến về phía người bị bắn, đếm to như hét:
- Một, hai, ba, bốn một phát không trúng đích.
Rồi y rút súng ngắn ra, gí sát tai bà Nguyễn, bóp cò.
“Một phát không trúng đích”. Bao nhiêu năm qua,ông Tuấn cứ đinh ninh phát súng bắn trượt kia là của ông. Ông vịn vào điều rất mong manh kia để an ủi lương tâm mình mà sống cho đến bây giờ.
Vì tò mò, tôi cũng đã một lần trốn nhà, bỏ hết, bám theo ông Tuấn lên cái bãi bắn ấy.
Tôi vịn vào cây rừng rồi vụt phắt tay lại, hoảng hốt như vịn vào một người đàn bà đang run rẩy.
Gió thì thầm. Tán lá thầm thì…
“Có phải bà Nguyễn đấy chăng! Bà nói đi! Hãy nói thật nhiều nhưng đừng khóc, thưa bà”.
Chuyện cũ. Vâng! Lâu lắm rồi. Xưa như một giấc mơ thời thơ ấu. Nhưng tôi vẫn muốn kể lại vì bà Nguyễn là một nhà doanh nghiệp tài ba. Không. Còn một lý do nữa tôi yêu bà. Dù bà sinh trước tôi một thế hệ nhưng chắc chắn là tôi yêu bà.
Trời ơi! Nếu tôi sinh cùng thời với bà, hẳn ngày ấy tôi cũng được lĩnh năm viên đạn vào ngực như bà và điều đó với tôi là một hạnh phúc, một hạnh phúc vô bờ.
Bà ơi! Tận bây giờ người Hải Phòng vẫn thường nhắc tên bà đấy. Người ta vẫn thường trầm trồ về bà.
Người ta nắc nỏm khen một bà chủ vật liệu xây dựng giàu có nhất Hải Phòng.
Tôi đã nhiều lần xuống chợ Sắt, đứng ở nơi xưa bà đã đứng, những lối xưa bà từng đi.
Nơi bà lập nghiệp lần thứ hai – cái miền trung du xa xôi ấy, tôi cũng đã đến. Ở đó, không biết từ lúc nào và không rõ ai đã xây cho bà một ngôi đền nhỏ. Những bác nông dân quê mùa không biết tạc tượng. Chỉ mình tôi tạc tượng bà trong tim tôi.
Người ta sinh ra chưa là triệu phú. Bà Nguyễn cũng vậy. Hai cụ thân sinh của bà Nguyễn là những người buôn bán nhỏ, không nghèo nhưng cũng chẳng phải là giàu. Như phần đông những người con gái thời ấy, bà Nguyễn lấy chồng sớm. Chồng bà là anh con trai độc nhất của một chủ vựa nước mắm. Cả một đời ông bố trần lưng ra lao động, kiếm tiền để cho anh con trai tiêu xài, phá tán. Có lần, anh chở hai thuyền buồm nước mắm lên Hà Nội bán rồi lên phố Khâm Thiên chơi một tháng ròng và về nhà với hai bàn tay trắng và cặp mắt lờ đờ như chuột say khói. Sau khi bố mất, anh là người “có tài” trong một thời gian ngắn đã đẩy cả cơ nghiệp tới chỗ phá sản hoàn toàn. Bà Nguyễn phải giơ đôi vai bé nhỏ gánh lấy cơ nghiệp của nhà chồng, nuôi năm miệng ăn (chồng, mẹ chồng, hai con trai và bản thân mình). Bà mở một quán ăn nhỏ, bán ngẩu pín, thịt chó, rượu trắng và bún rối.
Chỉ khi Pháp xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng,bà Nguyễn mới đổi hướng kinh doanh.
- Tây nó làm nhà Tây bằng gì? – Bà Nguyễn hỏi các bác thợ xây.
- Bằng xi măng và sắt.
Thế là bà Nguyễn chuyển sang buôn sắt, vì bà thấy cả nước Nam ta chưa có một nhà máy nào làm ra sắt cả.
Mới đầu, kho sắt của bà Nguyễn mới chỉ vài ba tấn, rồi lên hàng chục hàng trăm tấn. Về sau, bà Nguyễn thành bà chúa sắt. Những con tàu khổng lồ chở sắt từ Pháp sang cập bến cảng Hải Phòng và những chiếc xe cam nhông ùn ùn chở sắt về kho bà Nguyễn.
Làng tôi bấy giờ, hơn tám trăm hộ, đậu trên một cồn cứt sắt lớn. Bởi tổ nghiệp chúng tôi làm nghề nấu sắt.
Quốc sử chép rằng: “Làng Nho Lâm, Diễn Châu, Nghệ An là trung tâm luyện sắt đầu tiên của người Việt cổ”.
Làng tôi sống nhờ nghề sắt, đóng thuế cho nhà vua cũng bằng sắt. Sắt nấu ra, đổ thành cục, thành thỏi, rèn thành liềm, hái, giáo, mác… Cứt sắt thải ra, đổ thành cồn đống, gò bãi, thành thổ cư của cả làng.
Bà tôi kể rằng: “Lần đầu nhìn thấy thanh sắt tây, cả làng tôi mấy đêm liền không ai ngủ được. Những lò than vẫn cháy. Cả làng vẫn hồng rực lên. Quặng trong nồi hông vẫn chảy ra, sáng đến nhức nhối cả con mắt,nhưng chẳng để làm gì nữa cả. Loại sắt thứ cấp, nấu bằng nồi hông ấy không bán được nữa”. Từ đó, làng tôi chuyển sang nghề nông và buôn chữ, ăn cháo, ăn khoai,chặt roi rèn con cháu học hành để sau này có cả mấy chục giáo sư, tiến sĩ.
Thanh sắt tây của bà Nguyễn trùm chợ Sắt đã về làng tôi năm xưa đấy. Cả tôi, cả ông bà, cụ kỵ của tôi không ai biết mặt bà, nhưng chính bà đã buộc cả làng tôi phải đổi nghề, bới đất mà sống, mút cá gỗ mà đi thi.
Cũng không phải chỉ người làng tôi phải đổi nghề.
Thời đó, ở đất Bắc này, nhiều người phải đổi nghề, sập tiệm vì đã dại dột cạnh tranh với bà Nguyễn trong nghề buôn bán sắt thép. Bà là nhà buôn tài giỏi và độc đoán,không cho phép ai qua mặt, là người đàn bà sắt thép nhất, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
II. Ra đi từ đổ vỡ
Có thể lấy cuộc đời bà Nguyễn để làm ví dụ cho số mệnh. Với người con gái, lấy chồng là việc hệ trọng nhất. Nếu lấy phải một anh chồng hư hỏng, đời người đàn bà sẽ tan nát. Số mệnh đã đặt lên vai bà Nguyễn cái gánh nặng nề nhất, ấy là ông chồng. Đức lang quân của bà Nguyễn không biết làm gì cả ngoài việc hút thuốc phiện và chơi cô đầu. Vợ càng giàu, ông càng hút khỏe và chơi khỏe. Ngày, ông ngủ li bì để tối lại lỉnh đi. Ông về nhà trong tiếng gà gáy xao xác, quần áo xộc xệch,
tóc tai rối bù, người sực mùi son phấn đàn bà. Rồi một hôm, ông mang về nhà một cô đầu trẻ, sống với nhau tự nhiên như vợ chồng. Cô gái làng chơi ranh ma vớ được lão đàn ông dại gái cứ bám riết lấy, không chịu nhả ra.
Bà Nguyễn đành chịu thua vì đây là tình trường chứ không phải thương trường. Và bà Nguyễn ra đi, mang theo cả hai đứa con trai mà bà yêu quý còn hơn cả con chiên yêu chúa. Bà mẹ, khi yếu lòng, chỗ vịn chắc chắn nhất là đứa con.
Ba mẹ con bà Nguyễn dắt díu nhau lên trung du. Bà Nguyễn không đi ở ẩn, cũng không chạy trốn bất hạnh.
Bà không thuộc loại người yếu mềm. Khí chất bà mạnh mẽ, tính cách bà cứng cỏi, đầu óc bà minh mẫn, con người ấy không dễ sụp đổ. Bà Nguyễn lên trung du là để xây dựng một cơ nghiệp khác.
Vào năm 1993 này, tôi đã dành nhiều ngày khảo sát lại vùng đồn điền của bà Nguyễn khi xưa. Hai nghìn tám trăm hec-ta đất đồi ngày ấy là cơ ngơi của bà. Bây giờ,những quả đồi lúp xúp ấy ngút ngàn chè xanh, còn những khoảng ruộng bậc thang ở thung lũng thì mơn mởn lúa xuân. Còn năm Ất Dậu, khi bà Nguyễn lên đây,vùng đất này còn hoang dại mù mịt. Những quả đồi cớm bóng cây, ẩm ướt và đầy sên, vắt. Đêm ngủ trong căn nhà mới dựng tạm, còn ngái mùi tre hương, bà Nguyễn chốc chốc lại giật mình thon thót bởi tiếng con trăn gió quăng mình rào rào trên tán lá, tiếng con hổ đói mồi tóp tép đâu đó sau chái nhà.
Việc đầu tiên của bà Nguyễn là cứu đói. Bà tung tiền ra mua thóc gạo, khoai sắn và kêu gọi bà con nông dân:
“Đừng đi ăn mày, hãy đi phát rừng, đốt rẫy và nhận thóc gạo mà về nuôi nhau”. Hàng chục nghìn người nghe bà đi khai hoang, mở đất. Một mình bà chống lại nạn đói năm Ất Dậu. Một tay bà tổ chức khai khẩn cả một vùng bán sơn địa mênh mông và màu mỡ. Bà cho tậu hàng đàn trâu, bò. Bà dựng từng dãy lán trại chứa người làm thuê. Bà tổ chức cấy lúa, trồng sắn, trồng mía. Rồi bà nhập thiết bị từ Pháp về làm đường kính. Hạt đường kính đầu tiên của Việt Nam ra đời ở đây, nơi còn nguyên vẹn cả một nền bê tông rộng rãi và kiên cố mà thời gian và mưa gió không xóa được. Và bà buôn gỗ, khai thác tre,
nứa, chở về xuôi bán… Bà giàu lên nhanh chóng. Thóc gạo chứa đầy những dãy kho lớn. Tiền lèn chặt các két sắt. Công việc kinh doanh cuốn hút bà, lấn át cả nỗi sầu muộn riêng tư trong lòng bà. Chỉ về đêm, khi các con đã ngủ say, bà một mình một đèn, một bóng, nỗi trống vắng mới có cơ len lỏi vào tâm hồn bà, hành hạ bà đến giàn giụa nước mắt. Những lúc ấy, bà thấm thía sự bất lực của đồng tiền. Người ta sinh ra đồng tiền để phục vụ con người, có nghĩa là đồng tiền bé nhỏ hơn con người.
Nếu không có con người, đồng tiền sẽ trở nên vô nghĩa.
Những lúc ấy, bà Nguyễn nghĩ nhiều về hai đứa con trai bà. Chúng sẽ ra sao nếu cả đời chúng chỉ biết có tiền?
Bà rọi đèn, lặng im ngắm chúng ngủ. Hai gương mặt bừng sáng kia chả nhẽ lại chỉ biết có đồng tiền? Không.
Chúng phải được sống cho đẹp hơn, phải biết đến hoài bão, lý tưởng. Có một đêm, bà Nguyễn đã nghĩ về hai con như vậy. Và bà quyết định cho chúng vào bộ đội.
Nước nhà vừa độc lập. Kẻ thù đang lao vào xâu xé. Làm trai thời buổi này mà không đi giữ nước thì sống làm gì?
Bà Nguyễn đã chọn hướng đi cho các con bà. Và, một khi bà đã quyết, có nghĩa điều đó sẽ trở thành hiện thực.
Sau ngày tiễn hai con tòng quân, bà Nguyễn ốm mất mấy hôm. Bà hẫng hụt như vừa bị đánh mất cái gì đó vô cùng quý báu. Bao năm qua, bà chăm bẵm các con,
chúng luôn trong vòng tay bà, hoàn toàn thuộc về bà.
Giờ chúng ra đi, như con chim đủ lông, đủ cánh bay vào bầu trời, cánh tay tuổi tác của bà không với tới được.
Chúng đã thuộc về bầu trời thăm thẳm, rộng lớn kia,
không còn là của riêng bà nữa. Chúng có thể trở về và cũng có thể không trở về. Chiến tranh như trận cuồng phong và thân phận con người như chiếc lá nhỏ, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đứt ra khỏi thân cành và cuốn đi,
cuốn mãi đi trong cõi mịt mù. Những điều đó, chỉ thoáng nghĩ thôi, bà Nguyễn đã sợ đến vã mồ hôi hột.
Song, bà Nguyễn không giống như những người đàn bà khác, Những khổ đau phiền muộn không đánh gục được bà. Vả lại, bây giờ bà đã là bà chủ đồn điền. Ngày trước, ở Hải Phòng buôn sắt thép, bà Nguyễn chỉ có hai chục người làm. Còn bây giờ, đồn điền của bà có hơn hai nghìn người, gồm nông phu, thợ sơn tràng và công nhân của xí nghiệp đường. Cả guồng máy đồ sộ này trông mong vào sự quán xuyến của bà. Vắng bà, mọi sự sẽ bế tắc và đổ vỡ. Lúc đó, bát cơm manh áo của cả đồn điền sẽ bị đe dọa. Lại nữa, vài năm gần đây đã mọc thêm nhiều đồn điền khác của các ông chủ Tây. Những nhà doanh nghiệp mũi lõ, từ bên kia đại dương đã lục tục kéo nhau sang đây, khai khẩn vùng bán sơn địa màu mỡ này và khai thác sức lao động rẻ mạt của những người Việt Nam chân đất. Đằng sau các ông chủ ấy có phủ Toàn quyền, có mật thám, cảnh sát và những binh đoàn lê dương… Ỷ thế mạnh, các ông chủ Tây lăm le đè bẹp các ông chủ An Nam. Chỉ nội việc đó thôi đã khiến bà Nguyễn điên máu. Bà âm thầm thách thức tất thảy.
Không có quân đội, cảnh sát và chính quyền thực dân đứng phía sau, bà Nguyễn chỉ có tấm lòng, chút tài năng làm giàu và hơn hai nghìn người Việt Nam da vàng, máu đỏ. Họ là đồng minh bền chặt của bà. Hơn nữa, bà với họ có chung một tên gọi thiêng liêng – đồng bào.
III. Ba lần bất hạnh
- Con ơi! Mẹ bây giờ trở nên thừa thãi quá!
Ấy là tiếng khóc của bà Nguyễn khi nhận được tin đứa con nuôi hy sinh ngoài mặt trận. Tiếng kêu xé ruột khiến cả đồn điền rưng rưng.
Rồi bà Nguyễn ốm liệt giường suốt sáu tháng trời.
Song đồn điền của bà vẫn làm ăn hưng phát. Lúa vẫn trĩu bông, chè vẫn xanh ngát các sườn đồi và tháng heo may, đồn điền vẫn thơm mùi mật mía.
Sau khi bình phục, bà Nguyễn biến đồn điền của mình thành hậu cứ của các trung đoàn bộ đội chủ lực.
Bà cho lập những khu lán trại thênh thang, đủ sức chứa hàng nghìn người. Các chiến sĩ trên đường ra trận, dừng chân tại đồn điền của bà, có cơm nóng ăn, có nước suối ngâm đôi chân phồng rộp. Sáng mai, khi họ lên đường,
bà Nguyễn gửi theo mỗi chiến sĩ một chiếc khăn bông và một nắm cơm. Bà thương các chiến sĩ như con đẻ. Họ gọi bà là mẹ Nguyễn.
Các chủ đồn điền người Pháp lục tục xách va li về nước. Các nhà tư sản người Việt cũng rủ nhau vào Nam.
Ấy là khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sắp sửa kết thúc. Người ta đồn rằng sau khi đã đánh đuổi được giặc Pháp ra khỏi bờ cõi, người ta sẽ đánh đến những người giàu. Bà Nguyễn không tin điều đó. Lẽ nào lại như thế? Giàu có đâu phải là tội ác. Nếu làm giàu là tội lỗi thì đất nước này còn nghèo đến bao giờ? Lại nữa,bà Nguyễn càng tin hơn ở sự đóng góp của bà. Nếu không giàu, bà lấy đâu ra một trăm cây vàng để hiến cho cách mạng những ngày đất nước còn khó khăn? Nếu không giàu bà lấy đâu ra hàng trăm tấn gạo để nuôi quân suốt mấy chiến dịch? Bà là người sống đầy tự tin. Nếu thiếu niềm tin và sự tự quyết hẳn bà không giàu được đến thế.
Ngày chiến thắng, các binh đoàn từ rừng rú kéo về xuôi, tiếp quản Thủ đô. Bà Nguyễn mổ bò, giết lợn, nấu bao nhiêu là cơm chuẩn bị đón các chiến sĩ.
Nhưng các đoàn quân cứ đi qua, đi qua.
Bà Nguyễn chạy ra đường, đon đả mời chào:
- Mời các con vào nghỉ chân đã. Cơm nước mẹ nấu sẵn cả rồi.
Im lặng. Những cặp mắt nhìn bà lạnh băng. Đâu rồi những nụ cười cởi mở cùng những ánh mắt ấm áp của các chiến sĩ? Đâu rồi những tiếng “Chào mẹ Nguyễn” tíu tít và tin cậy? Vì sao mà cả những đứa từng nhận bà là mẹ nuôi; từng được bà cho áo, cho tiền giờ đi qua cũng ngoảnh mặt đi? Bà có lỗi gì?
Một đoàn quân nghỉ chân gần trạm tiếp đón của bà Nguyễn nhưng chẳng ai vào. Khó khăn lắm bà Nguyễn mới được phép của cấp chỉ huy nói vài câu với những người lính:
- Các con! Bao lâu nay mẹ xem các con như con,đứa nào cũng là con trai của mẹ. Mẹ dựng lán trại để các con nghỉ chân, mẹ tích trữ gạo thịt để khi các con về thì có cái mà ăn. Nếu mẹ có thiếu sót gì thì các con cứ nói thật để mẹ sửa. Các con đừng để bụng và lạnh lùng như thế, mẹ tủi thân lắm.
Cả đoàn quân im lặng như đá.
Viên chỉ huy ra lệnh:
- Nghiêm! Đi đề…u, bước.
Bà Nguyễn đứng nhìn theo đoàn quân đi xa dần, xa dần. Nước mắt bà lặng lẽ trào ra, lăn nặng trĩu trên gò má sạm nắng. Chưa bao giờ bà thấy đau khổ và hoang mang như bây giờ. Trời sinh ra bà để làm bà chủ. Bà khao khát làm giàu như các thi sĩ khao khát làm thơ và các nhà chính trị khao khát làm cách mạng. Chẳng lẽ điều đó là tội lỗi?
Có cái gì đó buốt lạnh chạy dọc sống lưng rồi lan khắp cơ thể, khiến bà Nguyễn rùng mình. Bà mơ hồ linh cảm thấy tai họa đang đến gần.
Lúc này, nếu bà Nguyễn chạy vào Nam thì chắc chắn vẫn kịp. Song, bà quyết không chạy. Là người của kháng chiến, hết lòng vì kháng chiến, bà không muốn biến mình thành con thú bị săn đuổi. Vả lại, khi niềm tin đã bị phản bội thì bà sống thêm nữa cũng chẳng để làm gì. Người ta không thể sống thiếu niềm tin. Là người trọng sự thủy chung, bà Nguyễn biết tin và sẵn sàng chết vì niềm tin.
Và, súng đã nổ…
Súng đã nổ và bà Nguyễn đã chết.
Các thành viên của đội hành quyết, xách súng chạy thục mạng vào rừng, ôm nhau khóc nức nở.
- Tại sao lại bắn mẹ Nguyễn? Tại sao? – Họ bàng hoàng hỏi nhau.
Hai trong số năm người của đội hành quyết sau đó phát cơn điên, chữa mãi không khỏi. Ba người còn lại thì hai ông gần đây đã chết vì tuổi tác, vì bệnh tật. Người cuối cùng tên Tuấn, năm nay sáu mươi tư tuổi, tóc bạc
như phấn, lưng hơi còng và tết năm nào cũng trốn nhà ra đi.
Ông đi đâu? Ông về đúng cái chỗ ngày trước bà Nguyễn đã gục xuống, thắp hương trên mộ bà, sì sụp khấn vái.
- Bà ơi! Con không bắn bà đâu! Không phải con!
Khô…ô…ng ph…ai…ải – Ông gào lên và nức nở như con nít.
Ông vẫn nhớ như in cái giây phút khủng khiếp ấy…
Lúc đó, viên đội trưởng hành quyết hô liền ba lệnh:
- Nâng súng!
- Lên đạn!
- Kẻ thù phía trước, bắn!
Ở gốc cây trước mặt, bà Nguyễn giật nảy lên. Máu.
Và tiếng bà Nguyễn rất rành rõ:
- Hồn tôi sẽ nhập vào cây rừng và chứng kiến cuộc đời của các người.
Viên đội trưởng tiến về phía người bị bắn, đếm to như hét:
- Một, hai, ba, bốn một phát không trúng đích.
Rồi y rút súng ngắn ra, gí sát tai bà Nguyễn, bóp cò.
“Một phát không trúng đích”. Bao nhiêu năm qua,ông Tuấn cứ đinh ninh phát súng bắn trượt kia là của ông. Ông vịn vào điều rất mong manh kia để an ủi lương tâm mình mà sống cho đến bây giờ.
Vì tò mò, tôi cũng đã một lần trốn nhà, bỏ hết, bám theo ông Tuấn lên cái bãi bắn ấy.
Tôi vịn vào cây rừng rồi vụt phắt tay lại, hoảng hốt như vịn vào một người đàn bà đang run rẩy.
Gió thì thầm. Tán lá thầm thì…
“Có phải bà Nguyễn đấy chăng! Bà nói đi! Hãy nói thật nhiều nhưng đừng khóc, thưa bà”.
Chuyện cũ. Vâng! Lâu lắm rồi. Xưa như một giấc mơ thời thơ ấu. Nhưng tôi vẫn muốn kể lại vì bà Nguyễn là một nhà doanh nghiệp tài ba. Không. Còn một lý do nữa tôi yêu bà. Dù bà sinh trước tôi một thế hệ nhưng chắc chắn là tôi yêu bà.
Trời ơi! Nếu tôi sinh cùng thời với bà, hẳn ngày ấy tôi cũng được lĩnh năm viên đạn vào ngực như bà và điều đó với tôi là một hạnh phúc, một hạnh phúc vô bờ.
Bà ơi! Tận bây giờ người Hải Phòng vẫn thường nhắc tên bà đấy. Người ta vẫn thường trầm trồ về bà.
Người ta nắc nỏm khen một bà chủ vật liệu xây dựng giàu có nhất Hải Phòng.
Tôi đã nhiều lần xuống chợ Sắt, đứng ở nơi xưa bà đã đứng, những lối xưa bà từng đi.
Nơi bà lập nghiệp lần thứ hai – cái miền trung du xa xôi ấy, tôi cũng đã đến. Ở đó, không biết từ lúc nào và không rõ ai đã xây cho bà một ngôi đền nhỏ. Những bác nông dân quê mùa không biết tạc tượng. Chỉ mình tôi tạc tượng bà trong tim tôi.
Người ta sinh ra chưa là triệu phú. Bà Nguyễn cũng vậy. Hai cụ thân sinh của bà Nguyễn là những người buôn bán nhỏ, không nghèo nhưng cũng chẳng phải là giàu. Như phần đông những người con gái thời ấy, bà Nguyễn lấy chồng sớm. Chồng bà là anh con trai độc nhất của một chủ vựa nước mắm. Cả một đời ông bố trần lưng ra lao động, kiếm tiền để cho anh con trai tiêu xài, phá tán. Có lần, anh chở hai thuyền buồm nước mắm lên Hà Nội bán rồi lên phố Khâm Thiên chơi một tháng ròng và về nhà với hai bàn tay trắng và cặp mắt lờ đờ như chuột say khói. Sau khi bố mất, anh là người “có tài” trong một thời gian ngắn đã đẩy cả cơ nghiệp tới chỗ phá sản hoàn toàn. Bà Nguyễn phải giơ đôi vai bé nhỏ gánh lấy cơ nghiệp của nhà chồng, nuôi năm miệng ăn (chồng, mẹ chồng, hai con trai và bản thân mình). Bà mở một quán ăn nhỏ, bán ngẩu pín, thịt chó, rượu trắng và bún rối.
Chỉ khi Pháp xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng,bà Nguyễn mới đổi hướng kinh doanh.
- Tây nó làm nhà Tây bằng gì? – Bà Nguyễn hỏi các bác thợ xây.
- Bằng xi măng và sắt.
Thế là bà Nguyễn chuyển sang buôn sắt, vì bà thấy cả nước Nam ta chưa có một nhà máy nào làm ra sắt cả.
Mới đầu, kho sắt của bà Nguyễn mới chỉ vài ba tấn, rồi lên hàng chục hàng trăm tấn. Về sau, bà Nguyễn thành bà chúa sắt. Những con tàu khổng lồ chở sắt từ Pháp sang cập bến cảng Hải Phòng và những chiếc xe cam nhông ùn ùn chở sắt về kho bà Nguyễn.
Làng tôi bấy giờ, hơn tám trăm hộ, đậu trên một cồn cứt sắt lớn. Bởi tổ nghiệp chúng tôi làm nghề nấu sắt.
Quốc sử chép rằng: “Làng Nho Lâm, Diễn Châu, Nghệ An là trung tâm luyện sắt đầu tiên của người Việt cổ”.
Làng tôi sống nhờ nghề sắt, đóng thuế cho nhà vua cũng bằng sắt. Sắt nấu ra, đổ thành cục, thành thỏi, rèn thành liềm, hái, giáo, mác… Cứt sắt thải ra, đổ thành cồn đống, gò bãi, thành thổ cư của cả làng.
Bà tôi kể rằng: “Lần đầu nhìn thấy thanh sắt tây, cả làng tôi mấy đêm liền không ai ngủ được. Những lò than vẫn cháy. Cả làng vẫn hồng rực lên. Quặng trong nồi hông vẫn chảy ra, sáng đến nhức nhối cả con mắt,nhưng chẳng để làm gì nữa cả. Loại sắt thứ cấp, nấu bằng nồi hông ấy không bán được nữa”. Từ đó, làng tôi chuyển sang nghề nông và buôn chữ, ăn cháo, ăn khoai,chặt roi rèn con cháu học hành để sau này có cả mấy chục giáo sư, tiến sĩ.
Thanh sắt tây của bà Nguyễn trùm chợ Sắt đã về làng tôi năm xưa đấy. Cả tôi, cả ông bà, cụ kỵ của tôi không ai biết mặt bà, nhưng chính bà đã buộc cả làng tôi phải đổi nghề, bới đất mà sống, mút cá gỗ mà đi thi.
Cũng không phải chỉ người làng tôi phải đổi nghề.
Thời đó, ở đất Bắc này, nhiều người phải đổi nghề, sập tiệm vì đã dại dột cạnh tranh với bà Nguyễn trong nghề buôn bán sắt thép. Bà là nhà buôn tài giỏi và độc đoán,không cho phép ai qua mặt, là người đàn bà sắt thép nhất, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
II. Ra đi từ đổ vỡ
Có thể lấy cuộc đời bà Nguyễn để làm ví dụ cho số mệnh. Với người con gái, lấy chồng là việc hệ trọng nhất. Nếu lấy phải một anh chồng hư hỏng, đời người đàn bà sẽ tan nát. Số mệnh đã đặt lên vai bà Nguyễn cái gánh nặng nề nhất, ấy là ông chồng. Đức lang quân của bà Nguyễn không biết làm gì cả ngoài việc hút thuốc phiện và chơi cô đầu. Vợ càng giàu, ông càng hút khỏe và chơi khỏe. Ngày, ông ngủ li bì để tối lại lỉnh đi. Ông về nhà trong tiếng gà gáy xao xác, quần áo xộc xệch,
tóc tai rối bù, người sực mùi son phấn đàn bà. Rồi một hôm, ông mang về nhà một cô đầu trẻ, sống với nhau tự nhiên như vợ chồng. Cô gái làng chơi ranh ma vớ được lão đàn ông dại gái cứ bám riết lấy, không chịu nhả ra.
Bà Nguyễn đành chịu thua vì đây là tình trường chứ không phải thương trường. Và bà Nguyễn ra đi, mang theo cả hai đứa con trai mà bà yêu quý còn hơn cả con chiên yêu chúa. Bà mẹ, khi yếu lòng, chỗ vịn chắc chắn nhất là đứa con.
Ba mẹ con bà Nguyễn dắt díu nhau lên trung du. Bà Nguyễn không đi ở ẩn, cũng không chạy trốn bất hạnh.
Bà không thuộc loại người yếu mềm. Khí chất bà mạnh mẽ, tính cách bà cứng cỏi, đầu óc bà minh mẫn, con người ấy không dễ sụp đổ. Bà Nguyễn lên trung du là để xây dựng một cơ nghiệp khác.
Vào năm 1993 này, tôi đã dành nhiều ngày khảo sát lại vùng đồn điền của bà Nguyễn khi xưa. Hai nghìn tám trăm hec-ta đất đồi ngày ấy là cơ ngơi của bà. Bây giờ,những quả đồi lúp xúp ấy ngút ngàn chè xanh, còn những khoảng ruộng bậc thang ở thung lũng thì mơn mởn lúa xuân. Còn năm Ất Dậu, khi bà Nguyễn lên đây,vùng đất này còn hoang dại mù mịt. Những quả đồi cớm bóng cây, ẩm ướt và đầy sên, vắt. Đêm ngủ trong căn nhà mới dựng tạm, còn ngái mùi tre hương, bà Nguyễn chốc chốc lại giật mình thon thót bởi tiếng con trăn gió quăng mình rào rào trên tán lá, tiếng con hổ đói mồi tóp tép đâu đó sau chái nhà.
Việc đầu tiên của bà Nguyễn là cứu đói. Bà tung tiền ra mua thóc gạo, khoai sắn và kêu gọi bà con nông dân:
“Đừng đi ăn mày, hãy đi phát rừng, đốt rẫy và nhận thóc gạo mà về nuôi nhau”. Hàng chục nghìn người nghe bà đi khai hoang, mở đất. Một mình bà chống lại nạn đói năm Ất Dậu. Một tay bà tổ chức khai khẩn cả một vùng bán sơn địa mênh mông và màu mỡ. Bà cho tậu hàng đàn trâu, bò. Bà dựng từng dãy lán trại chứa người làm thuê. Bà tổ chức cấy lúa, trồng sắn, trồng mía. Rồi bà nhập thiết bị từ Pháp về làm đường kính. Hạt đường kính đầu tiên của Việt Nam ra đời ở đây, nơi còn nguyên vẹn cả một nền bê tông rộng rãi và kiên cố mà thời gian và mưa gió không xóa được. Và bà buôn gỗ, khai thác tre,
nứa, chở về xuôi bán… Bà giàu lên nhanh chóng. Thóc gạo chứa đầy những dãy kho lớn. Tiền lèn chặt các két sắt. Công việc kinh doanh cuốn hút bà, lấn át cả nỗi sầu muộn riêng tư trong lòng bà. Chỉ về đêm, khi các con đã ngủ say, bà một mình một đèn, một bóng, nỗi trống vắng mới có cơ len lỏi vào tâm hồn bà, hành hạ bà đến giàn giụa nước mắt. Những lúc ấy, bà thấm thía sự bất lực của đồng tiền. Người ta sinh ra đồng tiền để phục vụ con người, có nghĩa là đồng tiền bé nhỏ hơn con người.
Nếu không có con người, đồng tiền sẽ trở nên vô nghĩa.
Những lúc ấy, bà Nguyễn nghĩ nhiều về hai đứa con trai bà. Chúng sẽ ra sao nếu cả đời chúng chỉ biết có tiền?
Bà rọi đèn, lặng im ngắm chúng ngủ. Hai gương mặt bừng sáng kia chả nhẽ lại chỉ biết có đồng tiền? Không.
Chúng phải được sống cho đẹp hơn, phải biết đến hoài bão, lý tưởng. Có một đêm, bà Nguyễn đã nghĩ về hai con như vậy. Và bà quyết định cho chúng vào bộ đội.
Nước nhà vừa độc lập. Kẻ thù đang lao vào xâu xé. Làm trai thời buổi này mà không đi giữ nước thì sống làm gì?
Bà Nguyễn đã chọn hướng đi cho các con bà. Và, một khi bà đã quyết, có nghĩa điều đó sẽ trở thành hiện thực.
Sau ngày tiễn hai con tòng quân, bà Nguyễn ốm mất mấy hôm. Bà hẫng hụt như vừa bị đánh mất cái gì đó vô cùng quý báu. Bao năm qua, bà chăm bẵm các con,
chúng luôn trong vòng tay bà, hoàn toàn thuộc về bà.
Giờ chúng ra đi, như con chim đủ lông, đủ cánh bay vào bầu trời, cánh tay tuổi tác của bà không với tới được.
Chúng đã thuộc về bầu trời thăm thẳm, rộng lớn kia,
không còn là của riêng bà nữa. Chúng có thể trở về và cũng có thể không trở về. Chiến tranh như trận cuồng phong và thân phận con người như chiếc lá nhỏ, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đứt ra khỏi thân cành và cuốn đi,
cuốn mãi đi trong cõi mịt mù. Những điều đó, chỉ thoáng nghĩ thôi, bà Nguyễn đã sợ đến vã mồ hôi hột.
Song, bà Nguyễn không giống như những người đàn bà khác, Những khổ đau phiền muộn không đánh gục được bà. Vả lại, bây giờ bà đã là bà chủ đồn điền. Ngày trước, ở Hải Phòng buôn sắt thép, bà Nguyễn chỉ có hai chục người làm. Còn bây giờ, đồn điền của bà có hơn hai nghìn người, gồm nông phu, thợ sơn tràng và công nhân của xí nghiệp đường. Cả guồng máy đồ sộ này trông mong vào sự quán xuyến của bà. Vắng bà, mọi sự sẽ bế tắc và đổ vỡ. Lúc đó, bát cơm manh áo của cả đồn điền sẽ bị đe dọa. Lại nữa, vài năm gần đây đã mọc thêm nhiều đồn điền khác của các ông chủ Tây. Những nhà doanh nghiệp mũi lõ, từ bên kia đại dương đã lục tục kéo nhau sang đây, khai khẩn vùng bán sơn địa màu mỡ này và khai thác sức lao động rẻ mạt của những người Việt Nam chân đất. Đằng sau các ông chủ ấy có phủ Toàn quyền, có mật thám, cảnh sát và những binh đoàn lê dương… Ỷ thế mạnh, các ông chủ Tây lăm le đè bẹp các ông chủ An Nam. Chỉ nội việc đó thôi đã khiến bà Nguyễn điên máu. Bà âm thầm thách thức tất thảy.
Không có quân đội, cảnh sát và chính quyền thực dân đứng phía sau, bà Nguyễn chỉ có tấm lòng, chút tài năng làm giàu và hơn hai nghìn người Việt Nam da vàng, máu đỏ. Họ là đồng minh bền chặt của bà. Hơn nữa, bà với họ có chung một tên gọi thiêng liêng – đồng bào.
III. Ba lần bất hạnh
- Con ơi! Mẹ bây giờ trở nên thừa thãi quá!
Ấy là tiếng khóc của bà Nguyễn khi nhận được tin đứa con nuôi hy sinh ngoài mặt trận. Tiếng kêu xé ruột khiến cả đồn điền rưng rưng.
Rồi bà Nguyễn ốm liệt giường suốt sáu tháng trời.
Song đồn điền của bà vẫn làm ăn hưng phát. Lúa vẫn trĩu bông, chè vẫn xanh ngát các sườn đồi và tháng heo may, đồn điền vẫn thơm mùi mật mía.
Sau khi bình phục, bà Nguyễn biến đồn điền của mình thành hậu cứ của các trung đoàn bộ đội chủ lực.
Bà cho lập những khu lán trại thênh thang, đủ sức chứa hàng nghìn người. Các chiến sĩ trên đường ra trận, dừng chân tại đồn điền của bà, có cơm nóng ăn, có nước suối ngâm đôi chân phồng rộp. Sáng mai, khi họ lên đường,
bà Nguyễn gửi theo mỗi chiến sĩ một chiếc khăn bông và một nắm cơm. Bà thương các chiến sĩ như con đẻ. Họ gọi bà là mẹ Nguyễn.
Các chủ đồn điền người Pháp lục tục xách va li về nước. Các nhà tư sản người Việt cũng rủ nhau vào Nam.
Ấy là khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sắp sửa kết thúc. Người ta đồn rằng sau khi đã đánh đuổi được giặc Pháp ra khỏi bờ cõi, người ta sẽ đánh đến những người giàu. Bà Nguyễn không tin điều đó. Lẽ nào lại như thế? Giàu có đâu phải là tội ác. Nếu làm giàu là tội lỗi thì đất nước này còn nghèo đến bao giờ? Lại nữa,bà Nguyễn càng tin hơn ở sự đóng góp của bà. Nếu không giàu, bà lấy đâu ra một trăm cây vàng để hiến cho cách mạng những ngày đất nước còn khó khăn? Nếu không giàu bà lấy đâu ra hàng trăm tấn gạo để nuôi quân suốt mấy chiến dịch? Bà là người sống đầy tự tin. Nếu thiếu niềm tin và sự tự quyết hẳn bà không giàu được đến thế.
Ngày chiến thắng, các binh đoàn từ rừng rú kéo về xuôi, tiếp quản Thủ đô. Bà Nguyễn mổ bò, giết lợn, nấu bao nhiêu là cơm chuẩn bị đón các chiến sĩ.
Nhưng các đoàn quân cứ đi qua, đi qua.
Bà Nguyễn chạy ra đường, đon đả mời chào:
- Mời các con vào nghỉ chân đã. Cơm nước mẹ nấu sẵn cả rồi.
Im lặng. Những cặp mắt nhìn bà lạnh băng. Đâu rồi những nụ cười cởi mở cùng những ánh mắt ấm áp của các chiến sĩ? Đâu rồi những tiếng “Chào mẹ Nguyễn” tíu tít và tin cậy? Vì sao mà cả những đứa từng nhận bà là mẹ nuôi; từng được bà cho áo, cho tiền giờ đi qua cũng ngoảnh mặt đi? Bà có lỗi gì?
Một đoàn quân nghỉ chân gần trạm tiếp đón của bà Nguyễn nhưng chẳng ai vào. Khó khăn lắm bà Nguyễn mới được phép của cấp chỉ huy nói vài câu với những người lính:
- Các con! Bao lâu nay mẹ xem các con như con,đứa nào cũng là con trai của mẹ. Mẹ dựng lán trại để các con nghỉ chân, mẹ tích trữ gạo thịt để khi các con về thì có cái mà ăn. Nếu mẹ có thiếu sót gì thì các con cứ nói thật để mẹ sửa. Các con đừng để bụng và lạnh lùng như thế, mẹ tủi thân lắm.
Cả đoàn quân im lặng như đá.
Viên chỉ huy ra lệnh:
- Nghiêm! Đi đề…u, bước.
Bà Nguyễn đứng nhìn theo đoàn quân đi xa dần, xa dần. Nước mắt bà lặng lẽ trào ra, lăn nặng trĩu trên gò má sạm nắng. Chưa bao giờ bà thấy đau khổ và hoang mang như bây giờ. Trời sinh ra bà để làm bà chủ. Bà khao khát làm giàu như các thi sĩ khao khát làm thơ và các nhà chính trị khao khát làm cách mạng. Chẳng lẽ điều đó là tội lỗi?
Có cái gì đó buốt lạnh chạy dọc sống lưng rồi lan khắp cơ thể, khiến bà Nguyễn rùng mình. Bà mơ hồ linh cảm thấy tai họa đang đến gần.
Lúc này, nếu bà Nguyễn chạy vào Nam thì chắc chắn vẫn kịp. Song, bà quyết không chạy. Là người của kháng chiến, hết lòng vì kháng chiến, bà không muốn biến mình thành con thú bị săn đuổi. Vả lại, khi niềm tin đã bị phản bội thì bà sống thêm nữa cũng chẳng để làm gì. Người ta không thể sống thiếu niềm tin. Là người trọng sự thủy chung, bà Nguyễn biết tin và sẵn sàng chết vì niềm tin.
Và, súng đã nổ…