Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Triệu Khuông Dẫn (927 – 976), quê ở Trác Châu, sinh ra trong một gia đình quân chế ờ trại Giáp Mã, Lạc Dương. Từ nhỏ đã thích cưỡi ngựa bắn cung, rất giỏi võ nghệ.
Năm hai mươi mốt tuổi, Triệu Khuông Dẫn từ biệt cha mẹ và vợ, bắt đầu đi chu du các vùng Hoa Bắc, Trung Nguyên, Tây Bắc. Trên đường lên phương bắc, Triệu Khuông Dẫn gặp Quách Uy đang đảm nhiệm chức Khu mật sứ của nhà Hậu Hán. Quách Uy lúc này đang chỉ huy quân đội dẹp quân phản loạn ờ Hà Trung, Triệu Khuông Dẫn thân thể cường tráng, tinh thông võ nghệ đã đầu quân dưới cờ của Quách Uy.
Năm 951, Quách Uy xưng đế, lập nên nhà Hậu Chu. Triệu Khuông Dẫn rất được Quách Uy tín nhiệm, trở thành người quản lý cấm quân. Sau khi Quách Uy chết, Chu Thế Tông là Sài Vinh lên ngôi, Triệu Khuông Dẫn lại được thăng chức làm Điện tiền Đô Điểm kiểm, nắm giữ quân quyền nhà Hậu Chu.
Năm 960, tức là năm Hiển Đức thứ 7 nhà Hậu Chu, vào ngày mùng một tháng giêng, bất ngờ có tin nước Liêu liên kết với Bắc Hán tiến vào xâm phạm. Phù Thái Hậu chủ trì triều chính nghe được tin này, hoang mang không biết thu xếp thế nào, cuối cùng đành hạ mình cầu cứu quan Tể tướng Phạm Chất. Phạm Chất nghĩ thầm, các đại tướng trong triều chỉ có Triệu Khuông Dấn mới có thể giải cứu được nguy nan, không ngờ Triệu Khuông Dẫn lại thoái thác do quân thiếu tướng ít, không thể xuất binh. Phạm Chất chỉ còn cách giao cho Triệu Khuông Dẫn binh quyền tối cao, được phép điều động binh mã toàn quốc. Triệu Khuông Dẫn nhận được mệnh lệnh xuất binh, lập tức điều binh khiển tướng, ngày mùng hai tháng giêng lập tức xuất binh ra khỏi thành.
Đại quân rời thành Đông Kinh không lâu, trong thành liền xuất hiện tin đồn, nói rằng Triệu Khuông Dẫn muốn làm thiên tử, các quan văn võ trong triều cũng biết được đôi phần, không ai dám tin, nhưng lại hết sức hoang mang. Triệu Khuông Dẫn tuy không ở trong triều, nhưng tất cả những gì xảy ra trong thành Đông Kinh ông đều nắm rõ. Đi theo ông còn có em trai của ông là Trịệu Khuông Nghĩa và mưu sĩ thân tín Triệu Phổ.
Một buổi chiều, quân đội đã đến trạm Trần Kiều cách Khai Phong mấy chục dặm. Khi mới đi trấn Trần Kiều, cách kinh thành Biện Kinh (thành phố Khai Phong, Trung Quốc ngày nay) được 40 dặm, các binh sĩ nhìn thấy cảnh “hai mặt trời đánh nhau” (đây có thể chỉ là hiện tượng quang học Mặt trời giả khi trời nhiều hơi nước). Họ cho đây là điềm báo chuyển giao ngôi vị.
Buổi tối, Triệu Khuông Dẫn lệnh cho các tướng sĩ dựng trại nghỉ ngơi, các binh sĩ vừa nằm xuống đã ngáy pho pho, còn một vài tướng sĩ tụ tập vói nhau lặng lẽ bàn bạc. Có người nói: “Nay hoàng thượng tuổi nhỏ như thế, chúng ta liều mạng đi đánh trận, sau này có ai biết được công lao của chúng ta, chỉ bằng bây giờ hãy ủng hộ cho Triệu Điểm kiểm làm hoàng đế.” Mọi người đều tán thành ý kiến này, liền cử một quan viên, đem ý kiến này nóí trước với Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phố. Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phổ nghe xong mừng thầm, một mặt dặn đi dặn lại mọi người phải làm cho quân sĩ yên lòng, không được gây ra hỗn loạn; một mặt mau chóng cử người thân tín của Triệu Khuông Dẫn là Quách Diên Bân bí mật trờ về kinh thành, thông báo cho Đại tướng Thạch Thủ Tín và Vương Thẩm Kỳ đang trấn giữ ở kỉnh thành phải quản lý tốt các cửa lớn ở trong ngoài kinh thành.
Buổi tối hôm đó, Triệu Khuông Dẫn vờ như không biết gì, uống rất say rồi ngủ. Khi tỉnh dậy, chỉ nghe thấy bên ngoài rất ồn ào. Tiếp đến có người mở cửa phòng, cao giọng hô lớn: “Xin Điểm kiểm lên làm hoàng đế!”
Triệu Khuông Dẫn vội vàng trở dậy, còn chưa kịp nói gì, mấy người mang bộ hoàng bào đã chuẩn bị từ trước, vội vã khoác lên người Triệu Khuông Dẫn. Sau đó, họ quỳ xuống đất khấu đầu lạy mấy lần, ba quân liền hô vạn tuế, tiếng vang rền đến tận mây xanh. Triệu Khuông Dẫn mấy lần từ chối, mọi người dùng cái chết để ép buộc. Trong lúc Triệu Khuông Dận còn đang do dự, em trai là Triệu Khuông Nghĩa đã lấy hoàng bào khoác cho ông, ép phải tạo phản.
Triệu Khuông Dận bất thần dẫn quân quay ngược lại kinh thành. Binh lính thủ thành không biết chuyện, cứ mở cổng cho vào. Triều đình Hậu Chu vì thế không kịp trở tay, phải quỳ xuống tôn Triệu Khuông Dận lên làm vua. Lịch sử Trung Quốc gọi sự kiện kỳ lạ này là “Binh biến Trần Kiều”. Đây cũng là lần thay đổi triều đại duy nhất trong lịch sử không đổ 1 giọt máu.
Triệu Khuông Dẫn làm theo cách của Lưu Bang, lập ra một số điều khoản ngắn gọn, đại quân liền quay đầu tiến về Đông Kinh.
Sài Tông Huấn được Triệu Khuông Dận tha chết, phong làm vương nhưng không được can thiệp chính sự. Nhà họ Sài được ban cho Đan thư thiết khoán (giao ước khắc trên một tấm sắt), có tác dụng miễn tử, làm mọi điều mình thích mà không phạm tội. Trong tác phẩm Thủy Hử, Sài Tiến – hậu duệ của nhà họ Sài – là người sở hữu Đan thư thiết khoán, nhưng khi đem ra hù dọa đám tay chân của Cao Cầu thì tỏ ra vô dụng. Cao Cầu bắc con cặc đái lên nói: "Tau đái lên thì sao!"
Có Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ làm nội ứng, Triệu Khuông Dẫn không phải mất nhiều công sức đã chiếm được kinh thành. Ngày mùng bốn tháng giêng, Triệu Khuông Dẫn đã dễ dàng chiếm được chính quyền nhà Hậu Chu, đổi tên nước là “Tống”, lập nên vương triều Tống của họ Triệu.
Lên ngôi hoàng đế đồng nghĩa với việc có thể hưởng cuộc sống giàu sang tột cùng nhưng Triệu Khuông Dận lại càng tiết kiệm hơn xưa. Theo Tống sử, trừ lúc lên triều phải mặc hoàng bào bằng gấm vóc thì thời gian còn lại Triệu Khuông Dận chỉ mặc quần áo may bằng vải thô bình thường. Ông còn thường xuyên cho giặt sạch, giữ gìn quần áo cẩn thận nên vài năm mới phải thay một bộ đồ mới.
Theo Sohu, hoàng cung của Triệu Khuông Dận được xây dựng sơ sài nhất lịch sử Trung Quốc, quan nội thị hầu hạ chỉ có hơn 50 người, cung nữ không quá 200 người.
Tống sử chép, năm 968, trên đường cầm quân chinh phạt Bắc Hán đúng vào lễ Thất tịch (mùng 7.7 âm lịch), Triệu Khuông Dận cho người gửi về Biện Kinh tặng cho thái hậu 3 quan tiền, hoàng hậu 1 quan rưỡi để mua sắm, chi tiêu. Sự kiện này khiến người đời sau đánh giá Triệu Khuông Dận là hoàng đế “keo kiệt” nhất lịch sử Trung Quốc.
Có lần, công chúa Vĩnh Khánh – cô con gái được Triệu Khuông Dận sủng ái nhất – may một bộ áo mới thêu bằng chỉ vàng ngũ sắc. Ông vừa nhìn thấy đã bắt Vĩnh Khánh cởi ra ngay, cấm không được mặc lại.
“Khanh là công chúa, ăn mặc lộng lẫy như vậy dễ khiến người ta đua đòi bắt chước. Thời Chiến quốc có Tề Hoàn Công rất thích mặc màu tím, kết quả là cả nước Tề ai cũng học theo khiến vải tím đắt lên nhiều lần. Khanh hưởng phúc mà không biết đấy là phúc, lại còn khởi xướng thói xa hoa, lãng phí. Là thường dân đã không nên may áo thêu chỉ vàng, là công chúa lại càng không được dùng”, Tống Thái Tổ nói.
Tống Thái Tổ nghiêm cấm con gái ăn mặc lộng lẫy, xa xỉ (ảnh: Qulishi)
Không chỉ nghiêm khắc với những người xung quanh, Triệu Khuông Dận còn hết sức kiềm chế ham muốn bản thân. Thái Tổ bản kỷ chép, có lần nửa đêm thức giấc, Triệu Khuông Dận bụng đói cồn cào, rất thèm ăn gan dê nhưng cứ ngồi do dự hồi lâu mà không dám hạ lệnh. Người hầu bên cạnh dò hỏi Triệu Khuông Dận cần sai bảo điều gì, ông đáp: “Ta mà nói ra thì từ nay đêm nào cũng có một con dê bị giết moi gan”, rồi nhịn đói đi ngủ. Người hầu nghe vậy biết Triệu Khuông Dận thèm ăn gan dê nhưng cố nhịn.
Triệu Khuông Dận tiết kiệm triệt để vì muốn tích lũy của cải cho nhà Tống non trẻ, dồn lực tiêu diệt hết các thế lực cát cứ, thống nhất Trung Quốc. Vào thời Ngũ đại Thập quốc, vua chúa quan lại quen thói ăn chơi xa xỉ, khiến người dân oán thán thấu trời, kinh tế kiệt quệ. Triệu Khuông Dận sau khi lên ngôi quyết tâm xây dựng hình ảnh khác hẳn. Chủ trương thống nhất của Triệu Khuông Dận là trước diệt hết các nước nhỏ phía nam, sau mới tiến lên phía bắc để đánh Bắc Hán.
Năm 968, Triệu Khuông Dận tổ chức chiến dịch quy mô nhất để diệt Bắc Hán, sĩ khí quân Tống lên rất cao. Vào thời điểm Bắc Hán nguy kịch, quân Liêu lại đem quân tới giúp khiến Tống thất bại. Người Tống vì thế rất căm ghét người Liêu. Sau này nước Kim đánh nước Liêu, Tống đã hỗ trợ rất nhiều nhưng không biết rằng khi Liêu bị tiêu diệt, cũng là lúc Tống bị Kim xâm lược.
Tống sử chép, sau chiến dịch đánh Bắc Hán bất thành, Triệu Khuông Dân lại càng chú tâm chăm lo, sửa sang đất nước. Ông quy định bãi bỏ thói đón rước, tiệc tùng linh đình mỗi khi quan lại nhậm chức, bất kể chức quan đó có lớn đến đâu. Quan lại phải đi giầy cỏ, chống gậy gỗ tới nơi nhậm chức để làm tấm gương tiết kiệm cho người dân. Dưới thời Triệu Khuông Dận, nhà Tống có tới 32 quốc khố. Của cải ở các kho này nếu vận chuyển liên tục theo 2 đường thủy bộ phải mất 10 năm mới hết.
Hà tiện với bản thân và gia đình nhưng Triệu Khuông Dận lại rất hào phóng đối với các viên quan có tài năng. Thái Tổ bản kỷ chép, quan Thị trung (tương đương chức tể tướng) Phạm Chất Sinh bị ốm, hoàng thượng ban cho 200 lượng vàng, 1.000 lượng bạc, 200 tấm lụa, 2 vạn quan tiền. Triệu Phổ - quân sư số một của Triệu Khuông Dận - ốm, được hoàng thượng ban cho 5.000 lượng bạc, 5.000 tấm lụa.
Vung rìu trong tuyết, Tống Thái Tổ chết bất đắc kỳ tử (tranh: Sohu)
Năm 976, Triệu Khuông Dận đột ngột qua đời khi mới 50 tuổi và không mắc bệnh tật gì. Cái chết của ông đến nay vẫn là điều bí ẩn đối với giới nghiên cứu lịch sử Trung Quốc.
Tống sử chép, tháng 11.976, trời đổ tuyết lớn, hoàng thượng triệu em trai là Triệu Quang Nghĩa vào cung uống rượu, đuổi hết thị vệ ra ngoài. Bên ngoài chỉ nghe tiếng hoàng thượng nói “hay lắm” sau đó thì im bặt. Triệu Quang Nghĩa ban đêm bỏ về. Sáng hôm sau, Triệu Khuông Dận bị phát hiện đã chết. Nhờ có thế lực lớn trong triều, Triệu Quang Nghĩa giành ngôi hoàng đế, lên ngôi lấy hiệu là Tống Thái Tông.
Về sau, Tống Thái Tông truyền ngôi cho con mình, không trả lại ngôi cho con của Triệu Khuông Dận. Bản thân Triệu Đức Chiêu – con trai Triệu Khuông Dận – cũng chết một cách bí ẩn. Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, Triệu Quang Nghĩa rất có thể đã giết anh trai để cướp ngôi.
Theo truyền thuyết dân gian, cái chết của Triệu Khuông Dận đã được dự báo trước trong Thối Bối Đồ - cuốn sách được cho là tiên đoán ít nhất 2.000 năm vận mệnh của Trung Quốc.
Thối Bối Đồ viết Triệu Khuông Dận sẽ chết trong “tiếng rìu trong tuyết”. Tương truyền, trong lúc uống rượu cao hứng, Triệu Khuông Dận cầm rìu bổ vào cột, khen “hay lắm”. Thấy anh trai uống say, Triệu Quang Nghĩa dùng rìu sát hại (có thuyết nói là hạ độc). Triệu Quang Nghĩa sau đó tuyên bố hoàng đế đã băng hà và truyền ngôi lại cho mình.
Lăng mộ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận được đặt ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, Lăng mộ này được làm rất sơ sài, không xây tường bao mà chỉ trồng cây cỏ xung quanh.

Năm hai mươi mốt tuổi, Triệu Khuông Dẫn từ biệt cha mẹ và vợ, bắt đầu đi chu du các vùng Hoa Bắc, Trung Nguyên, Tây Bắc. Trên đường lên phương bắc, Triệu Khuông Dẫn gặp Quách Uy đang đảm nhiệm chức Khu mật sứ của nhà Hậu Hán. Quách Uy lúc này đang chỉ huy quân đội dẹp quân phản loạn ờ Hà Trung, Triệu Khuông Dẫn thân thể cường tráng, tinh thông võ nghệ đã đầu quân dưới cờ của Quách Uy.
Năm 951, Quách Uy xưng đế, lập nên nhà Hậu Chu. Triệu Khuông Dẫn rất được Quách Uy tín nhiệm, trở thành người quản lý cấm quân. Sau khi Quách Uy chết, Chu Thế Tông là Sài Vinh lên ngôi, Triệu Khuông Dẫn lại được thăng chức làm Điện tiền Đô Điểm kiểm, nắm giữ quân quyền nhà Hậu Chu.
Năm 960, tức là năm Hiển Đức thứ 7 nhà Hậu Chu, vào ngày mùng một tháng giêng, bất ngờ có tin nước Liêu liên kết với Bắc Hán tiến vào xâm phạm. Phù Thái Hậu chủ trì triều chính nghe được tin này, hoang mang không biết thu xếp thế nào, cuối cùng đành hạ mình cầu cứu quan Tể tướng Phạm Chất. Phạm Chất nghĩ thầm, các đại tướng trong triều chỉ có Triệu Khuông Dấn mới có thể giải cứu được nguy nan, không ngờ Triệu Khuông Dẫn lại thoái thác do quân thiếu tướng ít, không thể xuất binh. Phạm Chất chỉ còn cách giao cho Triệu Khuông Dẫn binh quyền tối cao, được phép điều động binh mã toàn quốc. Triệu Khuông Dẫn nhận được mệnh lệnh xuất binh, lập tức điều binh khiển tướng, ngày mùng hai tháng giêng lập tức xuất binh ra khỏi thành.
Đại quân rời thành Đông Kinh không lâu, trong thành liền xuất hiện tin đồn, nói rằng Triệu Khuông Dẫn muốn làm thiên tử, các quan văn võ trong triều cũng biết được đôi phần, không ai dám tin, nhưng lại hết sức hoang mang. Triệu Khuông Dẫn tuy không ở trong triều, nhưng tất cả những gì xảy ra trong thành Đông Kinh ông đều nắm rõ. Đi theo ông còn có em trai của ông là Trịệu Khuông Nghĩa và mưu sĩ thân tín Triệu Phổ.
Một buổi chiều, quân đội đã đến trạm Trần Kiều cách Khai Phong mấy chục dặm. Khi mới đi trấn Trần Kiều, cách kinh thành Biện Kinh (thành phố Khai Phong, Trung Quốc ngày nay) được 40 dặm, các binh sĩ nhìn thấy cảnh “hai mặt trời đánh nhau” (đây có thể chỉ là hiện tượng quang học Mặt trời giả khi trời nhiều hơi nước). Họ cho đây là điềm báo chuyển giao ngôi vị.
Buổi tối, Triệu Khuông Dẫn lệnh cho các tướng sĩ dựng trại nghỉ ngơi, các binh sĩ vừa nằm xuống đã ngáy pho pho, còn một vài tướng sĩ tụ tập vói nhau lặng lẽ bàn bạc. Có người nói: “Nay hoàng thượng tuổi nhỏ như thế, chúng ta liều mạng đi đánh trận, sau này có ai biết được công lao của chúng ta, chỉ bằng bây giờ hãy ủng hộ cho Triệu Điểm kiểm làm hoàng đế.” Mọi người đều tán thành ý kiến này, liền cử một quan viên, đem ý kiến này nóí trước với Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phố. Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phổ nghe xong mừng thầm, một mặt dặn đi dặn lại mọi người phải làm cho quân sĩ yên lòng, không được gây ra hỗn loạn; một mặt mau chóng cử người thân tín của Triệu Khuông Dẫn là Quách Diên Bân bí mật trờ về kinh thành, thông báo cho Đại tướng Thạch Thủ Tín và Vương Thẩm Kỳ đang trấn giữ ở kỉnh thành phải quản lý tốt các cửa lớn ở trong ngoài kinh thành.
Buổi tối hôm đó, Triệu Khuông Dẫn vờ như không biết gì, uống rất say rồi ngủ. Khi tỉnh dậy, chỉ nghe thấy bên ngoài rất ồn ào. Tiếp đến có người mở cửa phòng, cao giọng hô lớn: “Xin Điểm kiểm lên làm hoàng đế!”

Triệu Khuông Dẫn vội vàng trở dậy, còn chưa kịp nói gì, mấy người mang bộ hoàng bào đã chuẩn bị từ trước, vội vã khoác lên người Triệu Khuông Dẫn. Sau đó, họ quỳ xuống đất khấu đầu lạy mấy lần, ba quân liền hô vạn tuế, tiếng vang rền đến tận mây xanh. Triệu Khuông Dẫn mấy lần từ chối, mọi người dùng cái chết để ép buộc. Trong lúc Triệu Khuông Dận còn đang do dự, em trai là Triệu Khuông Nghĩa đã lấy hoàng bào khoác cho ông, ép phải tạo phản.
Triệu Khuông Dận bất thần dẫn quân quay ngược lại kinh thành. Binh lính thủ thành không biết chuyện, cứ mở cổng cho vào. Triều đình Hậu Chu vì thế không kịp trở tay, phải quỳ xuống tôn Triệu Khuông Dận lên làm vua. Lịch sử Trung Quốc gọi sự kiện kỳ lạ này là “Binh biến Trần Kiều”. Đây cũng là lần thay đổi triều đại duy nhất trong lịch sử không đổ 1 giọt máu.
Triệu Khuông Dẫn làm theo cách của Lưu Bang, lập ra một số điều khoản ngắn gọn, đại quân liền quay đầu tiến về Đông Kinh.
Sài Tông Huấn được Triệu Khuông Dận tha chết, phong làm vương nhưng không được can thiệp chính sự. Nhà họ Sài được ban cho Đan thư thiết khoán (giao ước khắc trên một tấm sắt), có tác dụng miễn tử, làm mọi điều mình thích mà không phạm tội. Trong tác phẩm Thủy Hử, Sài Tiến – hậu duệ của nhà họ Sài – là người sở hữu Đan thư thiết khoán, nhưng khi đem ra hù dọa đám tay chân của Cao Cầu thì tỏ ra vô dụng. Cao Cầu bắc con cặc đái lên nói: "Tau đái lên thì sao!"
Có Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ làm nội ứng, Triệu Khuông Dẫn không phải mất nhiều công sức đã chiếm được kinh thành. Ngày mùng bốn tháng giêng, Triệu Khuông Dẫn đã dễ dàng chiếm được chính quyền nhà Hậu Chu, đổi tên nước là “Tống”, lập nên vương triều Tống của họ Triệu.
Lên ngôi hoàng đế đồng nghĩa với việc có thể hưởng cuộc sống giàu sang tột cùng nhưng Triệu Khuông Dận lại càng tiết kiệm hơn xưa. Theo Tống sử, trừ lúc lên triều phải mặc hoàng bào bằng gấm vóc thì thời gian còn lại Triệu Khuông Dận chỉ mặc quần áo may bằng vải thô bình thường. Ông còn thường xuyên cho giặt sạch, giữ gìn quần áo cẩn thận nên vài năm mới phải thay một bộ đồ mới.
Theo Sohu, hoàng cung của Triệu Khuông Dận được xây dựng sơ sài nhất lịch sử Trung Quốc, quan nội thị hầu hạ chỉ có hơn 50 người, cung nữ không quá 200 người.
Tống sử chép, năm 968, trên đường cầm quân chinh phạt Bắc Hán đúng vào lễ Thất tịch (mùng 7.7 âm lịch), Triệu Khuông Dận cho người gửi về Biện Kinh tặng cho thái hậu 3 quan tiền, hoàng hậu 1 quan rưỡi để mua sắm, chi tiêu. Sự kiện này khiến người đời sau đánh giá Triệu Khuông Dận là hoàng đế “keo kiệt” nhất lịch sử Trung Quốc.
Có lần, công chúa Vĩnh Khánh – cô con gái được Triệu Khuông Dận sủng ái nhất – may một bộ áo mới thêu bằng chỉ vàng ngũ sắc. Ông vừa nhìn thấy đã bắt Vĩnh Khánh cởi ra ngay, cấm không được mặc lại.
“Khanh là công chúa, ăn mặc lộng lẫy như vậy dễ khiến người ta đua đòi bắt chước. Thời Chiến quốc có Tề Hoàn Công rất thích mặc màu tím, kết quả là cả nước Tề ai cũng học theo khiến vải tím đắt lên nhiều lần. Khanh hưởng phúc mà không biết đấy là phúc, lại còn khởi xướng thói xa hoa, lãng phí. Là thường dân đã không nên may áo thêu chỉ vàng, là công chúa lại càng không được dùng”, Tống Thái Tổ nói.

Tống Thái Tổ nghiêm cấm con gái ăn mặc lộng lẫy, xa xỉ (ảnh: Qulishi)
Không chỉ nghiêm khắc với những người xung quanh, Triệu Khuông Dận còn hết sức kiềm chế ham muốn bản thân. Thái Tổ bản kỷ chép, có lần nửa đêm thức giấc, Triệu Khuông Dận bụng đói cồn cào, rất thèm ăn gan dê nhưng cứ ngồi do dự hồi lâu mà không dám hạ lệnh. Người hầu bên cạnh dò hỏi Triệu Khuông Dận cần sai bảo điều gì, ông đáp: “Ta mà nói ra thì từ nay đêm nào cũng có một con dê bị giết moi gan”, rồi nhịn đói đi ngủ. Người hầu nghe vậy biết Triệu Khuông Dận thèm ăn gan dê nhưng cố nhịn.
Triệu Khuông Dận tiết kiệm triệt để vì muốn tích lũy của cải cho nhà Tống non trẻ, dồn lực tiêu diệt hết các thế lực cát cứ, thống nhất Trung Quốc. Vào thời Ngũ đại Thập quốc, vua chúa quan lại quen thói ăn chơi xa xỉ, khiến người dân oán thán thấu trời, kinh tế kiệt quệ. Triệu Khuông Dận sau khi lên ngôi quyết tâm xây dựng hình ảnh khác hẳn. Chủ trương thống nhất của Triệu Khuông Dận là trước diệt hết các nước nhỏ phía nam, sau mới tiến lên phía bắc để đánh Bắc Hán.
Năm 968, Triệu Khuông Dận tổ chức chiến dịch quy mô nhất để diệt Bắc Hán, sĩ khí quân Tống lên rất cao. Vào thời điểm Bắc Hán nguy kịch, quân Liêu lại đem quân tới giúp khiến Tống thất bại. Người Tống vì thế rất căm ghét người Liêu. Sau này nước Kim đánh nước Liêu, Tống đã hỗ trợ rất nhiều nhưng không biết rằng khi Liêu bị tiêu diệt, cũng là lúc Tống bị Kim xâm lược.
Tống sử chép, sau chiến dịch đánh Bắc Hán bất thành, Triệu Khuông Dân lại càng chú tâm chăm lo, sửa sang đất nước. Ông quy định bãi bỏ thói đón rước, tiệc tùng linh đình mỗi khi quan lại nhậm chức, bất kể chức quan đó có lớn đến đâu. Quan lại phải đi giầy cỏ, chống gậy gỗ tới nơi nhậm chức để làm tấm gương tiết kiệm cho người dân. Dưới thời Triệu Khuông Dận, nhà Tống có tới 32 quốc khố. Của cải ở các kho này nếu vận chuyển liên tục theo 2 đường thủy bộ phải mất 10 năm mới hết.
Hà tiện với bản thân và gia đình nhưng Triệu Khuông Dận lại rất hào phóng đối với các viên quan có tài năng. Thái Tổ bản kỷ chép, quan Thị trung (tương đương chức tể tướng) Phạm Chất Sinh bị ốm, hoàng thượng ban cho 200 lượng vàng, 1.000 lượng bạc, 200 tấm lụa, 2 vạn quan tiền. Triệu Phổ - quân sư số một của Triệu Khuông Dận - ốm, được hoàng thượng ban cho 5.000 lượng bạc, 5.000 tấm lụa.

Vung rìu trong tuyết, Tống Thái Tổ chết bất đắc kỳ tử (tranh: Sohu)
Năm 976, Triệu Khuông Dận đột ngột qua đời khi mới 50 tuổi và không mắc bệnh tật gì. Cái chết của ông đến nay vẫn là điều bí ẩn đối với giới nghiên cứu lịch sử Trung Quốc.
Tống sử chép, tháng 11.976, trời đổ tuyết lớn, hoàng thượng triệu em trai là Triệu Quang Nghĩa vào cung uống rượu, đuổi hết thị vệ ra ngoài. Bên ngoài chỉ nghe tiếng hoàng thượng nói “hay lắm” sau đó thì im bặt. Triệu Quang Nghĩa ban đêm bỏ về. Sáng hôm sau, Triệu Khuông Dận bị phát hiện đã chết. Nhờ có thế lực lớn trong triều, Triệu Quang Nghĩa giành ngôi hoàng đế, lên ngôi lấy hiệu là Tống Thái Tông.
Về sau, Tống Thái Tông truyền ngôi cho con mình, không trả lại ngôi cho con của Triệu Khuông Dận. Bản thân Triệu Đức Chiêu – con trai Triệu Khuông Dận – cũng chết một cách bí ẩn. Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, Triệu Quang Nghĩa rất có thể đã giết anh trai để cướp ngôi.
Theo truyền thuyết dân gian, cái chết của Triệu Khuông Dận đã được dự báo trước trong Thối Bối Đồ - cuốn sách được cho là tiên đoán ít nhất 2.000 năm vận mệnh của Trung Quốc.
Thối Bối Đồ viết Triệu Khuông Dận sẽ chết trong “tiếng rìu trong tuyết”. Tương truyền, trong lúc uống rượu cao hứng, Triệu Khuông Dận cầm rìu bổ vào cột, khen “hay lắm”. Thấy anh trai uống say, Triệu Quang Nghĩa dùng rìu sát hại (có thuyết nói là hạ độc). Triệu Quang Nghĩa sau đó tuyên bố hoàng đế đã băng hà và truyền ngôi lại cho mình.
Lăng mộ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận được đặt ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, Lăng mộ này được làm rất sơ sài, không xây tường bao mà chỉ trồng cây cỏ xung quanh.