Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Bối Cảnh Lịch Sử Phân Ly Trung Quốc
Trong tháng cuối cùng Thế Chiến II, lực lượng Liên Xô phát động tấn công tổng lực dọc theo biên giới Trung Quốc -Mông Cổ, tận dung ngay tình thế khủng hoảng của quân Nhật. Quân Liên Xô tháo dỡ hầu hết các khu công nghiệp Mãn Châu chở về mẫu quốc vốn đang hoang tàn sau chiến tranh.
Joseph Stalin chỉ thị quân ******** của Mao sẽ hưởng hầu hết khí tài chiếm được khi Nhật đầu hàng. Cuối năm 1945, sau một cuộc tấn công lớn đánh vào Sơn Đông, tiếp giáp các khu vực Mỹ đang nắm giữ, hầu hết lãnh thổ vùng này đã rơi vào tầm kiểm soát của phe ********.
Tháng Sáu, nội chiến diện rộng bùng nổ ở Trung Quốc, kéo dài trong ba năm.
Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa 1949
Dù phe Quốc Dân thiệt hại nặng trong cuộc đối đầu với Nhật, và phe ******** nhận được hậu thuẫn lớn từ phía Liên Xô, nhưng Mao Trạch Đông vẫn ý thức yếu điểm về nhân lực và vật lực khi so với quân của Tưởng. Trước tình hình này, quân ******** áp dụng chiến thuật “tấn công thụ động” trong giai đoạn đầu nội chiến. Quân đội của Mao sẽ tránh những địa điểm mạnh của quân Tưởng, và rút lui chiến lược khỏi các lãnh thổ khó giữ.
Chiến thuật này hiệu quả, sau một năm, lực lượng hai phe đã khá cân bằng. Quân Quốc Dân chết hơn 1.12 triệ, trong khi quân ******** lớn mạnh đến con số 2 triệu.
Năm 1948, phe ******** chiếm hai thành phố Thẩm Dương và Trường Xuân. Cuộc vây hãm Thẩm Dương buộc Quân Đoàn 1 Quốc Dân Đảng, đơn vị thiện chiến của Tưởng, phải đầu hàng tại đây đánh dấu bước ngoặt của cuộc nội chiến. Lượng khí tài khổng lồ với xe tăng, trọng pháo chiếm giữ đã giúp quân ******** đẩy lùi quân Quốc Dân về phía nam.
Mao không bỏ lỡ cơ hội, bất chấp lời khuyên của Stalin, cho quân vượt sông Dương Tử, mở nhiều chiến dịch quy mô, gây thiệt hại đâu đó khoảng 1.5 triệu lính cho phe Tưởng.
Ngày 01/10/1949, tại Bắc Kinh, Mao tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Đến lúc này, quân Quốc Dân đã bị dạt về phía nam tới Hàng Châu. Trong khi Mao đang đọc tuyên ngôn thì Tưởng Giới Thạch cùng 2 triệu binh lính rút ra đảo Đài Loan.
Năm 1949, cuộc Nội chiến Trung Quốc kết thúc với chiến thắng của lực lượng ******** do Mao Trạch Đông lãnh đạo, thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) trên đại lục. Chính phủ Quốc dân đảng (Kuomintang - KMT) do Tưởng Giới Thạch đứng đầu buộc phải rút về đảo Đài Loan, mang theo khoảng 2 triệu quân và dân thường, lập nên Cộng hòa Trung Hoa (ROC). Lúc này, Đài Loan trở thành pháo đài cuối cùng của phe Quốc dân, nhưng đứng trước nguy cơ bị PLA (Quân đội Giải phóng Nhân dân) của PRC xâm lược. PLA đã tập trung hơn 30.000 quân và hàng nghìn tàu bè tại Phúc Kiến và Chiết Giang, sẵn sàng vượt Eo biển Đài Loan rộng chỉ 130 km. Các nhà phân tích lịch sử nhận định rằng, nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài, Đài Loan khó lòng trụ vững quá vài tháng trong năm 1950. Mỹ, dưới thời Tổng thống Harry S. Truman, ban đầu không ủng hộ Tưởng Giới Thạch, thậm chí tuyên bố không can thiệp vào "xung đột nội bộ Trung Quốc" và cắt viện trợ quân sự cho ROC. Tuy nhiên, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25 tháng 6 năm 1950 đã thay đổi hoàn toàn cục diện.
Chiến Tranh Triều Tiên: Ngòi Nổ Thay Đổi Chiến Lược
Chiến tranh Triều Tiên bắt đầu khi Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc, kéo theo sự can thiệp của Mỹ và Liên Hợp Quốc để bảo vệ miền Nam. Cuộc chiến này không chỉ là xung đột cục bộ mà còn là biểu tượng của Chiến tranh Lạnh ở châu Á, với sự hậu thuẫn ngầm của Liên Xô và Trung Quốc cho phe ********. Đối với Mỹ, đây là cơ hội để chuyển từ chính sách trung lập sang bảo vệ Đài Loan như một phần của "chuỗi đảo phòng thủ" ở Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn chủ nghĩa ******** lan rộng.
Ngay sau khi chiến tranh nổ ra, Truman ra lệnh điều Hạm đội Thứ Bảy của Mỹ vào Eo biển Đài Loan vào ngày 27 tháng 6 năm 1950. Ông tuyên bố rằng việc PRC chiếm Đài Loan sẽ đe dọa an ninh khu vực Thái Bình Dương và lực lượng Mỹ. Hạm đội này, với hơn 100 tàu chiến bao gồm tàu sân bay và tàu ngầm, đã tạo ra một "rào chắn thép" ngăn PLA tấn công Đài Loan và đồng thời cấm ROC phản công đại lục, nhằm trung lập hóa eo biển.
Trong quá khứ, bán đảo Triều Tiên đặt dưới ách đô hộ của đế quốc Nhật, từ năm 1910 đến 1945. Khi Thế chiến thứ 2 kết thúc và nước Nhật đầu hàng quân đội đồng minh, Liên Xô và Mỹ đã tiến vào bán đảo Triều Tiên để giải giáp quân đội Nhật. Theo thỏa thuận của Hội nghị Moscow 1945, hai cường quốc này sẽ thực hiện chế độ quân quản trên bán đảo Triều Tiên với thời gian ủy trị 5 năm, Liên Xô ở miền Bắc, còn Mỹ ở miền Nam, sau thời hạn 5 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước Triều Tiên. Đất nước Triều Tiên tạm thời bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38.
Khi đó ở 2 miền Triều Tiên quần chúng đã tự hình thành các “ủy ban nhân dân” nhằm chuẩn bị tiếp quản nước Triều Tiên sau khi được giải phóng. Từng quằn quại dưới sự cai trị hà khắc của đế quốc Nhật nên nhân dân Triều Tiên đều rất khát khao độc lập. Ở miền Bắc, các “ủy ban nhân dân” nói trên có thái độ thân thiện với lực lượng quân quản Liên Xô. Tuy nhiên, tình hình ở miền Nam thì lại khác. Chế độ quân quản của Mỹ nhận thấy các yếu tố cánh tả trong các “ủy ban nhân dân” do quần chúng lập nên, và đã ra sắc lệnh giải tán các tổ chức này. Thay vào đó, Mỹ đã chủ động xây dựng ở đây 1 chính quyền lâm thời do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Quần chúng lập tức tiến hành biểu tình hoặc vũ trang nổi dậy chống lại chế độ quân quản của Mỹ và chính quyền lâm thời Lý Thừa Vãn. Lực lượng của Mỹ và của ông Lý Thừa Vãn đã nhanh chóng trấn áp các cuộc biểu tình và nổi dậy này.
Lý Thừa Vãn và nhóm của ông này cho rằng, 35 năm cai trị của Nhật Bản là đủ lắm rồi và không muốn có thêm một thời kỳ chiếm đóng nào nữa của nước ngoài. Do đó họ phản đối chính chế độ ủy trị do Mỹ thực hiện. Kết quả là Mỹ nhất trí rút ngắn thời hạn ủy trị và tiến hành tổng tuyển cử ở miền Nam Triều Tiên vào năm 1948. Liên Xô đã phản đối và tẩy chay cuộc bầu cử này, cho rằng Mỹ phải tôn trọng thỏa thuận tại Hội nghị Moscow 1945.
Bất chấp sự tẩy chay của lực lượng cánh tả địa phương, cuộc bầu cử quốc hội đã diễn ra ở Nam Triều Tiên vào tháng 5/1948. Quốc hội này bầu ra Tổng thống vào tháng 7/1948 (Lý Thừa Vãn đắc cử vào vị trí này). Đến tháng 8/1948 thì Đại Hàn Dân quốc (Hàn Quốc) chính thức ra đời. Trước diễn biến trên, miền Bắc Triều Tiên đã đáp lại bằng 1 cuộc bầu cử quốc hội, và vào tháng 9/1948, CHDCND Triều Tiên tuyên bố thành lập, do lãnh tụ Kim Nhật Thành đứng đầu (CHDCND Triều Tiên tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội của nước này không chỉ diễn ra công khai ở miền Bắc mà còn được tiến hành bí mật ở cả miền Nam). Trong năm 1948, các lực lượng Liên Xô rút khỏi Triều Tiên. Sang năm 1949, Mỹ rút quân khỏi bán đảo này.
Cả ông Lý Thừa Vãn và Kim Nhật Thành đều có mong muốn cháy bỏng thống nhất bán đảo Triều Tiên. Các xung đột vũ trang nhỏ lẻ đã diễn ra dọc giới tuyến quân sự giữa quân đội 2 miền.
Ngày 25/6/1950, Quân đội Nhân dân Triều Tiên (tức quân đội của CHDCND Triều Tiên) vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Hàn Quốc. Với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, và lực lượng đông hơn, quân đội Triều Tiên đã nhanh chóng đột kích, chiếm gọn thủ đô Seoul của Hàn Quốc chỉ sau vài ngày khai chiến. Đến ngày 10/9/1950, quân đội Triều Tiên đã gần như tràn ngập toàn bộ lãnh thổ Hàn Quốc và dồn quân đội Hàn Quốc cùng với 1 lực lượng nhỏ của Mỹ về khu vực Busan nằm ở cực nam bán đảo Triều Tiên.
Trước tình hình Hàn Quốc nguy ngập, Mỹ đã can thiệp một cách quyết tâm. Một mặt, Mỹ muốn bảo vệ đồng minh của mình tại đây. Mặt khác Mỹ lo phong trào XHCN sẽ lan rộng sang các nước khác, đặc biệt là nước Nhật gần đó mà Mỹ muốn sử dụng làm đối trọng với Liên Xô trong chiến lược toàn cầu của mình.
Ngày 25/6/1950, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 82 lên án CHDCND Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc và kêu gọi Triều Tiên rút quân ngay lập tức. (Liên Xô lúc đấy đã không thể phủ quyết nghị quyết này do Liên Xô tẩy chay Hội đồng Bảo an từ đầu năm 1950 để phản đối việc Đài Loan chứ không phải Trung Quốc được giữ ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an). Tiếp đó, Hội đồng này vào ngày 27/6/1950 ra tiếp nghị quyết 83, cho phép hỗ trợ (bao gồm cả hỗ trợ quân sự) cho Hàn Quốc đẩy lui quân Triều Tiên. Sang đầu tháng 7/1950, Nghị quyết 84 của Hội đồng Bảo an được ban ra, khuyến nghị tập hợp các lực lượng và nguồn lực trợ giúp dưới 1 bộ chỉ huy thống nhất do Hoa Kỳ lãnh đạo. Kết quả, dưới danh nghĩa Liên Hợp Quốc, Mỹ đã lôi kéo được 21 nước khác tham gia cùng mình tại chiến trường Triều Tiên. Trong tổng số 22 nước này, ngoài Mỹ và Hàn Quốc thì có tới 15 nước thành viên Liên Hợp Quốc gửi quân sang trực tiếp chiến đấu tại Triều Tiên, số còn lại cung cấp trợ giúp nhân đạo. Tuy nhiên quân số của Mỹ và Hàn Quốc vẫn là chủ đạo.
Sự tham chiến của lực lượng Liên Hợp Quốc đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Quân Liên Hợp Quốc do Mỹ chỉ huy đã phản công đẩy lui quân đội Triều Tiên về phía Bắc vĩ tuyến 38 và gây thiệt hại nặng cho lực lượng quân sự Triều Tiên. Trước thắng lợi này, phía Hàn Quốc lại mơ về khả năng thống nhất toàn bán đảo Triều Tiên và đã cùng với quân đội Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh CHDCND Triều Tiên. Quân Liên Hợp Quốc sau đó đã chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng và đẩy quân đội của ông Kim Nhật Thành về sát sông Áp Lục, ranh giới tự nhiên giữa Triều Tiên và Trung Quốc.
Trước thực tế đó, Trung Quốc dù mới thành lập nước vào năm 1949, đã quyết định tung hàng trăm ngàn “chí nguyện quân” (lực lượng quân tình nguyện- PV) sang Triều Tiên để thực hiện “kháng Mỹ viện Triều” – đây là điều khá bất ngờ đối với Mỹ. Sử dụng một số chiến thuật hợp lý và có lợi thế quân đông, Trung Quốc đã giúp Triều Tiên đẩy lùi quân Liên Hợp Quốc về vĩ tuyến 38. Thừa thắng, liên quân Trung-Triều đã vượt vĩ tuyến 38, tái chiếm Seoul.
Sự hiện diện này làm gián đoạn kế hoạch xâm lược của Mao Trạch Đông. Hàng chục nghìn quân PLA dự kiến tấn công Đài Loan được điều động khẩn cấp sang Triều Tiên để hỗ trợ "Quân Tình nguyện Nhân dân" chống Mỹ. Các tài liệu lịch sử cho thấy sự chuyển quân này đã trì hoãn vô thời hạn kế hoạch tấn công Đài Loan, cứu hòn đảo khỏi sự sụp đổ gần như chắc chắn.
Tác Động Lâu Dài: Từ Bảo Vệ Tạm Thời Đến Đồng Minh Chiến Lược
Sự can thiệp của Mỹ không chỉ dừng lại ở việc điều hạm đội. Chiến tranh Triều Tiên đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ Mỹ-Đài Loan. Washington khôi phục viện trợ quân sự, cung cấp vũ khí và huấn luyện, giúp Đài Loan củng cố quốc phòng. Năm 1954, hai bên ký Hiệp ước Phòng thủ Chung Mỹ-Đài, cam kết Mỹ bảo vệ Đài Loan trước bất kỳ cuộc tấn công nào từ PRC. Hiệp ước này giúp ngăn chặn các cuộc khủng hoảng sau đó, như Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ nhất (1954-1955) và lần thứ hai (1958), khi PRC pháo kích các đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Về kinh tế, viện trợ Mỹ trong thập niên 1950 giúp Đài Loan tránh suy thoái, chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa, tạo nền tảng cho "Kỳ tích sông Hán". Đài Loan cũng giữ được vị thế quốc tế, đại diện Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đến năm 1971. Nếu không có sự bảo vệ từ Chiến tranh Triều Tiên, Đài Loan có lẽ đã bị cô lập và rơi vào tay PRC, thay vì trở thành một nền dân chủ thịnh vượng như hiện nay.
Chiến tranh Triều Tiên đã cứu Đài Loan khỏi sự thâu tóm của đại lục, biến một hòn đảo mong manh thành một thực thể độc lập de facto dưới sự bảo trợ của Mỹ là may mắn ngẫu nhiên. Sự kiện này cho thấy sức mạnh của địa chính trị trong Chiến tranh Lạnh: một cuộc chiến ở bán đảo Triều Tiên đã định hình số phận của Eo biển Đài Loan. Ngày nay, khi căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng và PRC ngày càng quyết tâm "thống nhất", bài học từ năm 1950 vẫn còn nguyên giá trị. Đài Loan không chỉ là biểu tượng của tự do mà còn là chìa khóa cho an ninh khu vực và chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt với vai trò dẫn đầu trong sản xuất chip bán dẫn. Duy trì hòa bình ở eo biển này đòi hỏi sự cân bằng giữa răn đe và đối thoại, để lịch sử không lặp lại theo cách bi thảm hơn.
Trong tháng cuối cùng Thế Chiến II, lực lượng Liên Xô phát động tấn công tổng lực dọc theo biên giới Trung Quốc -Mông Cổ, tận dung ngay tình thế khủng hoảng của quân Nhật. Quân Liên Xô tháo dỡ hầu hết các khu công nghiệp Mãn Châu chở về mẫu quốc vốn đang hoang tàn sau chiến tranh.
Joseph Stalin chỉ thị quân ******** của Mao sẽ hưởng hầu hết khí tài chiếm được khi Nhật đầu hàng. Cuối năm 1945, sau một cuộc tấn công lớn đánh vào Sơn Đông, tiếp giáp các khu vực Mỹ đang nắm giữ, hầu hết lãnh thổ vùng này đã rơi vào tầm kiểm soát của phe ********.
Tháng Sáu, nội chiến diện rộng bùng nổ ở Trung Quốc, kéo dài trong ba năm.

Dù phe Quốc Dân thiệt hại nặng trong cuộc đối đầu với Nhật, và phe ******** nhận được hậu thuẫn lớn từ phía Liên Xô, nhưng Mao Trạch Đông vẫn ý thức yếu điểm về nhân lực và vật lực khi so với quân của Tưởng. Trước tình hình này, quân ******** áp dụng chiến thuật “tấn công thụ động” trong giai đoạn đầu nội chiến. Quân đội của Mao sẽ tránh những địa điểm mạnh của quân Tưởng, và rút lui chiến lược khỏi các lãnh thổ khó giữ.
Chiến thuật này hiệu quả, sau một năm, lực lượng hai phe đã khá cân bằng. Quân Quốc Dân chết hơn 1.12 triệ, trong khi quân ******** lớn mạnh đến con số 2 triệu.
Năm 1948, phe ******** chiếm hai thành phố Thẩm Dương và Trường Xuân. Cuộc vây hãm Thẩm Dương buộc Quân Đoàn 1 Quốc Dân Đảng, đơn vị thiện chiến của Tưởng, phải đầu hàng tại đây đánh dấu bước ngoặt của cuộc nội chiến. Lượng khí tài khổng lồ với xe tăng, trọng pháo chiếm giữ đã giúp quân ******** đẩy lùi quân Quốc Dân về phía nam.
Mao không bỏ lỡ cơ hội, bất chấp lời khuyên của Stalin, cho quân vượt sông Dương Tử, mở nhiều chiến dịch quy mô, gây thiệt hại đâu đó khoảng 1.5 triệu lính cho phe Tưởng.
Ngày 01/10/1949, tại Bắc Kinh, Mao tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Đến lúc này, quân Quốc Dân đã bị dạt về phía nam tới Hàng Châu. Trong khi Mao đang đọc tuyên ngôn thì Tưởng Giới Thạch cùng 2 triệu binh lính rút ra đảo Đài Loan.

Năm 1949, cuộc Nội chiến Trung Quốc kết thúc với chiến thắng của lực lượng ******** do Mao Trạch Đông lãnh đạo, thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) trên đại lục. Chính phủ Quốc dân đảng (Kuomintang - KMT) do Tưởng Giới Thạch đứng đầu buộc phải rút về đảo Đài Loan, mang theo khoảng 2 triệu quân và dân thường, lập nên Cộng hòa Trung Hoa (ROC). Lúc này, Đài Loan trở thành pháo đài cuối cùng của phe Quốc dân, nhưng đứng trước nguy cơ bị PLA (Quân đội Giải phóng Nhân dân) của PRC xâm lược. PLA đã tập trung hơn 30.000 quân và hàng nghìn tàu bè tại Phúc Kiến và Chiết Giang, sẵn sàng vượt Eo biển Đài Loan rộng chỉ 130 km. Các nhà phân tích lịch sử nhận định rằng, nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài, Đài Loan khó lòng trụ vững quá vài tháng trong năm 1950. Mỹ, dưới thời Tổng thống Harry S. Truman, ban đầu không ủng hộ Tưởng Giới Thạch, thậm chí tuyên bố không can thiệp vào "xung đột nội bộ Trung Quốc" và cắt viện trợ quân sự cho ROC. Tuy nhiên, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25 tháng 6 năm 1950 đã thay đổi hoàn toàn cục diện.
Chiến Tranh Triều Tiên: Ngòi Nổ Thay Đổi Chiến Lược
![]() |
Pháo đội 155m Long Tom bắn về phía bắc Seoul vào tháng 5/1951 khi quân Liên Hợp Quốc tiến lên sau lưng quân Trung Quốc đang rút lui (ảnh: Lục quân Hoa Kỳ) |
Ngay sau khi chiến tranh nổ ra, Truman ra lệnh điều Hạm đội Thứ Bảy của Mỹ vào Eo biển Đài Loan vào ngày 27 tháng 6 năm 1950. Ông tuyên bố rằng việc PRC chiếm Đài Loan sẽ đe dọa an ninh khu vực Thái Bình Dương và lực lượng Mỹ. Hạm đội này, với hơn 100 tàu chiến bao gồm tàu sân bay và tàu ngầm, đã tạo ra một "rào chắn thép" ngăn PLA tấn công Đài Loan và đồng thời cấm ROC phản công đại lục, nhằm trung lập hóa eo biển.
Trong quá khứ, bán đảo Triều Tiên đặt dưới ách đô hộ của đế quốc Nhật, từ năm 1910 đến 1945. Khi Thế chiến thứ 2 kết thúc và nước Nhật đầu hàng quân đội đồng minh, Liên Xô và Mỹ đã tiến vào bán đảo Triều Tiên để giải giáp quân đội Nhật. Theo thỏa thuận của Hội nghị Moscow 1945, hai cường quốc này sẽ thực hiện chế độ quân quản trên bán đảo Triều Tiên với thời gian ủy trị 5 năm, Liên Xô ở miền Bắc, còn Mỹ ở miền Nam, sau thời hạn 5 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước Triều Tiên. Đất nước Triều Tiên tạm thời bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38.
Khi đó ở 2 miền Triều Tiên quần chúng đã tự hình thành các “ủy ban nhân dân” nhằm chuẩn bị tiếp quản nước Triều Tiên sau khi được giải phóng. Từng quằn quại dưới sự cai trị hà khắc của đế quốc Nhật nên nhân dân Triều Tiên đều rất khát khao độc lập. Ở miền Bắc, các “ủy ban nhân dân” nói trên có thái độ thân thiện với lực lượng quân quản Liên Xô. Tuy nhiên, tình hình ở miền Nam thì lại khác. Chế độ quân quản của Mỹ nhận thấy các yếu tố cánh tả trong các “ủy ban nhân dân” do quần chúng lập nên, và đã ra sắc lệnh giải tán các tổ chức này. Thay vào đó, Mỹ đã chủ động xây dựng ở đây 1 chính quyền lâm thời do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Quần chúng lập tức tiến hành biểu tình hoặc vũ trang nổi dậy chống lại chế độ quân quản của Mỹ và chính quyền lâm thời Lý Thừa Vãn. Lực lượng của Mỹ và của ông Lý Thừa Vãn đã nhanh chóng trấn áp các cuộc biểu tình và nổi dậy này.
Lý Thừa Vãn và nhóm của ông này cho rằng, 35 năm cai trị của Nhật Bản là đủ lắm rồi và không muốn có thêm một thời kỳ chiếm đóng nào nữa của nước ngoài. Do đó họ phản đối chính chế độ ủy trị do Mỹ thực hiện. Kết quả là Mỹ nhất trí rút ngắn thời hạn ủy trị và tiến hành tổng tuyển cử ở miền Nam Triều Tiên vào năm 1948. Liên Xô đã phản đối và tẩy chay cuộc bầu cử này, cho rằng Mỹ phải tôn trọng thỏa thuận tại Hội nghị Moscow 1945.
Bất chấp sự tẩy chay của lực lượng cánh tả địa phương, cuộc bầu cử quốc hội đã diễn ra ở Nam Triều Tiên vào tháng 5/1948. Quốc hội này bầu ra Tổng thống vào tháng 7/1948 (Lý Thừa Vãn đắc cử vào vị trí này). Đến tháng 8/1948 thì Đại Hàn Dân quốc (Hàn Quốc) chính thức ra đời. Trước diễn biến trên, miền Bắc Triều Tiên đã đáp lại bằng 1 cuộc bầu cử quốc hội, và vào tháng 9/1948, CHDCND Triều Tiên tuyên bố thành lập, do lãnh tụ Kim Nhật Thành đứng đầu (CHDCND Triều Tiên tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội của nước này không chỉ diễn ra công khai ở miền Bắc mà còn được tiến hành bí mật ở cả miền Nam). Trong năm 1948, các lực lượng Liên Xô rút khỏi Triều Tiên. Sang năm 1949, Mỹ rút quân khỏi bán đảo này.
Cả ông Lý Thừa Vãn và Kim Nhật Thành đều có mong muốn cháy bỏng thống nhất bán đảo Triều Tiên. Các xung đột vũ trang nhỏ lẻ đã diễn ra dọc giới tuyến quân sự giữa quân đội 2 miền.
Ngày 25/6/1950, Quân đội Nhân dân Triều Tiên (tức quân đội của CHDCND Triều Tiên) vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Hàn Quốc. Với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, và lực lượng đông hơn, quân đội Triều Tiên đã nhanh chóng đột kích, chiếm gọn thủ đô Seoul của Hàn Quốc chỉ sau vài ngày khai chiến. Đến ngày 10/9/1950, quân đội Triều Tiên đã gần như tràn ngập toàn bộ lãnh thổ Hàn Quốc và dồn quân đội Hàn Quốc cùng với 1 lực lượng nhỏ của Mỹ về khu vực Busan nằm ở cực nam bán đảo Triều Tiên.
Trước tình hình Hàn Quốc nguy ngập, Mỹ đã can thiệp một cách quyết tâm. Một mặt, Mỹ muốn bảo vệ đồng minh của mình tại đây. Mặt khác Mỹ lo phong trào XHCN sẽ lan rộng sang các nước khác, đặc biệt là nước Nhật gần đó mà Mỹ muốn sử dụng làm đối trọng với Liên Xô trong chiến lược toàn cầu của mình.
Ngày 25/6/1950, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 82 lên án CHDCND Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc và kêu gọi Triều Tiên rút quân ngay lập tức. (Liên Xô lúc đấy đã không thể phủ quyết nghị quyết này do Liên Xô tẩy chay Hội đồng Bảo an từ đầu năm 1950 để phản đối việc Đài Loan chứ không phải Trung Quốc được giữ ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an). Tiếp đó, Hội đồng này vào ngày 27/6/1950 ra tiếp nghị quyết 83, cho phép hỗ trợ (bao gồm cả hỗ trợ quân sự) cho Hàn Quốc đẩy lui quân Triều Tiên. Sang đầu tháng 7/1950, Nghị quyết 84 của Hội đồng Bảo an được ban ra, khuyến nghị tập hợp các lực lượng và nguồn lực trợ giúp dưới 1 bộ chỉ huy thống nhất do Hoa Kỳ lãnh đạo. Kết quả, dưới danh nghĩa Liên Hợp Quốc, Mỹ đã lôi kéo được 21 nước khác tham gia cùng mình tại chiến trường Triều Tiên. Trong tổng số 22 nước này, ngoài Mỹ và Hàn Quốc thì có tới 15 nước thành viên Liên Hợp Quốc gửi quân sang trực tiếp chiến đấu tại Triều Tiên, số còn lại cung cấp trợ giúp nhân đạo. Tuy nhiên quân số của Mỹ và Hàn Quốc vẫn là chủ đạo.
Sự tham chiến của lực lượng Liên Hợp Quốc đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Quân Liên Hợp Quốc do Mỹ chỉ huy đã phản công đẩy lui quân đội Triều Tiên về phía Bắc vĩ tuyến 38 và gây thiệt hại nặng cho lực lượng quân sự Triều Tiên. Trước thắng lợi này, phía Hàn Quốc lại mơ về khả năng thống nhất toàn bán đảo Triều Tiên và đã cùng với quân đội Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh CHDCND Triều Tiên. Quân Liên Hợp Quốc sau đó đã chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng và đẩy quân đội của ông Kim Nhật Thành về sát sông Áp Lục, ranh giới tự nhiên giữa Triều Tiên và Trung Quốc.
Trước thực tế đó, Trung Quốc dù mới thành lập nước vào năm 1949, đã quyết định tung hàng trăm ngàn “chí nguyện quân” (lực lượng quân tình nguyện- PV) sang Triều Tiên để thực hiện “kháng Mỹ viện Triều” – đây là điều khá bất ngờ đối với Mỹ. Sử dụng một số chiến thuật hợp lý và có lợi thế quân đông, Trung Quốc đã giúp Triều Tiên đẩy lùi quân Liên Hợp Quốc về vĩ tuyến 38. Thừa thắng, liên quân Trung-Triều đã vượt vĩ tuyến 38, tái chiếm Seoul.
Sự hiện diện này làm gián đoạn kế hoạch xâm lược của Mao Trạch Đông. Hàng chục nghìn quân PLA dự kiến tấn công Đài Loan được điều động khẩn cấp sang Triều Tiên để hỗ trợ "Quân Tình nguyện Nhân dân" chống Mỹ. Các tài liệu lịch sử cho thấy sự chuyển quân này đã trì hoãn vô thời hạn kế hoạch tấn công Đài Loan, cứu hòn đảo khỏi sự sụp đổ gần như chắc chắn.
Tác Động Lâu Dài: Từ Bảo Vệ Tạm Thời Đến Đồng Minh Chiến Lược
Sự can thiệp của Mỹ không chỉ dừng lại ở việc điều hạm đội. Chiến tranh Triều Tiên đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ Mỹ-Đài Loan. Washington khôi phục viện trợ quân sự, cung cấp vũ khí và huấn luyện, giúp Đài Loan củng cố quốc phòng. Năm 1954, hai bên ký Hiệp ước Phòng thủ Chung Mỹ-Đài, cam kết Mỹ bảo vệ Đài Loan trước bất kỳ cuộc tấn công nào từ PRC. Hiệp ước này giúp ngăn chặn các cuộc khủng hoảng sau đó, như Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ nhất (1954-1955) và lần thứ hai (1958), khi PRC pháo kích các đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Về kinh tế, viện trợ Mỹ trong thập niên 1950 giúp Đài Loan tránh suy thoái, chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa, tạo nền tảng cho "Kỳ tích sông Hán". Đài Loan cũng giữ được vị thế quốc tế, đại diện Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đến năm 1971. Nếu không có sự bảo vệ từ Chiến tranh Triều Tiên, Đài Loan có lẽ đã bị cô lập và rơi vào tay PRC, thay vì trở thành một nền dân chủ thịnh vượng như hiện nay.
Chiến tranh Triều Tiên đã cứu Đài Loan khỏi sự thâu tóm của đại lục, biến một hòn đảo mong manh thành một thực thể độc lập de facto dưới sự bảo trợ của Mỹ là may mắn ngẫu nhiên. Sự kiện này cho thấy sức mạnh của địa chính trị trong Chiến tranh Lạnh: một cuộc chiến ở bán đảo Triều Tiên đã định hình số phận của Eo biển Đài Loan. Ngày nay, khi căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng và PRC ngày càng quyết tâm "thống nhất", bài học từ năm 1950 vẫn còn nguyên giá trị. Đài Loan không chỉ là biểu tượng của tự do mà còn là chìa khóa cho an ninh khu vực và chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt với vai trò dẫn đầu trong sản xuất chip bán dẫn. Duy trì hòa bình ở eo biển này đòi hỏi sự cân bằng giữa răn đe và đối thoại, để lịch sử không lặp lại theo cách bi thảm hơn.