Ông Ích Khiêm Trần Xuân Soạn, 2 thằng bóp cổ chết vua Hiệp Hòa của nhà Nguyễn

Vua Hiệp Hòa (Nguyễn Phúc Hồng Dật, 1847-1883) là một trong những vị vua có số phận bi thảm nhất lịch sử Việt Nam. Ông ngồi trên ngai vàng chỉ khoảng 130 ngày, rồi bị 2 đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sai người ép uống thuốc độc mà chết

Hiệp Hòa, tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Dật, sinh ngày 1 tháng 11 năm 1847, là con trai thứ 29 và cũng là người con trai út của vua Thiệu Trị với Tam giai Thụy tần Trương Thị Thận. Từ nhỏ, ông được gọi là Mệ Mến theo tập quán đặt tên trong hoàng tộc để dễ nuôi dưỡng. Đến năm Tự Đức thứ 18 (1865), ông được phong tước Lãng Quốc công. Trong gia đình, ngoài Hiệp Hòa, bà Thụy tần Trương thị còn sinh thêm nhiều người con khác, và về sau Hiệp Hòa cũng có đông con cháu, gồm 11 hoàng tử và 6 hoàng nữ. Một số con trai của ông được tập phong, làm quan và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn.

Cuộc đời của Hiệp Hòa vốn không có dấu hiệu nào cho thấy ông sẽ trở thành hoàng đế, bởi thứ bậc trong hoàng tộc quá xa. Tuy nhiên, biến cố năm 1883 đã thay đổi số phận của ông. Khi vua Tự Đức băng hà mà không để lại con nối dõi, di chiếu truyền ngôi cho con nuôi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, tức vua Dục Đức. Thế nhưng, Dục Đức chỉ giữ ngôi được ba ngày, chưa kịp đặt niên hiệu, thì bị hai Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạch tội, phế truất và bỏ đói đến chết. Trong bối cảnh khẩn trương đó, triều đình phải gấp rút chọn một nhân vật khác để kế vị.

Hai vị Phụ chính đã dâng tấu lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, đề nghị lập Lãng Quốc công Hồng Dật lên ngôi. Đây là lựa chọn mang tính thỏa hiệp trong thời thế rối ren, khi triều Nguyễn vừa mất vị vua chính thức, lại đang đối diện với áp lực ngày càng gia tăng từ thực dân Pháp. Dù vậy, bản thân Hồng Dật không hề mong muốn trở thành hoàng đế. Theo hồi ký của Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý Ngự tiền Văn phòng thời Bảo Đại, khi đình thần đến rước tại nhà riêng ở Kim Long, Hồng Dật một mực từ chối. Dù quan lại nhiều lần khẩn khoản, ông vẫn không chịu vào cung, đến nỗi cuối cùng phải dùng vũ lực đưa ông vào Tử Cấm thành.

vua-hiep-hoa-01-2117.png
Tranh vẽ vua Hiệp Hòa. Ảnh: Lịch sử Việt Nam



Hai ngày sau, vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, Hồng Dật chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu Hiệp Hòa. Việc lên ngôi này mang nặng dấu ấn của sự sắp đặt từ phía các phụ chính, hơn là sự chủ động từ bản thân vị tân hoàng đế. Ông trở thành vị vua thứ sáu của triều Nguyễn trong hoàn cảnh bị động, gần như bị ép buộc, trong khi bản thân vốn không có sự chuẩn bị để gánh vác ngôi báu.

Thời gian trị vì của vua Hiệp Hòa chỉ kéo dài 130 ngày, tức 4 tháng 10 ngày, ngắn ngủi nhất trong lịch sử các hoàng đế nhà Nguyễn. Thực tế, cái chết của vua Hiệp Hòa là một trong những bi kịch đặc biệt của triều Nguyễn, phản ánh sự rối loạn và bế tắc chính trị của triều đình Huế cuối thế kỷ XIX.

Ngay từ khi mới lên ngôi, Hiệp Hòa đã vấp phải sự bất hòa với hai phụ chính đại thần đầy quyền lực là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Tính cách cứng rắn, không chấp nhận sự chuyên quyền của họ khiến ông sớm bị coi là cái gai trong mắt hai nhân vật này. Sự việc càng trở nên căng thẳng hơn khi Hiệp Hòa ký Hòa ước Harmand với Pháp vào ngày 25 tháng 8 năm 1883. Bản hiệp ước này đã đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cho phép họ can thiệp vào nội trị và ngoại giao của triều đình. Điều này khiến uy tín của Hiệp Hòa sụt giảm nghiêm trọng trong mắt quan lại và nhân dân.

Không những vậy, chính sách thiên về hòa hoãn với Pháp, bị xem là nhu nhược, đã đối lập hoàn toàn với chủ trương chống Pháp đến cùng của phe Tôn Thất Thuyết. Từ đó, mâu thuẫn giữa nhà vua và hai phụ chính ngày càng gay gắt. Trong triều, Tôn Thất Thuyết thậm chí công khai to tiếng, không chịu hành lễ trước vua, cho thấy sự khinh thường. Về phía mình, Hiệp Hòa vì lo sợ cho tính mạng đã tìm cách dựa vào người Pháp, bí mật nhờ Khâm sứ De Champeaux giúp loại bỏ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Song kế hoạch này nhanh chóng bị bại lộ.

Ngày 29 tháng 11 năm 1883, nội giám Trần Đạt báo tin cho Nguyễn Văn Tường về lá thư mật mà vua Hiệp Hòa gửi cho người Pháp. Ngay trưa hôm đó, Hoàng Thành bị đóng kín, một cuộc họp bất thường được triệu tập để luận tội nhà vua. Ông bị buộc ba tội lớn: tham lạm công quỹ, không nghe lời phụ chính và tư thông với Pháp. Không thể tự biện minh, Hiệp Hòa buộc phải ký vào tờ chiếu thoái vị. Đây là bước đầu tiên của bi kịch đã được định sẵn

Theo Đại Nam thực lục, sau khi bị phế truất, vua xin được lui về phủ cũ. Hai phụ chính giả vờ chấp thuận nhưng ngấm ngầm ra lệnh cho võ tướng Ông Ích Khiêm và Văn Đễ thi hành bản án tử hình. Khi đoàn đưa nhà vua đi qua cửa Hiển Nhân, ông bị ép uống thuốc độc pha trong nước chè. Ban đầu Hiệp Hòa chống cự, chần chừ không chịu uống, nói rằng mình cũng không thể kém hơn vua Dục Đức. Nhưng cuối cùng, thuốc độc bị đổ thẳng vào miệng khiến ông ngã quỵ. Để bảo đảm cái chết diễn ra nhanh chóng, một viên tướng khác là Trần Xuân Soạn còn ra lệnh bóp cổ nhà vua đến khi tắt thở. Cái chết của ông diễn ra vào khoảng xế chiều, ngay trong sự tuyệt vọng và nhục nhã.

Các nguồn tư liệu khác cũng ghi lại những chi tiết tương tự, tuy khác biệt đôi chút. Có tài liệu nói rằng Hiệp Hòa do dự một lúc rồi tự chọn chén thuốc độc. Một số tư liệu lại khẳng định ông bị cưỡng bức đến chết, cổ họng sưng phồng, mắt trợn lồi, chứng tỏ cái chết không hề nhẹ nhàng. Dù theo cách nào, đó vẫn là một cái chết đầy bi thảm, đánh dấu sự phế truất và bức tử của vị hoàng đế thứ sáu triều Nguyễn.

Cái chết của Hiệp Hòa còn kéo theo nhiều hệ lụy chính trị. Hoàng thân Hồng Sâm, người giúp vua liên hệ với Pháp, cũng bị xử tử. Quan phụ chính Trần Tiễn Thành, vì không đồng tình với Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, cũng bị ám sát. Làn sóng khủng bố bao trùm kinh thành Huế, khiến phe chủ hòa suy yếu hoàn toàn. Hai phụ chính lúc này thẳng tay thao túng triều đình, đưa Kiến Phúc lên ngôi. Họ còn tuyên bố bản Hòa ước Quý Mùi vô hiệu, vì người ký tên – vua Hiệp Hòa – đã chết, nhằm xóa bỏ trách nhiệm pháp lý trước Pháp.

Về sau, sử sách gọi Hiệp Hòa là Phế Đế, một vị vua trị vì chỉ 130 ngày. Mãi đến năm 1891, vua Thành Thái mới truy tôn ông làm Văn Lãng Quận vương, thụy là Trang Cung, phần nào xoa dịu bi kịch của vị vua này. Tuy nhiên, sự thật vẫn không thay đổi: ông là vị hoàng đế duy nhất của triều Nguyễn bị chính các cận thần ép chết trong một cuộc đảo chính ngấm ngầm do chủ hoà và có ý dựa vào thực dân Pháp.
 
Vua Hiệp Hòa (Nguyễn Phúc Hồng Dật, 1847-1883) là một trong những vị vua có số phận bi thảm nhất lịch sử Việt Nam. Ông ngồi trên ngai vàng chỉ khoảng 130 ngày, rồi bị 2 đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sai người ép uống thuốc độc mà chết

Hiệp Hòa, tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Dật, sinh ngày 1 tháng 11 năm 1847, là con trai thứ 29 và cũng là người con trai út của vua Thiệu Trị với Tam giai Thụy tần Trương Thị Thận. Từ nhỏ, ông được gọi là Mệ Mến theo tập quán đặt tên trong hoàng tộc để dễ nuôi dưỡng. Đến năm Tự Đức thứ 18 (1865), ông được phong tước Lãng Quốc công. Trong gia đình, ngoài Hiệp Hòa, bà Thụy tần Trương thị còn sinh thêm nhiều người con khác, và về sau Hiệp Hòa cũng có đông con cháu, gồm 11 hoàng tử và 6 hoàng nữ. Một số con trai của ông được tập phong, làm quan và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn.

Cuộc đời của Hiệp Hòa vốn không có dấu hiệu nào cho thấy ông sẽ trở thành hoàng đế, bởi thứ bậc trong hoàng tộc quá xa. Tuy nhiên, biến cố năm 1883 đã thay đổi số phận của ông. Khi vua Tự Đức băng hà mà không để lại con nối dõi, di chiếu truyền ngôi cho con nuôi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, tức vua Dục Đức. Thế nhưng, Dục Đức chỉ giữ ngôi được ba ngày, chưa kịp đặt niên hiệu, thì bị hai Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạch tội, phế truất và bỏ đói đến chết. Trong bối cảnh khẩn trương đó, triều đình phải gấp rút chọn một nhân vật khác để kế vị.

Hai vị Phụ chính đã dâng tấu lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, đề nghị lập Lãng Quốc công Hồng Dật lên ngôi. Đây là lựa chọn mang tính thỏa hiệp trong thời thế rối ren, khi triều Nguyễn vừa mất vị vua chính thức, lại đang đối diện với áp lực ngày càng gia tăng từ thực dân Pháp. Dù vậy, bản thân Hồng Dật không hề mong muốn trở thành hoàng đế. Theo hồi ký của Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý Ngự tiền Văn phòng thời Bảo Đại, khi đình thần đến rước tại nhà riêng ở Kim Long, Hồng Dật một mực từ chối. Dù quan lại nhiều lần khẩn khoản, ông vẫn không chịu vào cung, đến nỗi cuối cùng phải dùng vũ lực đưa ông vào Tử Cấm thành.

vua-hiep-hoa-01-2117.png
Tranh vẽ vua Hiệp Hòa. Ảnh: Lịch sử Việt Nam



Hai ngày sau, vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, Hồng Dật chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu Hiệp Hòa. Việc lên ngôi này mang nặng dấu ấn của sự sắp đặt từ phía các phụ chính, hơn là sự chủ động từ bản thân vị tân hoàng đế. Ông trở thành vị vua thứ sáu của triều Nguyễn trong hoàn cảnh bị động, gần như bị ép buộc, trong khi bản thân vốn không có sự chuẩn bị để gánh vác ngôi báu.

Thời gian trị vì của vua Hiệp Hòa chỉ kéo dài 130 ngày, tức 4 tháng 10 ngày, ngắn ngủi nhất trong lịch sử các hoàng đế nhà Nguyễn. Thực tế, cái chết của vua Hiệp Hòa là một trong những bi kịch đặc biệt của triều Nguyễn, phản ánh sự rối loạn và bế tắc chính trị của triều đình Huế cuối thế kỷ XIX.

Ngay từ khi mới lên ngôi, Hiệp Hòa đã vấp phải sự bất hòa với hai phụ chính đại thần đầy quyền lực là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Tính cách cứng rắn, không chấp nhận sự chuyên quyền của họ khiến ông sớm bị coi là cái gai trong mắt hai nhân vật này. Sự việc càng trở nên căng thẳng hơn khi Hiệp Hòa ký Hòa ước Harmand với Pháp vào ngày 25 tháng 8 năm 1883. Bản hiệp ước này đã đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cho phép họ can thiệp vào nội trị và ngoại giao của triều đình. Điều này khiến uy tín của Hiệp Hòa sụt giảm nghiêm trọng trong mắt quan lại và nhân dân.

Không những vậy, chính sách thiên về hòa hoãn với Pháp, bị xem là nhu nhược, đã đối lập hoàn toàn với chủ trương chống Pháp đến cùng của phe Tôn Thất Thuyết. Từ đó, mâu thuẫn giữa nhà vua và hai phụ chính ngày càng gay gắt. Trong triều, Tôn Thất Thuyết thậm chí công khai to tiếng, không chịu hành lễ trước vua, cho thấy sự khinh thường. Về phía mình, Hiệp Hòa vì lo sợ cho tính mạng đã tìm cách dựa vào người Pháp, bí mật nhờ Khâm sứ De Champeaux giúp loại bỏ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Song kế hoạch này nhanh chóng bị bại lộ.

Ngày 29 tháng 11 năm 1883, nội giám Trần Đạt báo tin cho Nguyễn Văn Tường về lá thư mật mà vua Hiệp Hòa gửi cho người Pháp. Ngay trưa hôm đó, Hoàng Thành bị đóng kín, một cuộc họp bất thường được triệu tập để luận tội nhà vua. Ông bị buộc ba tội lớn: tham lạm công quỹ, không nghe lời phụ chính và tư thông với Pháp. Không thể tự biện minh, Hiệp Hòa buộc phải ký vào tờ chiếu thoái vị. Đây là bước đầu tiên của bi kịch đã được định sẵn

Theo Đại Nam thực lục, sau khi bị phế truất, vua xin được lui về phủ cũ. Hai phụ chính giả vờ chấp thuận nhưng ngấm ngầm ra lệnh cho võ tướng Ông Ích Khiêm và Văn Đễ thi hành bản án tử hình. Khi đoàn đưa nhà vua đi qua cửa Hiển Nhân, ông bị ép uống thuốc độc pha trong nước chè. Ban đầu Hiệp Hòa chống cự, chần chừ không chịu uống, nói rằng mình cũng không thể kém hơn vua Dục Đức. Nhưng cuối cùng, thuốc độc bị đổ thẳng vào miệng khiến ông ngã quỵ. Để bảo đảm cái chết diễn ra nhanh chóng, một viên tướng khác là Trần Xuân Soạn còn ra lệnh bóp cổ nhà vua đến khi tắt thở. Cái chết của ông diễn ra vào khoảng xế chiều, ngay trong sự tuyệt vọng và nhục nhã.

Các nguồn tư liệu khác cũng ghi lại những chi tiết tương tự, tuy khác biệt đôi chút. Có tài liệu nói rằng Hiệp Hòa do dự một lúc rồi tự chọn chén thuốc độc. Một số tư liệu lại khẳng định ông bị cưỡng bức đến chết, cổ họng sưng phồng, mắt trợn lồi, chứng tỏ cái chết không hề nhẹ nhàng. Dù theo cách nào, đó vẫn là một cái chết đầy bi thảm, đánh dấu sự phế truất và bức tử của vị hoàng đế thứ sáu triều Nguyễn.

Cái chết của Hiệp Hòa còn kéo theo nhiều hệ lụy chính trị. Hoàng thân Hồng Sâm, người giúp vua liên hệ với Pháp, cũng bị xử tử. Quan phụ chính Trần Tiễn Thành, vì không đồng tình với Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, cũng bị ám sát. Làn sóng khủng bố bao trùm kinh thành Huế, khiến phe chủ hòa suy yếu hoàn toàn. Hai phụ chính lúc này thẳng tay thao túng triều đình, đưa Kiến Phúc lên ngôi. Họ còn tuyên bố bản Hòa ước Quý Mùi vô hiệu, vì người ký tên – vua Hiệp Hòa – đã chết, nhằm xóa bỏ trách nhiệm pháp lý trước Pháp.

Về sau, sử sách gọi Hiệp Hòa là Phế Đế, một vị vua trị vì chỉ 130 ngày. Mãi đến năm 1891, vua Thành Thái mới truy tôn ông làm Văn Lãng Quận vương, thụy là Trang Cung, phần nào xoa dịu bi kịch của vị vua này. Tuy nhiên, sự thật vẫn không thay đổi: ông là vị hoàng đế duy nhất của triều Nguyễn bị chính các cận thần ép chết trong một cuộc đảo chính ngấm ngầm do chủ hoà và có ý dựa vào thực dân Pháp.
Hiệp không liên quan gì nhé.🤣😂🤣
 
Ông vua này khôn khéo đấy, hoàn hoãn với pháp để tránh chiến tranh phát triển cũng có thể là 1 sự lựa chọn ko tồi trong thời điểm đó.
Đúng rồi
Ổng cải cách đó và kết quả như vậy đó
Cho nên thằng nào đó hỏi tại sao tự Đức đéo duy tân như Minh Trị thì hãy xem kết quả của Hiệp Hòa
 
Đúng rồi
Ổng cải cách đó và kết quả như vậy đó
Cho nên thằng nào đó hỏi tại sao tự Đức đéo duy tân như Minh Trị thì hãy xem kết quả của Hiệp Hòa
Đọc mà sợ quá. Tao bắt đầu thấy thương Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Ba Dũng, Tô Lâm rồi.
Đầu trên cổ còn chưa chắc giữ được. Dân chủ với cải cách cái đách Lồn họ.
Dân tộc này xứng đáng làm nô lệ ngàn đời
 
Đọc mà sợ quá. Tao bắt đầu thấy thương Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Ba Dũng, Tô Lâm rồi.
Đầu trên cổ còn chưa chắc giữ được. Dân chủ với cải cách cái đách lồn họ.
Dân tộc này xứng đáng làm nô lệ ngàn đời
cải cách cái Lồn, m nhìn gương ông Giáp bị chúng nó hạ nhục, ông 3x bị lật đổ thì thấy được. Trong đầu lóe lên tư tưởng thôi cũng đủ để nó đạp thẳng xuống đất rồi. Phóng lao phải theo lao thôi
 
Lịch sử Đại Việt - Đại Nam chỉ tầm bá vương khu vực là hết. Tánh cách người Việt khá cầu toàn. Việt vs Hoa là 2 dân tộc an phận nhất Tg. Xưa ng Pháp họ nói . Tộc Việt họ thích đc cai trị bởi sắc dân của họ. Dù có tham nhũng bốc lột cỡ nào miễn là dân xứ họ là đc. Còn Ngoại quốc dù tốt đến đâu thì cũng chỉ là những kẻ ngoại bang
 

Có thể bạn quan tâm

Top