Có Hình Sĩ phu Bắc Hà - Khí phách không khuất phục

salamanca

Chú bộ đội
Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực.
Người xưa nói: “Quan Nam, sĩ Bắc” – ý rằng nơi phương Nam sinh ra những bậc quyền biến, khôn khéo trị dân, còn đất Bắc lại sản sinh ra những người trọng nghĩa, trọng đạo, thà mất lợi mà giữ tiết tháo.
Chính cái khí chất ấy đã làm nên nỗi e dè của mọi thế lực cầm quyền: bởi trí thức Bắc Hà không dễ bị mua chuộc, không dễ bị dẫn dắt, và một khi họ đã hiểu lẽ phải thì không ai có thể buộc họ nói ngược.
Nhưng thời nào cũng có người học thật và kẻ học giả. Ngày nay, giữa thời vật chất lên ngôi, kẻ học giả lại dễ nổi hơn người học thật. Không cần uyên bác, chỉ cần khéo miệng, khéo quan hệ, là có thể trở thành “chuyên gia”, “nhà nghiên cứu”, “giáo sư mời”.
Nếu sĩ phu Bắc Hà xưa dám bỏ quan vì một chữ nghĩa, thì lớp trí thức giả danh nay lại sẵn sàng cúi đầu vì một phong bì.
ái nguy hiểm của họ không nằm ở sự dốt, mà ở cái dốt biết đội lốt học vị. Họ mượn danh học thuật để ngụy trang cho sự nông cạn, lấy hội thảo để hợp thức hóa ngụy biện. Có kẻ tự phong là “nhà sử học”, rồi tùy tiện xét lại lịch sử theo đơn đặt hàng; có kẻ nhân danh “khoa học”, nhưng lại chỉ làm nhiệm vụ tô son cho quyền lực.
Những người ấy không còn tìm chân lý, mà tìm sự an toàn trong giả dối. Không còn tin vào đạo, mà chỉ tin vào đường tắt. Khi cái giả đủ đông, người ta tưởng đó là thật – và khi dối trá được mặc áo học thuật, khí phách Bắc Hà xưa lại lặng lẽ rời bỏ cõi này.
Muốn khôi phục tinh thần sĩ phu Bắc Hà, phải trả lại ý nghĩa thật của hai chữ “trí thức”. Trí không chỉ là biết nhiều, mà là biết phân biệt đúng – sai, chính – tà. Thức không chỉ là tri thức sách vở, mà là sự thức tỉnh của lương tri và trách nhiệm xã hội.
Người trí thức hôm nay không cần áo dài, cũng chẳng cần cử án tề mi; điều cần là sự can đảm đứng về phía sự thật. Trong thời đại mà lời nói thật dễ bị công kích, thì một câu trung thực cũng đủ là hành động dũng cảm.
Khí phách ấy không nằm ở tiếng hô to, mà ở sự kiên định âm thầm – dám giữ quan điểm của mình, dù bị cô lập; dám không vỗ tay theo đám đông; dám từ chối thỏa hiệp với điều sai. Quyền lực có thể mua được danh tiếng, nhưng không thể mua được niềm tin và lòng tự trọng.
Muốn xã hội có lại lớp sĩ phu đúng nghĩa, phải dạy thế hệ trẻ biết trọng nhân cách hơn học vị, trọng trung thực hơn danh tiếng. Khi người trí thức không còn cúi đầu, dân tộc sẽ tự đứng thẳng.
Thời đại có thể đổi thay, nhưng khí phách sĩ phu Bắc Hà vẫn cần được giữ như ngọn đèn soi giữa đêm. Khi tri thức gắn liền với lương tâm, khi danh xưng đi cùng nhân cách, thì đất nước này vẫn còn những người khiến quyền lực phải nể, và sự thật vẫn còn chỗ để đứng.
 
2GFJJUAZBR2CYFCF63V7EIB6UI.jpg


hpjU5p4.jpg-webp
 
1/ Ngày 6 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ hai (10/09/1404): Bồi thần An Nam là Bùi Bá Kỳ đến cáo cấp, lời tâu rằng:
“Gia đình thần đời đời thờ họ Trần nước An Nam, cha ông thần là quan Đại phu, chết vì việc nước. Mẹ thần thuộc dòng thân cận tôn thất họ Trần; vì vậy lúc nhỏ thần được hầu hạ Quốc vương, tước ngũ phẩm; rồi được làm Tỳ tướng cho Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân. Năm Hồng Vũ thứ 32 thay Khát Chân ra biển Đông Hải chống cự với giặc Nụy. Lúc này gian thần cha con Lê Quí Ly giết chúa soán ngôi, hãm hại trung thần diệt cả dòng họ có đến trăm mười người. Anh em vợ con thần đều bị giết hại; lại sai người đi bắt thần để xẻ thịt. Thần nghe việc biến bèn bỏ quân ngũ, chạy trốn vào rừng, sống nơi cùng tịch cùng Mường Mán, vượn khỉ. Lòng trung thành sáng chói, nhưng uất ức không có chỗ tố cáo. Mới đây nghe tin Hoàng thượng lên ngôi báu, mở mang sự cai trị ra muôn nơi, nên muốn được phơi bày gan ruột, cầu xin diệt nạn này. Trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, đến được biên giới. Giả mạo cùng với lái buôn khiêng vác hàng hóa, tháng 4 năm nay đến phủ Tư Minh, Quảng Tây. Được quan ty đưa đón và may mắn được chiêm bái Hoàng thượng. Thần trình rằng gian thần Lê Quí Ly là con của cố Kinh lược Lê Quốc Kỳ. Y đã hưởng ân sủng dưới triều nhà Trần, con là Thương cũng được ban chức cao. Đắc chí với tham vọng, giết vua, đổi tên họ là Hồ Nhất Nguyên; con là Hồ Đê tiếm hiệu soán ngôi, không tôn trọng mệnh lệnh Thiên triều, ngược đãi con dân trăm họ, dân chúng hàm oan kêu trời khấn đất, trung thần nghĩa sĩ nhức óc đau lòng. Thần trong lòng khích động vì điều nghĩa, mạo muội tâu lên Thiên tử xin ban rộng lòng nhân, thương dân chúng vô tội, mang quân cứu dân phạt tội, nối dòng chính thống bị đứt, thần tình nguyện cầm cung nỏ đi dẫn đường biểu dương uy trời, những người trung nghĩa hưởng ứng họp lại diệt bọn giặc, quét sạch hung đồ, lập lại con cháu nhà Trần. [Được như vậy] ắt nơi phiên di xa xôi này rất đội ơn thánh đức, cung kính triều cống, vĩnh viễn làm phiên dậu bên ngoài. Thần bất tài, trộm bắt chước Thân Bao Tư chịu tội đáng chết để thỉnh cầu, kính xin bệ hạ thương xót.”
Thiên tử thương tình, mệnh quan ty cấp cho y phục và thực phẩm (Minh thực lục I, 206-207).

2/ Ngày 17 tháng 4 năm 1407, Mạc Thúy, Doãn Bái và nhóm bô lão 1.120 người từ Bắc Giang và các phủ khác, từ An Việt và các huyện khác đến gặp chỉ huy quân Minh. Nguyên văn phát biểu của Mạc Thúy ghi nhận bởi Minh thực lục như sau:
“Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước, tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại nguyên đơn vị, dân trở về nghiệp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người hiền, tấu xin tước vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị chôn vùi vào tục Man Di, không được nghe dạy dỗ lễ nghĩa. Nay may mắn được Thánh triều tảo trừ hung nghiệt, quân dân già trẻ được chiêm ngưỡng áo khăn thịnh trị, hân hạnh không kể xiết; xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục man di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa.”
Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm tối bị tiêu diệt, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruổi về kinh đô tâu trình (Minh thực lục I, 250-251).
 
Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực.
Người xưa nói: “Quan Nam, sĩ Bắc” – ý rằng nơi phương Nam sinh ra những bậc quyền biến, khôn khéo trị dân, còn đất Bắc lại sản sinh ra những người trọng nghĩa, trọng đạo, thà mất lợi mà giữ tiết tháo.
Chính cái khí chất ấy đã làm nên nỗi e dè của mọi thế lực cầm quyền: bởi trí thức Bắc Hà không dễ bị mua chuộc, không dễ bị dẫn dắt, và một khi họ đã hiểu lẽ phải thì không ai có thể buộc họ nói ngược.
Nhưng thời nào cũng có người học thật và kẻ học giả. Ngày nay, giữa thời vật chất lên ngôi, kẻ học giả lại dễ nổi hơn người học thật. Không cần uyên bác, chỉ cần khéo miệng, khéo quan hệ, là có thể trở thành “chuyên gia”, “nhà nghiên cứu”, “giáo sư mời”.
Nếu sĩ phu Bắc Hà xưa dám bỏ quan vì một chữ nghĩa, thì lớp trí thức giả danh nay lại sẵn sàng cúi đầu vì một phong bì.
ái nguy hiểm của họ không nằm ở sự dốt, mà ở cái dốt biết đội lốt học vị. Họ mượn danh học thuật để ngụy trang cho sự nông cạn, lấy hội thảo để hợp thức hóa ngụy biện. Có kẻ tự phong là “nhà sử học”, rồi tùy tiện xét lại lịch sử theo đơn đặt hàng; có kẻ nhân danh “khoa học”, nhưng lại chỉ làm nhiệm vụ tô son cho quyền lực.
Những người ấy không còn tìm chân lý, mà tìm sự an toàn trong giả dối. Không còn tin vào đạo, mà chỉ tin vào đường tắt. Khi cái giả đủ đông, người ta tưởng đó là thật – và khi dối trá được mặc áo học thuật, khí phách Bắc Hà xưa lại lặng lẽ rời bỏ cõi này.
Muốn khôi phục tinh thần sĩ phu Bắc Hà, phải trả lại ý nghĩa thật của hai chữ “trí thức”. Trí không chỉ là biết nhiều, mà là biết phân biệt đúng – sai, chính – tà. Thức không chỉ là tri thức sách vở, mà là sự thức tỉnh của lương tri và trách nhiệm xã hội.
Người trí thức hôm nay không cần áo dài, cũng chẳng cần cử án tề mi; điều cần là sự can đảm đứng về phía sự thật. Trong thời đại mà lời nói thật dễ bị công kích, thì một câu trung thực cũng đủ là hành động dũng cảm.
Khí phách ấy không nằm ở tiếng hô to, mà ở sự kiên định âm thầm – dám giữ quan điểm của mình, dù bị cô lập; dám không vỗ tay theo đám đông; dám từ chối thỏa hiệp với điều sai. Quyền lực có thể mua được danh tiếng, nhưng không thể mua được niềm tin và lòng tự trọng.
Muốn xã hội có lại lớp sĩ phu đúng nghĩa, phải dạy thế hệ trẻ biết trọng nhân cách hơn học vị, trọng trung thực hơn danh tiếng. Khi người trí thức không còn cúi đầu, dân tộc sẽ tự đứng thẳng.
Thời đại có thể đổi thay, nhưng khí phách sĩ phu Bắc Hà vẫn cần được giữ như ngọn đèn soi giữa đêm. Khi tri thức gắn liền với lương tâm, khi danh xưng đi cùng nhân cách, thì đất nước này vẫn còn những người khiến quyền lực phải nể, và sự thật vẫn còn chỗ để đứng.
Mày nói dài dòng định nghĩa làm chi vậy,
Tao giải thích ngắn gọn 4 chữ:
Sĩ phu Bắc Hà là để chỉ Đông Á Bệnh Phu.
 

Có thể bạn quan tâm

Top