Siêu AWACS A-50 Nga sánh ngang E-3 "Sentry" Mỹ

A-50 có trọng lượng không tải 75 tấn, trọng lượng cất cánh tối đa 170 tấn, sải cánh 50,5m, chiều dài 49,59m, chiều cao 14,76m. Máy bay sử dụng 4 động cơ phản lực cánh quạt Aviadvigatel PS-90A, lực đẩy 157kN cho phép nó đạt vận tốc tối đa lên đến 900 km/h, tốc độ tuần hành 466 km/h.

Máy bay có trần bay cao 12 - 13km, phạm vi hoạt động 7.500 km, thời gian lưu không liên tục tối đa là 9h. Một chiếc A-50 với phi hành đoàn 15 người (gồm 5 phi công và 10 trắc thủ tổ hợp kỹ thuật vô tuyến), có thể quần thảo liên tục 4 giờ ở khu vực hoạt động xa căn cứ 1.000 km. Nó được trang bị hệ thống tiếp nhiên liệu trên không, nâng cao rất nhiều phạm vi tác chiến thông thường.

a-50m.jpg

Radar Phalcon Active lắp trên máy bay có khả năng quét phương vị 360 độ; theo dõi, kiểm soát toàn bộ các mục tiêu bay cao hàng chục km và bay thấp vài trăm mét; trong mọi điều kiện thời tiết, cả ngày và đêm. Thiết bị vô tuyến điện và thiết bị tác chiến điện tử của máy bay có khả năng trinh sát, phát hiện và chế áp điện tử rất mạnh, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ tác chiến trong trường hợp địch gây nhiễu điện từ mạnh.

Máy bay A-50 có thể phát hiện máy bay ném bom ở khoảng cách 650 km, chiến đấu cơ cách xa 300 km và mục tiêu dưới mặt đất/mặt biển là 300 km, tên lửa hành trình ở khoảng cách 215 km và có thể theo dõi đồng thời tới 300 mục tiêu khác nhau. Trong nhiệm vụ chỉ huy trên không, A-50 có thể chỉ huy tác chiến tới 10 máy bay chiến đấu gồm nhiều loại khác nhau.

Tính năng của A-50 được các chuyên gia quân sự đánh giá là không hề thua kém máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không E-3 “Sentry” của không quân Mỹ.


A-50, có tên mã NATO là "Mainstay", được phát triển từ khung máy bay vận tải Ilyushin Il-76 và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1985 nhằm thay thế mẫu Tupolev Tu-126 cũ. Dù hơn 40 chiếc đã được sản xuất trước năm 1992, đến nay chỉ còn một số ít hoạt động.

Phiên bản tiên tiến nhất, A-50U, được trang bị radar giám sát Liana với khả năng phát hiện mục tiêu trên không trong phạm vi 650 km và mục tiêu mặt đất trong phạm vi 300 km. Ngoài ra, A-50U còn tích hợp radar Shemel-M hiện đại, hệ thống dẫn đường tiên tiến cùng các màn hình LCD giúp nâng cao hiệu suất vận hành.

Với khả năng điều khiển đồng thời lên đến 10 máy bay chiến đấu, A-50 đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động đánh chặn và tấn công tầm xa.

Trong xung đột Nga-Ukraine, loại máy bay này có nhiệm vụ phát hiện máy bay, tên lửa hành trình và máy bay không người lái của Ukraine, cung cấp dữ liệu thời gian thực cho lực lượng không quân Nga và hệ thống phòng không mặt đất như S-400.

Ngoài ra, A-50 còn giúp mở rộng phạm vi giám sát radar, hỗ trợ điều phối các hoạt động không quân và truyền tải dữ liệu đến trung tâm chỉ huy.

So với các đối thủ phương Tây, A-50 có một số điểm mạnh và hạn chế. Boeing E-3 Sentry của Mỹ có phạm vi phát hiện mục tiêu trên không hơn 400 km, thấp hơn một chút so với A-50, nhưng lại vượt trội về tác chiến điện tử và xử lý dữ liệu. Trong khi đó, Northrop Grumman E-2 Hawkeye của Hải quân Mỹ có phạm vi nhỏ hơn nhưng linh hoạt hơn trong các nhiệm vụ trên biển.

Theo Bộ Quốc phòng Anh, chi phí thay thế một chiếc A-50 lên tới 300 triệu USD. Không chỉ mất đi khí tài đắt giá, Nga còn phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt phi hành đoàn giàu kinh nghiệm, những người phải trải qua nhiều năm huấn luyện.
 

Có thể bạn quan tâm

Top