Có Hình Tại sao Phật giáo lại có quá nhiều hệ phái triết học, tư tưởng khác nhau và đối chọi lẫn nhau

Những thế kỷ đầu sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch đã chứng kiến sự trỗi dậy của nhiều trường phái tư tưởng và các dòng truyền thừa trong cộng đồng Phật giáo khi nó lan rộng khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Các cộng đồng tu sĩ học thuật mới này có những mối quan tâm lý thuyết và thực hành riêng biệt.

Trong nỗ lực hệ thống hóa, giải thích và xem xét lại những lời dạy rải rác của Đức Phật, họ đã phát triển một hệ thống tư tưởng và phương pháp trình bày đặc biệt gọi là Abhidharma (tiếng Pali: Abhidhamma).

Thuật ngữ Abhidharma trong tiếng Phạn có vẻ bắt nguồn từ biểu thức có nghĩa là “liên quan đến (abhi) giáo pháp (dharma trong tiếng Phạn, dhamma trong tiếng Pali).” Tuy nhiên, theo truyền thống giải thích của Phật giáo, thuật ngữ này có nghĩa gần với “giáo lý cao hơn” hoặc “giáo lý sâu xa hơn,” và nó đề cập đến cả các nghiên cứu học thuật của phong trào kinh viện mới cũng như bộ văn bản được hình thành từ hệ thống trình bày tư tưởng Phật giáo của phong trào này.

Bộ văn học này bao gồm phần thứ ba của Tam tạng kinh điển (Skt. tripiṭaka, Pali tipiṭaka) của Phật giáo, tức là Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidharma-piṭaka trong tiếng Phạn, Abhidhamma-piṭaka trong tiếng Pali), cùng với các bản chú giải và những văn bản giải thích sau này.

Với tư cách là một thể loại văn học độc lập cũng như một nhánh tư tưởng và nghiên cứu, Abhidharma đối lập với Sūtrānta, tức hệ thống kinh điển của Đức Phật (sūtras trong tiếng Phạn, suttas trong tiếng Pali). Không giống như các bài kinh Phật giáo sơ kỳ mang tính chất đối thoại thông thường, phương pháp của Abhidharma trình bày giáo lý của Đức Phật bằng các thuật ngữ chuyên môn được định nghĩa cẩn thận để đảm bảo độ chính xác trong phân tích. Về nội dung, Abhidharma nổi bật bởi nỗ lực cung cấp nền tảng lý thuyết cho thực hành thiền định của Phật giáo, và rộng hơn, là một hệ thống giải thích về kinh nghiệm của chúng sinh.

Nó đạt được điều này bằng cách phân tích kinh nghiệm có ý thức—và theo nghĩa này là "thế giới" của một người—thành các sự kiện tinh thần và vật lý cấu thành nên nó (dharmā trong tiếng Phạn, dhammā trong tiếng Pali, dưới đây sẽ gọi chung là dharmas/dhammas). Cuộc điều tra tổng thể bao gồm cả việc phân loại dharmas thành nhiều nhóm khác nhau và việc tổng hợp chúng thành một cấu trúc thống nhất thông qua mối quan hệ nhân quả đa dạng của chúng, được gọi là thuyết pháp thể (dharma theory).

Những nghiên cứu tỉ mỉ về bản chất và sự tương tác của dharmas đã mở rộng sang các lĩnh vực siêu hình học, nhận thức luận và bản thể học, đồng thời làm nảy sinh các tranh luận giáo lý giữa các trường phái Phật giáo khác nhau.

Phân tích và phương pháp lập luận của Abhidharma về những tranh luận này đã cung cấp khung tham chiếu và định hình chương trình nghiên cứu cho các trường phái MādhyamakaYogācāra của Đại thừa.

Như vậy, với tư cách là một phong trào học thuật riêng biệt, Abhidharma đã có tác động to lớn đến tư tưởng Phật giáo sau này, đặt nền móng cho triết học hệ thống và khoa chú giải Phật giáo.

Cái mà gọi là "Kinh điển Phật giáo" hiện tại có đến chừng này. Chi tiết có thể search google hoặc AI để xem mỗi cái tên có bao nhiêu cuốn, tổng cộng bao nhiêu trang A4 !

Còn cái gọi là "Lời Phật dạy" trong đó thì ko có nhiều lắm đâu :


eE3IsxQ.jpg
 
Bên công giáo mới nhiều dòng tml à. Các dòng lớn nó tách ra thành đạo luôn đấy, trong cùng 1 đạo của nó cũng cả đống dòng tu
 
Đúng gòi, 10 ông originals đi thuyết giao thêm 100 ông đời sau. Nó lên cấp số nhân, 1 cuốn sách tới vạn người đọc bao nhiêu là ý cho đủ.
Cũng không hẳn, cách nói ở trên nó giống như cách nói của việc truyền giáo bên Cơ Đốc hơn.

Còn lịch sử truyền thừa của PG thì lại khác nữa. Khác như thế nào thì khá dài, để tìm cách giải thích ngắn gọn và phù hợp đã.

Công giáo, Hồi giáo, Nho - Lão ... t cũng đọc qua rồi, từ tư tưởng với cả lịch sử phát triển và truyền thừa. Triết học hiện đại cũng vậy. T không muốn đánh giá cái nào hơn cái nào.

Nhưng vì vậy nên t mới có cơ sở nói là nó khác.
Average East Laos-er:
🆘 🆘 🆘
 
Bên công giáo mới nhiều dòng tml à. Các dòng lớn nó tách ra thành đạo luôn đấy, trong cùng 1 đạo của nó cũng cả đống dòng tu
Uh, bên CG cũng nhiều dòng lắm. Kể cả trước CG còn có cả Do Thái giáo rồi sau là Hồi Giáo nữa.

Riêng về CG có nhóm nhìn nhận theo khuynh hướng thần học. Nhóm thì nghiên cứu theo đường lối triết học.
Có nhóm thì mix cả 2 lại. T nhớ là đã có viết 1 bài trên này rồi.
 
Thật ra việc chia tông, xẻ phái tới tận khoảng 100 năm sau . Không hề liên quan đến đệ tử của Ngài Gautama.

Thậm chí cái vụ 10 đại đệ tử nó cũng là truyền thuyết của 1 nhánh trong những tông phái đó !

Còn theo nghiên cứu sử liệu, ghi chép thì như này. Đây là 1 đoạn trích được lấy ra ở trên :


Như Gethin (1998, 52) đã chỉ ra, thay vì các giáo phái hoặc tông phái theo cách hiểu của Cơ Đốc giáo, “ít nhất một số trong các bộ phái được truyền thống Phật giáo sau này đề cập đến có lẽ chỉ là những trường phái tư tưởng không chính thức, tương tự như ‘những người theo Descartes’, ‘những nhà kinh nghiệm Anh’ hay ‘những người theo Kant’ trong lịch sử triết học hiện đại.”
Ê tao cũng chỉ ra cái 18 bộ phái này theo tài liệu tiếng anh và cả tiếng việt mà có mấy thằng tiểu thừa éo tin, AI của t còn đào bới ra đc cái Satipatthana, là cái ông tuệ đang tu tập hiện tại
 
+ phật giáo là mã nguồn mở, tml nào thích có thể tự tải về học miễn phí như minh tuệ
+ mấy tôn giáo khác phải nạp card mới chơi đc nên ít tml nào tự đứng ra được
 
Ê tao cũng chỉ ra cái 18 bộ phái này theo tài liệu tiếng anh và cả tiếng việt mà có mấy thằng tiểu thừa éo tin, AI của t còn đào bới ra đc cái Satipatthana, là cái ông tuệ đang tu tập hiện tại
18 bộ phái này là cách nói tương đối thôi. Nói chung là có đó.

qm81KBF.jpg


Còn Satipatthana là Thiền Chánh Niệm/Tứ Niệm Xứ/Thiền Quán/Tuệ Quán ... rất nhiều cách gọi.

Bài Kinh nổi tiếng nhất nói về nội dung này :

 

Phần 3: Thời gian: Từ vô thường đến sát-na diệt

Cả phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) và phái Thượng Tọa Bộ (Theravāda) hậu kinh điển đều xây dựng một học thuyết cực đoan về sát-na diệt (Sanskrit: kṣāṇavāda, Pali: khāṇavāda), trong đó các hiện tượng bị phân rã theo thời gian thành một chuỗi các sự kiện sát-na rời rạc, biến mất ngay khi chúng vừa sinh khởi.

Mặc dù không phải là một chủ đề riêng biệt trong các bài kinh của Đức Phật, nhưng học thuyết sát-na diệt dường như bắt nguồn từ nguyên lý vô thường (Sanskrit: anitya, Pali: anicca).

Quan niệm này là nền tảng của giáo lý thực nghiệm của Đức Phật về bản chất của kinh nghiệm hữu tình: tất cả các hiện tượng vật lý và tâm lý đều liên tục được tạo thành do duyên khởi và có sự liên kết với nhau (ví dụ, A I 286; M I 230, 336, 500; S II 26, III 24–25, 96–99, IV 214).

Sự giải thích của hệ Kinh Tạng về ba ý niệm liên kết này đã dẫn đến một công thức (A I 152) khẳng định rằng các pháp hữu vi (saṃskārā trong Sanskrit, saṅkhārā trong Pali) có ba đặc tính:

- Sinh khởi (uppāda),
- Sự biến đổi của cái đang tồn tại” (ṭhitassa aññathatta),
- Sự oại diệt hoặc diệt tận (vaya).

Hay gọi tắt là Sanh - Trụ - Diệt

Công thức này được gọi là “ba đặc tính của pháp hữu vi” (tisaṅkhatalakkhaṇa).

Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda-Vaibhāṣika) đã mở rộng thành bốn đặc tính của pháp hữu vi: sinh khởi, tồn tại, suy hoại và diệt tận. Những đặc tính này được xếp vào nhóm các pháp thuộc “những yếu tố không liên quan đến tâm” (cittaviprayukta saṃskārā).

Các trường phái Phật giáo sử dụng các đặc tính của pháp hữu vi như một công cụ diễn giải để tái định nghĩa vô thường theo hướng sát-na diệt. Nhất Thiết Hữu Bộ đã đề xuất một học thuyết sát-na diệt toàn diện, theo đó tất cả các hiện tượng vật chất và tinh thần đều mang tính sát-na. Họ sử dụng thuật ngữ “sát-na” (kṣaṇa) theo một nghĩa kỹ thuật, là đơn vị thời gian nhỏ nhất, không thể chia cắt, mà về sau được xác định bằng thời gian tồn tại của một sự kiện tâm thức, được xem là thực thể ngắn nhất có thể quan niệm.

Không có sự đồng thuận trong Nhất Thiết Hữu Bộ về độ dài chính xác của một sát-na, nhưng các văn bản đề cập đến khoảng thời gian dao động từ 0,13 đến 13 mili-giây theo đơn vị hiện đại.


Việc sử dụng này giả định một quan niệm nguyên tử về thời gian, trong đó thời gian không được xem là có thể chia cắt vô hạn. Thật vậy, thuật ngữ kṣaṇa thường được thảo luận cùng với các khái niệm về nguyên tử vật chất và âm tiết, vốn cũng được hiểu là không thể phân chia.

Trong khuôn khổ Nhất Thiết Hữu Bộ, thực tại vật chất (rūpa-dharma) được phân rã thành các nguyên tử sát-na riêng lẻ. Do đó, họ chú trọng đến các vấn đề bản thể luận (ontology) và nhận thức luận (epistemology), chẳng hạn như: liệu các đối tượng cảm giác có thực sự tồn tại vào bất kỳ thời điểm nào hay không, hoặc liệu các nguyên tử có đóng góp riêng lẻ hay tập thể vào quá trình nhận thức. Thực tại nguyên tử này được hiểu là liên tục thay đổi: những gì chúng ta nhận thức như một thế giới bao gồm các thực thể bền vững với những thuộc tính thay đổi thực chất chỉ là một chuỗi sát-na xuất hiện và diệt mất nhanh chóng. Quá trình này không ngẫu nhiên mà vận hành theo năng lực và chức năng cụ thể của từng nguyên tử.

Tinh thần phân tích nguyên tử này cũng được áp dụng vào thực tại tâm lý: thức được hiểu là một chuỗi các sát-na thức rời rạc, sinh và diệt cực kỳ nhanh chóng. Do đó, tỷ lệ thay đổi giữa các hiện tượng vật chất và tinh thần trong mỗi sát-na là 1:1, tức là chúng xảy ra một cách đồng bộ hoàn hảo (Kim 1999, 54). Trên điểm này, phái Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika) đồng ý với Nhất Thiết Hữu Bộ.

Những người Nhất Thiết Hữu Bộ (“chủ trương rằng mọi pháp đều tồn tại”) đặc biệt nhấn mạnh rằng các đặc tính của pháp hữu vi tồn tại riêng lẻ như những thực thể thực sự trong mỗi sát-na. Theo họ, tất cả các pháp hữu vi—bất kể thuộc quá khứ, hiện tại hay tương lai—đều tồn tại như những thực thể thực sự (dravyatas) trong một sát-na nhất định. Điều này dẫn đến nhiều vấn đề triết học, trong đó một vấn đề lớn là định nghĩa sát-na của Nhất Thiết Hữu Bộ khó có thể hòa giải với quan niệm sát-na như đơn vị thời gian ngắn nhất có thể có (von Rospatt 1995, 44–46 & 97–98). Nhất Thiết Hữu Bộ phản biện rằng các hoạt động (kāritra) của bốn đặc tính của pháp hữu vi diễn ra theo trình tự: các ranh giới giữa sinh khởi và diệt tận của bất kỳ sự kiện nào đều được quy vào cùng một sát-na. Tuy nhiên, giải pháp này lại kéo theo một hệ quả là trong một sát-na duy nhất, một sự kiện phải trải qua bốn giai đoạn, điều này vô tình mâu thuẫn với chính nguyên lý sát-na diệt (Cox 1995, 151; von Rospatt 1995, 52ff).

Phái Thượng Tọa Bộ (Theravāda) đã phát triển một phiên bản riêng của học thuyết sát-na diệt.

Họ không quan tâm nhiều đến bản thể luận và nhận thức luận của thực tại vật chất và tinh thần như Nhất Thiết Hữu Bộ, mà chủ yếu tập trung vào cơ chế tâm lý chi phối quá trình nhận thức dữ liệu giác quan.

Bộ Yamaka trong A-tì-đàm kinh điển có lẽ là văn bản đầu tiên đề cập đến thuật ngữ “sát-na” (khaṇa) theo nghĩa là một khoảnh khắc ngắn ngủi, được chia thành hai thời điểm: sinh khởi và diệt tận.

Dựa trên ba đặc tính của pháp hữu vi, các luận giải Pali về sau đã phát triển một mô hình trong đó mỗi sát-na của mọi hiện tượng được chia thành ba giai đoạn: sinh khởi (uppādakkhaṇa), tồn tại (ṭhitikkhaṇa) và diệt tận (bhaṅgakkhaṇa) (Spk II 266; Mp II 252).

Nhìn chung, mặc dù có những cách diễn giải khác nhau về học thuyết sát-na diệt, nhưng các trường phái Phật giáo sơ kỳ đều phát triển khái niệm này từ việc phân tích vô thường dưới góc độ động thái của các pháp như những sự kiện vật lý và tâm lý.

Tuy nhiên, học thuyết sát-na diệt lại làm nảy sinh nhiều vấn đề, đặc biệt liên quan đến trạng thái tồn tại của một sát-na và cách giải thích về tính liên tục cũng như sự tương tác nhân quả giữa các pháp.

Một số người có thể lập luận rằng sự chuyển đổi khái niệm từ “vô thường” sang “tồn tại tạm thời” là kết quả của chủ nghĩa kinh viện (scholastic literalism) và thể hiện xu hướng của A-tì-đàm trong việc tái định nghĩa và khách thể hóa (reification and hypostatization) các pháp (dharmas) .

Tuy nhiên, đối tượng chính của học thuyết sát-na diệt không phải là sự tồn tại trong thời gian hoặc bản thân dòng chảy của thời gian, mà đúng hơn, xét theo quan điểm nhận thức luận và theo cách tiếp cận của triết gia Bergson, nó tập trung vào quá trình kiến tạo kinh nghiệm thời gian.

Thay vì xem thời gian như một khuôn khổ siêu nghiệm áp đặt lên các sự kiện tự nhiên từ bên ngoài, học thuyết sát-na diệt nhìn thời gian như một đặc tính vốn có của sự vận hành của các pháp. Học thuyết này phân tích các pháp trong dòng chảy của thời gian: như những sự kiện tâm - vật lý sinh và diệt trong thức, và chính sự vận hành của chúng đã kiến tạo thời gian. Do đó, chuỗi ba thời kỳ (quá khứ, hiện tại và tương lai) không phải là một thực tại tiên nghiệm, mà là kết quả của quá trình sinh diệt có điều kiện của các pháp.

Thực tế: Sự chuyển đổi từ nguyên lý vô thường sang thuyết sát-na diệt là một sự thay đổi về quy mô thời gian.

- Trong khi quan điểm của hệ Kinh Tạng (Sūtrānta) hiểu ba thời như sự đề cập đến các đời quá khứ, hiện tại và tương lai.

- Thì A-tì-đàm xem chúng là ba giai đoạn mà mọi pháp hữu vi đều trải qua trong từng sát-na.

Vô thường không chỉ biểu thị sự biến đổi của các pháp qua một khoảng thời gian, mà còn được gói gọn trong từng sát-na thức (consciousness moment) đơn lẻ
(Vibh-a 7–8; Sv 991; Vism XIV 191; Collins 1992, 227).
 
Bọn nào mag đối trọi là đếch phati tu r. Thế tôn có 84000 pháp tu dành cho mn. Ai cũng coi mình đúng là do dell giữ giới đc thế thôi thích làm minh chủ. Thoát đc chính mình rời cõi ta bà mới thành đạo quả a la hán là đc nửa đường thành phật. Thấy bọn nào như thế nên né. Thời bh mn nên ẩn tu thiền định suy nghĩ về kinh điển để giác ngộ thôi, còn để giáo hoá đc bọn này bh e rằng ...... Chỉ có thêa tôn giáng trần
 
Bọn nào mag đối trọi là đếch phati tu r. Thế tôn có 84000 pháp tu dành cho mn. Ai cũng coi mình đúng là do dell giữ giới đc thế thôi thích làm minh chủ. Thoát đc chính mình rời cõi ta bà mới thành đạo quả a la hán là đc nửa đường thành phật. Thấy bọn nào như thế nên né. Thời bh mn nên ẩn tu thiền định suy nghĩ về kinh điển để giác ngộ thôi, còn để giáo hoá đc bọn này bh e rằng ...... Chỉ có thêa tôn giáng trần
Chung qui là giữ cho hết "Tham, sân, si" -> hết khổ, cõi nào cũng là Niết bàn -> khó quá, rất ít người làm được.
Nếu dựa điều này mà phán chắc nịch rằng anh/chị sẽ tiếp tục luân hồi, không đến Niết bàn, không về cõi Phật thì sẽ ít người theo --> ít tiền.
Nên bày ra dùng tha lực, để vẫn sống "tham, sân, si", mà chết vẫn có khả năng về cõi Phật (thực tế, chỉ có khả năng luân hồi vào nơi tốt hơn, vì đã sống tốt, bớt tham-sân-si)
Lúc nào cũng niệm "Nam mô A Di Đà Phật" để mong ông Phật A-Di-Đà rước về cõi của ông ấy, dù đó chỉ là ước nguyện của ông, không thể vượt qua qui luật Nhân - Quả.
 
Chung qui là giữ cho hết "Tham, sân, si" -> hết khổ, cõi nào cũng là Niết bàn -> khó quá, rất ít người làm được.
Nếu dựa điều này mà phán chắc nịch rằng anh/chị sẽ tiếp tục luân hồi, không đến Niết bàn, không về cõi Phật thì sẽ ít người theo --> ít tiền.
Nên bày ra dùng tha lực, để vẫn sống "tham, sân, si", mà chết vẫn có khả năng về cõi Phật (thực tế, chỉ có khả năng luân hồi vào nơi tốt hơn, vì đã sống tốt, bớt tham-sân-si)
Lúc nào cũng niệm "Nam mô A Di Đà Phật" để mong ông Phật A-Di-Đà rước về cõi của ông ấy, dù đó chỉ là ước nguyện của ông, không thể vượt qua qui luật Nhân - Quả.
Kinh đã giảng hết r, mấy thawfng sư trên youtube có bh giả g mấy cái này đâu toàn nói dóc nói kháy các chuyện trên zời dưới bể, tâm thanh tịch thì ta đã tới niết bàn.
T nghe kinh phật r t cũng suy nghĩ là con ng dell phát triển thì lấy dell đâu ra ngôn ngữ mà viết kinh nhỉ kkk. Mông lung tôn giáo vcleuz kkk
 

Có thể bạn quan tâm

Top