Tâm sự cựu binh Mỹ @@

  • Tạo bởi Tạo bởi Cqson
  • Start date Start date

Cqson

Địt Bùng Đạo Tổ
Tôi cảm thấy rất nhiều người trong chúng ta đã không dám chấp nhận một nguyên tắc cơ bản về Chiến tranh Việt Nam – điều mà chúng ta đã chấp nhận sau tất cả các cuộc chiến khác mà nước Mỹ tham gia. Nguyên tắc đó đã thúc đẩy chúng ta, với tư cách một dân tộc, có thể chào đón kẻ thù cũ để xây dựng mối quan hệ hữu nghị, qua đó hàn gắn vết thương chiến tranh. Chúng ta không giữ được cái nhìn ấy, có lẽ bởi đây là cuộc chiến đầu tiên mà nước Mỹ thất bại trong lịch sử.
 
Những kẻ nào còn mơ hồ , nào là người Mỹ ko tham chiến , chỉ giúp cố vấn VNCH , người Mỹ ko thất bại với Bắc Việt
 
Một vài ngày sau, tôi gặp những kẻ thù cũ, những cựu quân nhân từng phục vụ Quân đội Bắc Việt (North Vietnamese Army – NVA) và Việt Cộng. Tôi nhớ ban đầu mình cảm thấy rất khó chịu. Nỗi giận dữ của tôi về việc những nhân vật này từng là thủ phạm gây ra cái chết của rất nhiều đồng đội người Mỹ không hề nguôi. Trong đầu tôi luôn có một niềm tin xác quyết rằng trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa. Năm mươi tám ngàn người Mỹ đã mất mạng khi cố gắng ngăn chặn ******** và bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam; trong đó có tới hai ngàn năm trăm người còn nằm lại đâu đó giữa các khu rừng già Đông Nam Á. Bi kịch, niềm đau, nỗi thống khổ mà kẻ thù này gieo xuống là vô cùng khủng khiếp. Tôi vẫn tin cuộc chiến tranh đó là một bức tranh trắng và đen – không có màu xám – và rằng những con người này đã gây ra cho nước Mỹ một nỗi đau kinh khiếp. Họ cũng đã gây ra cho tôi và gia đình tôi nỗi đau tột cùng.

Trong khi các cựu quân nhân người Việt mà tôi gặp tỏ ra nhã nhặn và cởi mở thì trong tôi, cơn giận vẫn không ngừng dâng lên. Khi nhìn thẳng vào họ, tôi nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng trước mặt tôi với tư cách là người chiến thắng – bởi đó chỉ là số phận; định mệnh chống lại chúng ta mà thôi. Thế rồi, nhận thức của tôi, nỗi giận dữ của tôi, đã thay đổi nhanh chóng.
 
“Chúng ta, những người Mỹ, vốn tự cho mình là ngoại lệ của lịch sử, cũng có thể mắc sai lầm như phần còn lại của nhân loại; chúng ta có thể thủ ác dễ dàng như khi hành thiện. Tất cả chúng ta đã quá kiêu ngạo trong thời kỳ xấc xược ấy.

Chúng ta không thể hiểu được rằng chúng ta đã theo đuổi những điều không tưởng và đã gây ra một bi kịch tột cùng cho chính chúng ta cũng như cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác tại Đông Dương”.
 
Xạo Lồn nghe mậy thớt, há há tao nói vậy thôi chứ tao biết con cặc gì đâu tụi mầy khỏi mắc công chửi tao :matrix:
 
Chúng mài im để thằng thớt dịch tiếp cho xem , đây là tự sự của cựu chiến binh Mỹ chứ có phải nó viết đéo đâu
 
Thất bại chứ còn méo gì nữa, đụng phải VN không dễ mà xơi đâu nhé cưng. Tàu khựa sát bên còn nuốt không trôi nữa là đất nước cách cả một đại dương.
 
James G. Zumwalt – Xuất thân trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp, cựu Trung tá Thủy quân Lục chiến James Zumwalt từng chiến đấu tại Việt Nam, tham gia cuộc can thiệp quân sự của Mỹ Panama năm 1989 và Chiến dịch Bão táp Sa mạc tại vùng Vịnh, Iraq năm 1990 – 1991.

Ông là con trai của Đô đốc Elmo Russell Zumwalt, Jr., Tư lệnh Hải quân Mỹ đặc trách lực lượng duyên hải và đường sông thời Chiến tranh Việt Nam. Tư lệnh Elmo Zumwalt, sau này là Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, chính là người đã phát động chiến dịch rải chất độc hóa học tại Việt Nam trong suốt một giai đoạn rất dài của cuộc chiến, để lại nhiều di họa cho đất nước Việt Nam cũng như nước Mỹ và chính gia đình ông.

Sau quãng đời binh nghiệp, ông James Zumwalt trở thành một diễn giả, tác giả của hàng loạt bài viết về quân sự và chính sách đối ngoại trên các báo và tạp chí nổi tiếng của Mỹ như USA Today, The Washington Post, The New York Times, The Washington Times, The LA Times, The Chicago Tribune, The San Diego Union, Parade…
 
“Một số ý kiến của chính quyền Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi đã nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi.

Không nơi nào mà quyết tâm được thể hiện rõ như thái độ những người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi. Hiểu được quyết tâm duy trì Đường mòn cũng như bám trụ tại địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “chí thép” của họ.

Đó chính là ý chí thép đặc trưng và rất đặc biệt của người Việt Nam, vốn đã thôi thúc họ tiến lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến trước người Mỹ - cuộc chiến mà nước Mỹ thiếu một quyết tâm tương xứng.”
 
Ông James Zumwalt, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nhiều đời binh nghiệp, có nhiều hơn một lý do để tự giam hãm mình trong cuộc chiến của quá khứ, để cho những thù hận trầm tích theo tháng năm. Trong một thời gian dài, chừng hai mươi năm sau ngày Chiến tranh Việt Nam kết thúc, ông vẫn nhìn về phía Việt Nam, kẻ thù cũ của nước Mỹ và của chính bản thân ông, với một niềm hận thù dai dẳng. Cái chết của người anh trai vì căn bệnh ung thư, hậu quả của phơi nhiễm Chất độc Cam, càng khiến ông Zumwalt nung nấu lòng thù hận, với niềm tin xác quyết rằng chính người Việt Nam đã gây ra cho ông bi kịch gia đình ấy.

Thế rồi, từ một chuyến đi khai mở vào năm 1994, cơ hội hàn gắn đã đến, trước hết là cho bản thân ông. Khi tiếp xúc với những con người từng ở bên kia chiến tuyến, mà tới tận lúc bấy giờ ông Zumwalt vẫn chưa nguôi ác cảm, người cựu chiến binh Mỹ dần nhận ra nhiều điều mới mẻ, mà ông gọi là những sự khai mở tâm hồn và nhận thức.

Trước chuyến đi, ông chỉ tin rằng cuộc chiến của người Mỹ là chính nghĩa, nỗi đau mà người Mỹ hứng chịu từ cuộc chiến là duy nhất có ý nghĩa, và người Việt Nam phía bên kia chiến tuyến là kẻ thù tàn bạo, phải chịu trách nhiệm trước cuộc thua của người Mỹ và bi kịch gia đình ông. Giờ đây, qua những cuộc tiếp xúc từ các tướng lĩnh cấp cao như Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Huy Phan, tới những người dân thường, từ những trai làng xung phong ra trận tới những phụ nữ một lòng son sắt như bà Bùi Thị Mè, ông Zumwalt đã vỡ ra điều bất khả tri bấy lâu. Ông chợt nhận thấy rằng, nỗi đau mà chiến tranh gây ra không từ một phía nào, đặc biệt là đối với Việt Nam, khi phạm vi chiến cuộc bao phủ lên toàn bộ đất nước này, thì không chỉ các quân nhân và gia đình của họ, mà mọi người dân đều là nạn nhân của cuộc chiến.
 
Chiến tranh đã lùi xa, kẻ thù ở bên kia chiến tuyến đã là một khái niệm của quá khứ. Kẻ thù giờ đây chính là rào cản nội tại, có thể do chính mỗi con người chúng ta tự dựng lên, để ngăn cản chúng ta tiến tới một sự thấu hiểu.

Nếu người Mỹ hiểu thấu đáo về người Việt Nam ngay từ đầu, có lẽ nhân loại đã tránh phải chứng kiến một trong những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử. Chính vì thế mà giờ đây, khi cuộc chiến đã lùi xa, tiến trình thấu hiểu cần được thúc đẩy hơn, để từ đó có thể tránh được nguy cơ gặp lại quá khứ ở tương lai. Nhắc lại quá khứ không phải để đay nghiến lịch sử. Nhắc lại quá khứ - là để hướng tới tương lai, một tương lai sự thấu hiểu và tin cậy lẫn nhau.
 
Tôi cho rằng có những cựu chiến binh của cuộc chiến Việt Nam, giống như tôi, đã cảm thấy khó khăn trong việc thừa nhận rằng cuộc chiến cứ mãi ám ảnh. Tuy nhiên, đến khi tôi trở lại Việt Nam vào năm 1994, khi mà tôi có thể đối mặt với cuộc chiến nội tâm của mình về bi kịch cá nhân xuất phát từ cuộc chiến kia,

Tôi nhận thức được rằng rất nhiều người Mỹ đã phải chịu đựng bi kịch từ cuộc chiến tranh Việt Nam lớn hơn tôi rất nhiều. Trải nghiệm trong đời của người này luôn khác với người kia, mất mát cũng thế. Về khía cạnh này, tổn thất mà gia đình và tôi gặp phải đã ảnh hưởng đến chúng tôi rất nhiều. Như một sự nghiệt ngã trớ trêu của số phận, chính những mệnh lệnh quân đội do cha tôi ban hành rốt cuộc đã gây nên cái chết cho anh trai tôi, đó chính là điều mà tôi muốn thừa nhận.
 
Ngay khi cha tôi đến Việt Nam, thượng cấp trực tiếp của ông, Tướng Creighton Abrams, đã bày tỏ sự không hài lòng về vai trò của Hải quân trong cuộc chiến lúc ấy. Ông muốn Hải quân phải quyết liệt hơn nữa. Trên cơ sở đó, cha tôi đã vạch ra một chiến lược hung hãn hơn, với mục đích biến hệ thống kênh rạch miền Nam Việt Nam, vốn lâu nay bị Việt Cộng sử dụng làm đường chuyển quân, thành bãi chiến trường. (Từ “Việt Cộng” là một cách diễn đạt với hàm ý xấu được chính quyền Sài Gòn và sau đó là quân đội Mỹ sử dụng để chỉ những chiến binh ******** tại miền Nam chiến đấu nhằm lật đổ chính quyền. Dù cụm từ “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” (“People’s Liberation Armed Forces” – PLAF) là chính xác hơn, tôi vẫn dùng “Việt Cộng” bởi từ này quen thuộc hơn đối với người Mỹ. Tôi không có ý thiếu tôn trọng PLAF khi sử dụng từ đó).

Chiến lược mới của cha tôi đã tạo ra những sự xáo trộn lớn cho Việt Cộng khi việc sử dụng hệ thống sông ngòi để tiếp vận và xâm nhập (từ phía Campuchia) sụt giảm nghiêm trọng. Tiếp tế của Việt Cộng suy giảm, thương vong của Lục quân Mỹ ở Đồng bằng Mê Koong (thường gọi là “Đồng bằng”) nhờ đó mà giảm theo. Duy trì sự hiện diện ổn định trong khu vực, người Mỹ đã có thể thúc đẩy tiến trình bình ổn Đồng bằng, làm gia tăng sự ủng hộ của dân chúng đối với chính quyền Sài Gòn và chính phủ Mỹ.

Nhưng sự thành công của chiến lược này cũng phải trả giá. Trong khi thương vong của Lục quân Mỹ giảm thì phía Hải quân tổn thất gia tăng nghiêm trọng với lực lượng đường sông chiếm tới sáu phần trăm trong tổng thương vong hằng tháng. Điều này có nghĩa là nguy cơ bị giết hoặc bị thương đối với những người phục vụ “bên trong” (chiến đấu trong khu vực chiến sự ở Việt Nam) trên những chiếc thuyền tuần tra là ba-trên-bốn – tức cứ bốn người thì ba người đối mặt với nguy cơ – trong thời gian nghĩa vụ một năm. Cha tôi đã lập tức tìm kiếm phương pháp nâng cao an toàn cho lực lượng này.

Hải quân chịu thương vong lớn là do đặc trưng của địa hình họ chiến đấu – sông nhỏ hẹp với cây cối um tùm hai bên. Đối với Việt Cộng, đó là môi trường lý tưởng cho các cuộc phục kích nhằm vào tàu tuần tra; đối với người Mỹ, đó là một địa hình ác mộng cho khả năng phòng thủ. Vùng cây cối rậm rạp ven sông là nơi trú ẩn và là lá chắn tốt cho Việt Cộng trong các cuộc phục kích, giúp họ có thể tấn công vào Hải quân Mỹ ở cự ly rất gần. Với yếu tố bất ngờ, Việt Cộng hầu như không cho thủy thủ đoàn cơ hội nào để phản công.

Trong số những chiến binh đường sông dũng cảm của Mỹ hoạt động trong lực lượng “Hải quân nước nâu” (tức hệ thống đường sông nội địa ở Nam Việt Nam) có người anh trai của tôi, Trung úy Hải quân Elmo R. Zumwalt, III. Từng được biên chế về một vị trí khá nhàn trên khu trục hạm ở Norfolk, Virginia, Elmo tự cảm thấy có bổn phận phải phục vụ tại chiến trường Việt Nam. Anh không bao giờ hỏi ý kiến cha tôi về vấn đề này, bởi Elmo biết cha sẽ đưa ra những lập luận chặt chẽ để thuyết phục anh không nên đi. (Thời còn ở trường trung học và Học viện Hải quân, cha tôi đã được trao nhiều giải thưởng về tranh biện. Tôi và Elmo từ nhỏ đã biết rằng không bao giờ nên tranh luận với ông vì ông luôn là người chiến thắng bằng một vũ khí mà chúng tôi không thể có – lập luận chặt chẽ). Nếu Elmo hỏi ý kiến, cha tôi có thể sẽ không đưa ra những lý lẽ làm nản lòng anh, vì cha tôi hiểu người con trai này có một ý thức trách nhiệm lớn. Trong trường hợp này, cha tôi có thể nói với Elmo những lời thiên về tình cảm, chẳng hạn: “Tại sao lại để cho mẹ con phải lo nghĩ thêm nữa về việc có một đứa con đối mặt với bất trắc trên chiến trường, giữa lúc bà đã có một người chồng đang sống cận kề hiểm nguy như thế?” Elmo cho rằng cha tôi có thể sẽ khuyên anh nên chờ đến khi cha tôi hết thời hạn công tác ở Việt Nam thì anh mới tình nguyện sang đấy. Đó là một sự cân nhắc có cơ sở. Nhưng Elmo biết anh không chọn Hải quân như một sự nghiệp suốt đời. Nếu không xung phong đi lần này, anh có thể sẽ mất cơ hội duy nhất của mình.

Elmo đã đến Việt Nam để đảm nhiệm vị trí chỉ huy duy nhất trong sự nghiệp hải quân ngắn ngủi – thuyền trưởng một tàu tuần tra đường sông, thường gọi là “tàu nhanh” – PCF-35 (viết tắt của Patrol Craft Fast – tàu tuần tra cao tốc). Là tư lệnh của tàu cao tốc, Elmo nằm dưới quyền chỉ huy của một guồng máy do cha tôi đứng đầu – đó là COMNAVFORV. Quan hệ gia đình không bao giờ mang lại một đặc ân nào đó trong nhiệm vụ, bởi cả cha và anh tôi đều không nhập nhằng chuyện gia đình và nghĩa vụ quốc gia. Tính cách của hai người là vậy.

(Trong một phút trải lòng về sau, cha tôi thừa nhận mình từng có làm chệch đi một chút so với thông lệ trong quân đội, chỉ bởi anh Elmo phục vụ ở vùng chiến sự. Dù sự thiên lệch đó không có gì quan trọng, nhưng cha tôi vẫn cảm thấy có chút tội lỗi. “Mỗi buổi sáng”, cha tôi nhớ lại, “khi nhận được danh sách thương vong trong các chiến dịch của đêm hôm trước, với tên người được xếp theo thứ tự A, B, C, cha thường bắt đầu đọc danh sách từ cuối lên đầu”. Với họ “Zumwalt”, nếu Elmo nằm trong danh sách thương vong, tên anh chắc chắn sẽ ở hàng cuối. Tôi không nghĩ rằng có ai đó sẽ trách cha tôi về sự thiên vị này). Cha tôi là một người đàn ông đầy đam mê và thông tuệ. Tôi không tin có lúc nào đó ông đưa ra một quyết định quân sự mà không cân nhắc tới những tác hại của nó đối với người lính. Nhưng trong giai đoạn mới nắm quyền chỉ huy tại Việt Nam, có khi ông ở vào hoàn cảnh không thấy hết được tác động từ quyết định của mình. Dù quyết định ấy đã giúp đạt được mục tiêu giảm thương vong cho Hải quân Mỹ, ông không thể ngờ rằng nó cũng chính là nguyên nhân cướp đi mạng sống của người con trai cùng tên với ông.

Khi cân nhắc các lựa chọn khả thi để giảm thương vong cho quân Mỹ, cha tôi nhận thấy rằng chỉ có một cách là triệt tiêu lợi thế bất ngờ của Việt Cộng – bằng cách phá đi hệ thống ẩn náu là những vùng bụi cây rậm rạp ven sông. Năm 1965, Lục quân Mỹ sử dụng một loại hóa chất diệt cỏ để làm rụng lá các vùng rừng gần Sài Gòn, vốn bị tình nghi là nơi kẻ thù hoạt động. Phương pháp này đã được mở rộng khi quân đội tiến tới đóng quân trong rừng. Các nhà sản xuất chất diệt cỏ đã cam đoan với chính phủ Mỹ rằng sản phẩm của họ không gây hại cho con người. Tin vào lời cam đoan đó, cha tôi đã ra lệnh rải thuốc dọc các bờ sông nơi quân của ông thường tuần tra bằng tàu thủy.

Hiệu quả thấy được ngay tức thì – thương vong của Hải quân Mỹ giảm hơn năm lần – chỉ còn chưa đầy một phần trăm mỗi tháng. Dưới góc độ quân sự, quyết định sử dụng chất diệt cỏ là đúng đắn. Việc làm này đã cho phép hàng chục ngàn lính thủy, vốn đối mặt với nguy cơ thương vong cao, có thể trở về nhà.

Nhưng phải rất nhiều năm sau thì những người này mới phát hiện ra rằng cuộc chiến sinh tồn của họ còn lâu mới kết thúc. Họ đã trở về nhà với một quả bom hóa học nổ chậm trong người. Chất diệt cỏ mà họ bị phơi nhiễm, Chất độc Cam1, trái với cam đoan của các nhà sản xuất, là chất gây ung thư. (Mười sáu năm sau đó, cha tôi mới biết rằng các hãng sản xuất chẳng những sai lầm trong việc khẳng định tính vô hại của chất này đối với người, mà – trong vài trường hợp – họ còn nói khác đi so với những gì họ biết).
 
Bị phơi nhiễm nặng Chất độc Cam trong thời gian phục vụ ở Việt Nam, nhiều cựu chiến binh đã chịu đựng hậu quả kinh khiếp về sức khỏe, với quả bom nổ chậm phát nổ sau quãng thời gian dài ngắn khác nhau. Đối với vài người, vụ nổ đến rất sớm, khi những đứa con do họ sinh ra sau thời gian phơi nhiễm gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. Đối với số khác, thời điểm phát nổ đến muộn hơn, có khi phải mười, mười lăm, thậm chí hai mươi năm sau, khi nhiều loại ung thư, mà nay Bộ Cựu chiến binh đã thừa nhận là có liên quan tới Chất độc Cam, tấn công họ. Anh trai tôi nằm trong số những nạn nhân bị ung thư liên quan tới Chất độc Cam.

Cha tôi đã dành tất cả thời gian giúp Elmo chống chọi với căn bệnh ung thư. Cùng nhau, họ tìm kiếm tất cả các giải pháp có thể. Ban đầu, họ tập trung vào các phương pháp y khoa để điều trị; về cuối, họ tìm mọi cách làm chậm sự phát triển chết chóc của căn bệnh. Sự gắn bó giữa họ là vô cùng mật thiết. Có thể nói tình cảm cha con giữa hai người không ai có thể sánh được. Tình cảm ấy đã được diễn tả khá đầy đủ trong lá thư mà Elmo viết cho cha tôi không bao lâu trước khi anh qua đời. Trong thư anh viết: “Ba thân yêu, cả ở Việt Nam lẫn đối với căn bệnh ung thư của con, chúng ta đã cùng nhau chiến đấu và cùng thất bại. Nhưng, chúng ta luôn biết rằng ngay khi lâm vào một trận chiến tuyệt vọng, tình yêu của chúng ta cũng không cho phép một sự thối chí, bất chấp nguy cơ lớn nhường nào, chúng ta cũng không từ bỏ… Con yêu ba vô ngần. Con muốn được chiến đấu bên cạnh ba biết bao. Ba luôn tạo ra sự khác biệt. Ba đã làm cho cuộc chiến cuối cùng của con, trên hành trình tới cõi chết, trở nên nhẹ nhõm và nhân văn hơn. Con yêu ba”.

Vào ngày 13 tháng 8 năm 1988, cuộc chiến cuối cùng mà họ sát cánh bên nhau đã kết thúc. Ở tuổi 42, sau năm năm dũng cảm chiến đấu, Elmo qua đời. Cũng tương tự như cuộc chiến ở Việt Nam, anh đã anh dũng chống lại một kẻ thù giấu mặt, để rồi cuối cùng phải nhận lấy thất bại trước kẻ địch quyết đoán hơn.
________________________________
 
Khi nỗi đau trước cái chết của người anh trai do hậu quả Chiến tranh Việt Nam vẫn còn đầy đọa, việc trở lại đất nước nơi đã gieo mầm cho cái chết đó quả là một thử thách lớn đối với tôi. Trong thời gian chuẩn bị tới Việt Nam, tôi nhận thấy rằng cuộc chiến nội tâm phát khởi từ cái chết của anh vẫn đang âm ỉ. Đã sáu năm kể từ lúc anh qua đời, dù cố gắng nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận thực tế này.

Trên đường tới Việt Nam vào năm 1994, tôi không ngừng hồi tưởng về cuộc chiến, và về lần chúng tôi gặp nhau tại căn cứ thuyền cao tốc của anh ở Đà Nẵng vào năm 1969. Anh mới hai mươi ba tuổi; tôi hai mươi. Với tất cả sự ngây thơ của tuổi trẻ, chúng tôi cứ nghĩ rằng chẳng có gì đánh bại được mình, dù dấu hiệu của chết chóc và hiểm nguy hiển hiện khắp nơi: các thủy thủ đang chuyển đạn và quân nhu lên tàu chuẩn bị cho một cuộc tuần tra, nhiều thân tàu thủng lỗ chỗ do đạn địch từ các lần tuần tra trước đang được sửa chữa; các thủy thủ mới đến trình diện, thay thế cho số vừa ngã xuống trong vài ngày trước. Thế nhưng vào lúc ấy, ý nghĩ về cái chết dường như vẫn xa lạ đối với chúng tôi.

Tôi chưa gặp Elmo trong vòng một năm trước đấy. Đó là khoảng thời gian xa cách lâu nhất của chúng tôi vào lúc ấy. Tôi vẫn nhớ cảm giác phấn khích khi được gặp lại anh. Ban đầu tôi định ôm hôn thật chặt; nhưng sau đó có phần do dự, khi chợt nhớ ra cả hai đều đang khoác quân phục. Tôi dừng lại, bước lùi vài bước, rồi chào anh theo nghi thức. Anh đáp lại, và chúng tôi ôm nhau. Hồi nhỏ chúng tôi thường gây gổ nhau, nhưng đến thời trung học và đại học, hai anh em lại rất thân thiết.

Tạm xua đi những ký ức xưa để trở về hiện tại với chuyến đi đến Việt Nam của tôi vào tháng 9 năm 1994. Một lần nữa, nỗi đau, cảm giác trống rỗng sau cái chết của Elmo lại xâm chiếm tâm hồn.
 
Một vài ngày sau, tôi gặp những kẻ thù cũ, những cựu quân nhân từng phục vụ Quân đội Bắc Việt (North Vietnamese Army – NVA) và Việt Cộng. Tôi nhớ ban đầu mình cảm thấy rất khó chịu. Nỗi giận dữ của tôi về việc những nhân vật này từng là thủ phạm gây ra cái chết của rất nhiều đồng đội người Mỹ không hề nguôi. Trong đầu tôi luôn có một niềm tin xác quyết rằng trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa. Năm mươi tám ngàn người Mỹ đã mất mạng khi cố gắng ngăn chặn ******** và bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam; trong đó có tới hai ngàn năm trăm người còn nằm lại đâu đó giữa các khu rừng già Đông Nam Á. Bi kịch, niềm đau, nỗi thống khổ mà kẻ thù này gieo xuống là vô cùng khủng khiếp. Tôi vẫn tin cuộc chiến tranh đó là một bức tranh trắng và đen – không có màu xám – và rằng những con người này đã gây ra cho nước Mỹ một nỗi đau kinh khiếp. Họ cũng đã gây ra cho tôi và gia đình tôi nỗi đau tột cùng.

Trong khi các cựu quân nhân người Việt mà tôi gặp tỏ ra nhã nhặn và cởi mở thì trong tôi, cơn giận vẫn không ngừng dâng lên. Khi nhìn thẳng vào họ, tôi nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng trước mặt tôi với tư cách là người chiến thắng – bởi đó chỉ là số phận; định mệnh chống lại chúng ta mà thôi. Thế rồi, nhận thức của tôi, nỗi giận dữ của tôi, đã thay đổi nhanh chóng.
 
Nói chung thời gian sẽ làm thay đổi và cách nhìn nhận sẽ khách quan hơn thôi. Hiện tại mấy cháu 2k, 2k1x đọc hiểu tiếng Anh ngoài sử cung đình, có internet hỗ trợ sẽ nhìn nhiều chiều và khách quan hơn về cuộc chiến lày::xamvl19::.
 
Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2-4 triệu người Việt (tính cả binh sỹ và thường dân, tùy nguồn thống kê khác nhau). Trong số các nước ngoại quốc tham chiến, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết và khoảng 11.000 bị thương; Úc có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand có 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan có 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể.[1][2][3] Tổn thất trực tiếp và gián tiếp trong Chiến tranh Việt Nam được chia ra như sau:
 

Có thể bạn quan tâm

Top