Tháo gỡ “điểm nghẽn” khai thông động lực tăng trưởng hai con số

Vozlitisme

Địt Bùng Đạo Tổ
Vietnam

Kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều dấu ấn tích cực, song để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số, việc tháo gỡ những nút thắt còn tồn tại là điều không thể chậm trễ....​

Các chuyên gia kinh tế đã đề xuất các giải pháp cụ thế giúp Việt Nam vững vàng đạt mục tiêu tăng trưởng tại Diễn đàn Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2025 với chủ đề “Các giải pháp chiến lược & thực tiễn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao & bền vững trong bối cảnh mới”.
Các chuyên gia kinh tế đã đề xuất các giải pháp cụ thế giúp Việt Nam vững vàng đạt mục tiêu tăng trưởng tại Diễn đàn Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2025 với chủ đề “Các giải pháp chiến lược & thực tiễn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao & bền vững trong bối cảnh mới”.
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ, từ một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển trở thành nước thu nhập trung bình và đang từng bước khẳng định vị thế là một nền kinh tế quy mô lớn trên thế giới.

Việt Nam hiện xếp thứ 32 toàn cầu về quy mô kinh tế, nằm trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới về thương mại quốc tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2024, GDP bình quân đầu người đã vượt mốc 4.700 USD, tiến gần ngưỡng của nhóm nước có thu nhập trung bình cao.

Đáng chú ý, theo Bộ Tài chính, quy mô GDP của Việt Nam trong năm 2025 ước đạt 510 tỷ USD, đưa Việt Nam xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN. Tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP năm 2025 ước đạt khoảng 1.760 tỷ USD, đứng thứ 25 toàn cầu. GDP bình quân đầu người tăng từ 3.552 USD (năm 2020) lên khoảng 5.000 USD (năm 2025), thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt khoảng 4.750 USD (2025), vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với nhiều biến động và bất định, Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn chiến lược khi đặt ra những mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng là tăng trưởng GDP đạt 8% năm 2025 và từ 10% trở lên mỗi năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Vì vậy, trong hành trình đó, năm 2025 được xác định là năm bản lề, đặt nền móng cho chặng đường tăng trưởng vượt trội phía trước.

BỨC TRANH KINH TẾ “ĐỘT PHÁ” GIÚP ĐỊNH HÌNH KỲ VỌNG TĂNG TRƯỞNG​

Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng, trong vòng hai thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Việt Nam đạt khoảng 6,4% và chưa từng chạm ngưỡng hai con số. Do đó, việc đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 10% trở lên không chỉ là một dấu mốc đầy tham vọng mà còn là cách để Việt Nam dũng cảm bước ra khỏi “vùng an toàn” của mình.

“Để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số, nếu chúng ta không có bước đi mới hoặc cách tiếp cận mới và mạnh dạn thì không bao giờ có thể đạt được mục tiêu đã đề ra”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Đặc biệt, những quyết tâm bứt phá về tăng trưởng cũng bước đầu được cụ thể hóa bằng những hành động thực tiễn của Chính phủ trong nửa đầu năm 2025 thông qua những nỗ lực cải cách thể chế, tinh gọn bộ máy hành chính và tháo gỡ rào cản cho doanh nghiệp được đẩy mạnh đồng bộ. Từ đó, bức tranh kinh tế Việt Nam trong nửa đầu năm nay đã ghi nhận nhiều điểm sáng rõ nét.

Cụ thể, tăng trưởng GDP đạt 7,52% so với cùng kỳ năm trước - mức cao nhất cho giai đoạn 6 tháng đầu năm kể từ năm 2011 đến nay. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 219,83 tỷ USD, tăng 14,4%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký đạt trên 21,51 tỷ USD, tăng 32,6%, trong khi vốn FDI thực hiện đạt 11,72 tỷ USD, mức cao nhất trong nửa đầu năm giai đoạn 2021 - 2025.

“Chính nhờ những kết quả tích cực này, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã nhận định Việt Nam đang đi “ngược chiều gió” khi vẫn duy trì được đà tăng trưởng mạnh trong khi nhiều nền kinh tế lớn vẫn còn chật vật phục hồi”, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng cho biết.

Nhìn nhận thêm về những kết quả mà Việt Nam bước đầu đã đạt được cũng như mục tiêu tăng trưởng hai con số, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, khẳng định đây là định hướng đúng đắn, phù hợp với xu thế vận động của thế giới hiện đại. Ông cho rằng bối cảnh toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng dưới tác động của biến đổi khí hậu, các xung đột địa chính trị, làn sóng chuyển đổi số, tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và tất cả đang tái định hình trật tự kinh tế thế giới.

“Trong cơn sóng lớn ấy, quốc gia nào biết thích ứng nhanh, dũng cảm đổi mới thể chế và nâng cao năng lực quản trị sẽ có cơ hội vươn lên dẫn dắt. Ngược lại, những quốc gia nào chần chừ, bị động, giữ mãi lối tư duy cũ sẽ bị bỏ lại phía sau và Việt Nam không phải là ngoại lệ”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng nhấn mạnh.

ĐÀ PHÁT TRIỂN BỊ KÌM HÃM BỞI NHIỀU ĐIỂM NGHẼN CHƯA ĐƯỢC THÁO GỠ

Bên cạnh những kết quả tích cực và mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua vẫn tồn tại không ít hạn chế cần được nhìn nhận và giải quyết một cách nghiêm túc.

Trước hết, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn chưa thực sự bền vững; chất lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm, trong khi quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu vẫn diễn ra chậm chạp, chưa tạo được chuyển biến rõ nét. Năng lực tự chủ, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn ở mức thấp.

Theo TS. Đặng Đức Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam vẫn chưa ổn định và đang có xu hướng chững lại. Cụ thể, nếu giai đoạn 2011 - 2015, năng suất lao động tăng trung bình 4,53%/năm, thì trong giai đoạn 2016 - 2020, con số này tăng lên 6,05%/năm, nhưng đến giai đoạn 2021 - 2024 lại giảm còn 4,67%/năm.

Thêm vào đó, các động lực tăng trưởng mới như chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng mới hay vật liệu mới... vẫn chưa thực sự hình thành rõ nét và chưa đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng.

Trong khi đó, các động lực truyền thống lại bộc lộ nhiều hạn chế như hiệu quả đầu tư còn thấp; khu vực tư nhân tăng trưởng chậm; đầu tư công chưa phát huy được vai trò dẫn dắt và kích hoạt các nguồn lực ngoài nhà nước.

Nền tảng công nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia vẫn còn thiếu vững chắc. Năng lực tự chủ về công nghệ và khả năng nội địa hóa còn thấp; công nghiệp vẫn phát triển theo chiều rộng, chủ yếu tập trung vào gia công, lắp ráp và chế biến thô. Các khâu có giá trị gia tăng cao như thiết kế, sáng tạo hay nghiên cứu và phát triển (R&D) chưa được chú trọng đúng mức.

Ts. Đặng Đức Anh cũng cho biết dù chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong hơn một thập kỷ qua, nhưng những kết quả đạt được vẫn chưa đạt kỳ vọng. “Tốc độ tăng năng suất đang chững lại, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, trong khi hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn kém so với mặt bằng khu vực”, Ts. Đặng Đức Anh nhận định.

Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, dù đã được xác định từ lâu, vẫn đang diễn ra chậm chạp và thiếu tính đồng bộ. Việc chuyển dịch từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu gặp không ít trở ngại về thể chế, cơ chế và chính sách. Công tác xây dựng pháp luật chưa theo kịp thực tiễn, còn phân mảnh, thiếu nhất quán và chưa có tầm nhìn chiến lược dài hạn, dẫn đến việc chính sách khó đi vào thực tế và chậm phát huy hiệu quả.

Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, các tác động từ bên ngoài cũng đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với kinh tế Việt Nam. Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, thế giới đang phải đối mặt với thách thức từ sự bất định khi các cú sốc và biến động địa chính trị, địa kinh tế ngày càng thường xuyên, đa chiều hơn; khoa học, công nghệ đang thay đổi căn bản cấu trúc của nền kinh tế và định hình lại chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu; tác động của phân tách, phân mảnh kinh tế; suy giảm niềm tin bắt nguồn từ cạnh tranh chiến lược đang hạn chế vai trò của các cơ chế hợp tác đa phương.

Ngoài ra, các thách thức an ninh phi truyền thống, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc và những rào cản mới cũng đang kìm hãm xu hướng phát triển bền vững và bao trùm. “Tất cả những thách thức đang diễn ra trên toàn cầu cũng đang trở thành những thách thức đối với Việt Nam”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

TRỤ CỘT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và tồn tại, câu hỏi cốt lõi được đặt ra là: “Việt Nam cần làm gì để không chỉ tăng trưởng nhanh hơn, mà còn bền vững hơn, từng bước vững chắc đạt được mục tiêu tăng trưởng từ 10% trở lên trong những năm tới?”.

Vì vậy, nhiều chuyên gia cho rằng đây chính là thời điểm mang tính bước ngoặt, đòi hỏi Việt Nam cần đưa ra những quyết sách mang tính đột phá, với tinh thần cải cách mạnh mẽ và hành động dứt khoát hơn nữa.

Trong số các giải pháp cần được ưu tiên, cải cách thể chế tiếp tục được xác định là trụ cột, đóng vai trò dẫn dắt toàn bộ tiến trình phát triển. Ts. Nguyễn Sĩ Dũng nhấn mạnh thể chế luôn giữ vai trò trung tâm và chính là “bộ vi xử lý” điều phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và đời sống xã hội. Tốc độ tăng trưởng nhanh có thể đến từ dòng vốn, tài nguyên hay lao động giá rẻ; nhưng tăng trưởng bền vững, sáng tạo và bao trùm chỉ có thể được bảo đảm bởi một thể chế hiệu quả, minh bạch và công bằng.

Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam cần bắt đầu từ một đột phá về tư duy thể chế. Thể chế không chỉ là hệ thống luật pháp và văn bản quy phạm pháp luật, mà còn là tổng hòa các quy tắc chính thức và phi chính thức điều chỉnh hành vi xã hội.

Đồng thời, trong ngắn hạn, cần tập trung sửa đổi một số luật nền tảng hiện vẫn đang là điểm nghẽn phát triển như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Quy hoạch... Để đảm bảo tính bền vững của thể chế, Việt Nam cũng cần phát triển cơ chế phản biện chính sách và giám sát quyền lực một cách hiệu quả.

“Nếu thể chế là nền móng phát triển thì Nhà nước chính là kiến trúc sư của thể chế ấy. Một Nhà nước có năng lực kiến tạo cao sẽ biết nhìn xa, hoạch định đúng, dẫn dắt xã hội và kinh tế tiến lên. Ngược lại, nếu chỉ dừng lại ở vai trò điều hành hành chính thuần túy, Nhà nước sẽ trở thành lực cản thay vì là động lực cho tăng trưởng”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng khẳng định.

Từ góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đề xuất để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, Việt Nam cần tập trung vào hai nhóm giải pháp then chốt.

Thứ nhất, cần đổi mới phương thức quản lý nhà nước và tiếp tục cải cách thể chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong quá trình đổi mới sáng tạo.

“Đặc biệt, một điểm quan trọng chính là chuyển đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm như đã được nêu trong Nghị quyết số 68-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW. Việc triệt để ứng dụng công nghệ thông tin và chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành sẽ giúp doanh nghiệp chỉ cần cung cấp thông tin một lần thay vì nhiều lần như hiện nay”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Thứ hai, nâng cao chất lượng thực thi chính sách. Việc ban hành chính sách hợp lý là điều cần thiết nhưng điều quyết định lại nằm ở cách chính sách đó được thực thi trên thực tế.

Chính phủ, Quốc hội và các cấp có thẩm quyền nên giao chỉ tiêu (KPI) phát triển doanh nghiệp tư nhân và tăng trưởng kinh tế cho chính quyền các địa phương, coi đây là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá thành tích chính trị. “Khi các động lực chính trị gắn với cải cách thể chế, chúng ta sẽ có bước tiến rõ rệt, ngay cả trong thời gian ngắn”, ông Tuấn gợi ý.

Ngoài những lĩnh vực kinh tế trọng điểm, năng lượng cũng là lĩnh vực đang tồn tại nhiều điểm nghẽn cần được giải quyết.

Theo ông Vũ Tú Thành, Phó giám đốc điều hành khu vực Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN (US-ABC), Việt Nam cần sớm khơi thông các rào cản trong ngành điện thông qua việc gỡ bỏ cơ chế hạn ngạch trong Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện 8). Đồng thời, cho phép áp dụng cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) với tất cả các nguồn điện sạch, trong đó có điện khí....
 

Có thể bạn quan tâm

Top