Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Lý Bạch (701- 762) là một trong những nhà thơ danh tiếng nhất thời Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên. Thơ của ông vượt lên cao tuyệt giữa thời Thịnh Đường, vốn là thời điểm thi ca không chỉ phong phú về số lượng mà giá trị nghệ thuật cũng đạt đến mức độ trước sau chưa từng có.
Thịnh Đường là thời điểm thái bình thịnh trị trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội cho đến tín ngưỡng trong lịch sử Trung Hoa. Văn học nghệ thuật thời kỳ này được tôn vinh là “Tường Đường Khí Tương”. Sau này khi Hoàng đế Khang Hy triều Thanh yêu cầu biên soạn bộ “Toàn Đường Thi” thì số lượng tác phẩm thu thập được là hơn 48.000 bài thơ, trong đó có 2.200 nhà thơ. Số lượng bài thơ, thể loại thơ cùng với nội hàm uyên bác của thời Thịnh Đường đã trở thành một ngôi sao sáng trong lịch sử Trung Hoa, như nhà thơ Lưu Quang Vũ từng cảm thán: “Đường thi vằng vặc”.
Vậy mà trong chốn anh hào đó, Thi Tiên Lý Bạch lại nổi bật lên trên hết với cả ngàn bài thơ bất hủ. Thậm chí tác phẩm thơ của Lý Bạch còn xuất hiện các bản dịch phương Tây từ thế kỷ 18. Cuộc đời của ông nhuốm màu truyền kỳ, vời tài uống rượu làm thơ, một bóng áo trắng, một bầu rượu và một thanh kiếm, ngao du khắp nơi, hết ra làm quan rồi lại về ở ẩn.
Lý Bạch sinh ở Lũng Tây, Cam Túc, suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã được ngao du sơn thủy cùng cha. Ông tỏ ra rất thích thú, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu du, tự tại.
Đến năm 10 tuổi gia đình ông chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây, Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.
Khi 15 tuổi, ông đã có bài “Phú ngạo Tư Mã Tương Như”, “Thư gửi Hàn Kinh Châu”, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng ông đã nổi khắp Tứ Xuyên. Nhưng lúc đó ông lại có chí hướng khác, lên núi học Đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ và ngao du thiên hạ. Bước chân của Thi Tiên Lý Bạch có mặt ở khắp mọi danh thắng Trung Nguyên.
(Tranh minh họa: Vision Times tiếng Trung)
Dẫu sau này có vài lần vướng mắc chuyện quan trường, nhưng chí của ông không đặt ở công danh, chính là như thơ của ông, không chỉ không màng công danh, mà có không ít là vượt thoát khỏi thế tục, dùng lời của người đời khen tặng là “không phải lời của thế gian”.
Tương truyền rằng Lý Bạch làm vô cùng nhiều thơ, nhưng làm xong rồi lại không lưu giữ, thơ của ông được biết tới là nhờ dân gian ghi chép lại. Loạn An Sử diễn ra, Lý Bạch không tham gia nhưng vẫn bị cuốn vào, suýt bị xử tử. Thời gian này thơ của ông bị mất rất nhiều.
Năm 762, khi Lý Bạch đã qua đời thì người anh họ Lý Dương Lân mới bắt đầu thu thập lại thơ ông. Đến năm 1080, một người Cao Ly mới gom lại tập thơ của Lý Bạch, số lượng gồm 1.800 bài. Đến nay thì còn trên dưới 1.000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp Khách Hành, Thanh Bình Điệu, Hành Lộ Nan…
Dưới đây là một số bài thơ của Lý Bạch được khá nhiều người Việt biết đến, bản dịch thơ không thể nói hết cái hay của ngôn từ, chỉ nên để tham khảo.
Vọng Lư Sơn Bộc Bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Xa ngắm thác núi Lư
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Bài “Vọng Lư Sơn Bộc Bố” của Lý Bạch đã lưu lại muôn đời trong thi ca cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác, trí tưởng tượng phóng khoáng, khả năng quan sát rộng lớn, ý thơ vượt ra khoảng không bao la, ngôn từ hoa lệ, khí khái cao siêu.
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
Dịch thơ:
Tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Đây là một trong những tuyệt tác về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt của Lý Bạch, cách sử dụng từ ngữ thanh cao, ý tứ nhẹ nhàng, thiên nhiên rộng lớn, khung cảnh vô cùng khoáng đạt, vẽ nên bức tranh kiệt tác tại nhân gian.
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sơn
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Dịch thơ:
Cảm nghĩ đêm yên tĩnh
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
“Tĩnh dạ tứ” là một bài thơ mà bất cứ người tha hương nào cũng sẽ cảm nhận được trọn vẹn.
Há Giang Lăng – Tảo phát Bạch Đế thành
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san
Dịch thơ:
Tới Giang Lăng – Sáng rời thành Bạch Đế
Sáng từ Bạch Đế giữa ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu không dứt
Ngàn non thuyền nhẹ đã qua ngay
Người đời xưng tụng Lý Bạch là “Thi Tiên”, bởi thơ của ông luôn đứng từ một cảnh giới cao hơn mà bao quát vạn vật. Truyền thuyết rằng sau khi ông bị đuổi khỏi triều đình thì thường uống rượu say, nhờ cơ duyên được chứng kiến tiên nữ múa, từ đó thấu hiểu lẽ sinh tử mà viết ra bài “Cửu nhật Long sơn ẩm”:
Cửu nhật Long sơn ẩm
Cửu nhật Long sơn ẩm,
Hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khan phong lạc mạo,
Vũ ái nguyệt lưu nhân.
Dịch nghĩa:
Tiết Trùng Cửu uống rượu trên núi Rồng
Tiết Trùng Cửu uống rượu trên núi Rồng,
Hoa vàng cười kẻ làm quan bị đuổi đi.
Say nhìn gió thổi rơi mũ,
[Tiên nữ] múa tuyệt đẹp dưới trăng làm người chẳng muốn dời chân.
Cũng bởi thấu hiểu lẽ sinh tử rồi nên Lý Bạch mới cảm khái viết về cõi nhân sinh rằng:
Sinh giả vi quá khách,
Tử giả vi quy nhân.
Thiên địa nhất nghịch lữ,
Đồng bi vạn cổ trần.
Nghĩa là:
Sống là khách qua đường,
Chết tựa về cố hương.
Trời đất này khác chi quán trọ,
Người ở trong cõi trần ai đó mà bi thương [không biết chốn về].
Lý Bạch được mọi người biết đến với phong cách thơ phóng khoáng, siêu phàm thoát tục, vì vậy ông được thế nhân tôn là Thi tiên. Trong những năm cuối đời của ông, có một câu chuyện rất thú vị về việc nhờ thơ mà ông tìm được tri kỷ.
Những năm cuối đời, Lý Bạch rời kinh đô, thường một mình du ngoạn đến các nơi như Tuyên Thành, Nam Lăng, huyện Hấp, Thải Thạch… và một số địa danh nổi tiếng gần đó để gặp gỡ bằng hữu, uống rượu làm thơ.
(Tranh: Wikipedia, Public Domain)
Một buổi sáng sớm, Lý Bạch đến một quán rượu trên phố ở huyện Hấp để mua rượu, bỗng ông nghe thấy ở tiệm bán củi bên cạnh có tiếng người nói chuyện: “Lão nhân gia, ông là người nơi nào? Sao lớn tuổi rồi mà còn gánh nhiều củi đem bán vậy?” Ông lão nghe hỏi liền cười một tràng sảng khoái rồi ngâm lớn một bài thơ:
Phụ tân triều xuất mại,
Cô tửu nhật tây quy.
Tá vấn gia hà xứ?
Xuyên vân nhập thúy vi!
Tạm dịch nghĩa:
Gánh củi đi bán sáng,
Mua rượu chiều tà về.
Hỏi nhà ở nơi nào,
Xuyên mây vào núi xanh!
Lý Bạch nghe xong vô cùng kinh ngạc, không biết ai lại có thể tùy cơ ứng khẩu ngâm ra những câu thơ cảm động lòng người vậy!
Lý Bạch bèn hỏi chủ quán rượu về lão nhân gia, chủ quán rượu đáp: “Đó là một ông lão ẩn cư trong núi sâu, tên là Hứa Tuyên Bình, ông ấy thường hay đến vùng này du ngoạn, mỗi lần gánh củi vào thị trấn đều là khi trời vừa hửng sáng, trên gánh củi treo một cái bầu hồ lô và cây gậy trúc cong cong, bán củi xong thì mở bầu rượu ra uống, vừa đi vừa uống, say rồi thì ngâm thơ viết đối, ai không biết còn tưởng ông ấy là người điên”.
Nghe chủ quán nói thế Lý Bạch như phảng phất nhìn thấy hình bóng của chính mình, trong lòng bỗng có cảm giác như tìm được tri âm, bèn lập tức quay người ra cửa đi tìm ông lão, thấy ông lão đã đi qua cây cầu nhỏ trên phố, từng bước chậm rãi đi. Lý Bạch sải bước băng băng đuổi theo phía sau. Khi đuổi đến cây cầu nhỏ, xuyên qua một rừng trúc, rồi vòng qua nhánh sông, Lý Bạch mệt đến mức thở không ra hơi, nhìn lại thì đã không thấy ông lão đâu nữa.
Lý Bạch giẫm chân thở dài tiếc nuối: “Lẽ nào ta đã thực sự gặp được tiên nhân rồi!”
Đêm hôm ấy Lý Bạch chẳng tài nào chợp mắt được. Hồi tưởng lại phần lớn cuộc đời ngoại trừ vài người bạn thơ như Đỗ Phủ ra, thì ông chưa từng gặp được một bạn thơ nào có thể gọi là tri kỷ như ông lão hôm nay, cơ hội hạnh ngộ tri âm như thế này quyết không thể bỏ lỡ.
Sáng sớm hôm sau Lý Bạch đến trước cửa tiệm củi đợi cho đến khi mặt trời ngả về Tây mà chẳng thấy tung tích ông lão đâu, liên tục ba ngày liền đều như vậy. Không đành lòng, Lý Bạch quyết định mang bình rượu và lương khô chuẩn bị đi vào núi tìm ông lão.
Lý Bạch lần lượt tìm kiếm trong núi, lội qua nhiều con suối, hơn một tháng trời mà chưa thấy chút bóng dáng của ông lão. Tuy thế ông vẫn không nản lòng, vẫn đi đi lại lại quanh những ngọn núi con sông xinh đẹp này để tìm người bằng hữu tri kỷ của mình.
Buổi hoàng hôn hôm ấy ráng chiều nhuộm đỏ cả một bầu trời, dòng suối trong xanh và khu rừng trúc xanh biếc trong núi cùng nhau hiện lên trên nền trời khiến quang cảnh đẹp đẽ lạ thường. Lúc này Lý Bạch vừa thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên vừa lê tấm thân mệt mỏi xuống phía chân núi Tử Dương gần dãy Hoàng Sơn. Khi trèo qua miệng núi, ông phát hiện khối đá nham thạch khổng lồ trước mặt dường như có khắc chữ, nhìn kỹ thì hoá ra là một bài thơ:
Ẩn cư tam thập tải, trúc thất Nam Sơn điện.
Tĩnh dạ ngoạn minh nguyệt, nhàn triều ẩm bích tuyền.
Tiều phu ca lũng thượng, cốc điểu hý nham tiền.
Lạc hĩ bất tri lão, đô vong giáp tử niên.
Tạm dịch nghĩa:
Ẩn cư ba mươi năm, nhà trúc đỉnh Nam Sơn.
Đêm tĩnh thưởng trăng sáng, sáng nhàn uống suối xanh.
Tiều phu ca trên nương, chim rừng đùa trước đá.
Vui chơi chẳng biết già, đã quên ngày tháng trôi.
Tuy rằng Lý Bạch đã làm thơ mấy chục năm, nhưng một bài thơ toát lên hương vị hoa rừng cỏ nội thế này thì lần đầu tiên ông được lĩnh hội. Sau khi đọc một mạch ba lượt bài thơ, ông đã không nén được mà thốt lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” Rồi Lý Bạch nhìn thấy đống thóc đang phơi trên bãi đất bằng bên cạnh tảng nham thạch, bèn đứng sang một bên ngắm cảnh trí trên núi trong lúc chờ người đến gom thóc.
Khi mặt trời sắp khuất núi, Lý Bạch bỗng nghe tiếng sóng nước từng đợt từng đợt truyền đến. Đang nhìn quanh thì thấy một chiếc thuyền nhỏ từ bên kia sông chèo sang, một ông lão râu tóc phất phơ cầm mái chèo đứng ở mũi thuyền.
Lý Bạch vội đứng dậy hỏi thăm ông lão: “Xin hỏi lão nhân gia, ngài có biết lão ông Hứa Tuyên Bình ở đâu không?” Kỳ thực vị lão nhân này chính là ông lão Hứa Tuyên Bình mà Lý Bạch muốn tìm, lần trước ở thị trấn tại huyện Hấp thấy Lý Bạch mình mặc cẩm bào vua ban đuổi theo, ông còn tưởng rằng đó là triều đình phái người tìm ông để ra làm quan, nên ông không quay trở lại huyện Hấp nữa. Không ngờ rằng hôm nay gặp lại, hóa ra người này lại càng theo sát ông hơn.
Ông lão chỉ vào hàng rào trước mũi thuyền mà đáp một cách thờ ơ rằng: “Môn khẩu nhất can trúc, tiện thị Hứa ông gia!” (Hàng rào trúc trước cửa, đó là nhà Hứa ông). Lý Bạch ngước mắt nhìn những ngọn núi với cỏ cây chen chúc rậm rạp lại hỏi: “Xứ xứ giai thanh trúc, hà xứ khứ trảo tầm?” (Toàn là trúc với trúc, biết đâu để mà tìm?) Lão ông quan sát tỉ mỉ vị khách vẻ đầy phong trần hỏi lại: “Ông là ai?” Lý Bạch lặng lẽ cúi đầu chào lão ông và nói: “Tôi là Lý Bạch”. Lão ông nghe vậy thì ngây người ra: “Ông là Lý Bạch đến để tìm tôi?” Lý Bạch vội giải thích tâm nguyện của mình khi đến đây. Lão nhân chắp hai tay nói: “Ông là Thi tiên đương thời! Tôi có là gì đâu, chẳng qua chỉ sánh bằng một giọt nước trong biển thơ mà thôi. Biển cả như ông mà đi tìm một giọt nước, tôi không dám nhận đâu!” Nói xong liền chống thuyền quay trở về. Lý Bạch khẩn khoản: “Lão nhân gia, tôi vất vả bôn ba suốt ba tháng trời đi tìm ngài, cũng không dễ dàng gì mới gặp được, lẽ nào ngài từ chối tôi mà quay về?”
Lời nói chân thành khẩn thiết của Lý Bạch đã làm lão ông xúc động. Từ đó, dù là trong lúc bình minh hay trong hay ánh hoàng hôn rực rỡ, người ta vẫn thường thấy Lý Bạch và lão ông uống rượu, ngâm thơ trên phiến đá xanh lớn bên dòng suối. Từ nơi ấy tiếng ngâm thơ, tiếng cười nói rộn rã cùng với tiếng thác đổ hoà quyện vào nhau và được dòng suối đang trôi nhanh đưa đi xa đến nghìn dặm…
Ngày nay, nhiều du khách khi đến dãy Hoàng Sơn vẫn thích tìm kiếm những dấu vết của chuyến đi của Lý Bạch dọc theo dòng suối đang ào ào chảy. Liệu họ có tìm thấy được không? Khi đi qua khỏi con suối Minh Huyền trên núi Hổ Đầu Nham sẽ thấy một tảng đá khổng lồ có khắc hai chữ “Tuý thạch”, đó là nơi Lý Bạch và lão ông đã cùng nhau thưởng ngoạn sơn cảnh, uống rượu ngâm thơ, còn dòng suối nơi mà hai người họ rửa bát uống rượu thì được người đời sau gọi là “Tẩy bôi tuyền” (suối rửa chén).
Thịnh Đường là thời điểm thái bình thịnh trị trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội cho đến tín ngưỡng trong lịch sử Trung Hoa. Văn học nghệ thuật thời kỳ này được tôn vinh là “Tường Đường Khí Tương”. Sau này khi Hoàng đế Khang Hy triều Thanh yêu cầu biên soạn bộ “Toàn Đường Thi” thì số lượng tác phẩm thu thập được là hơn 48.000 bài thơ, trong đó có 2.200 nhà thơ. Số lượng bài thơ, thể loại thơ cùng với nội hàm uyên bác của thời Thịnh Đường đã trở thành một ngôi sao sáng trong lịch sử Trung Hoa, như nhà thơ Lưu Quang Vũ từng cảm thán: “Đường thi vằng vặc”.
Vậy mà trong chốn anh hào đó, Thi Tiên Lý Bạch lại nổi bật lên trên hết với cả ngàn bài thơ bất hủ. Thậm chí tác phẩm thơ của Lý Bạch còn xuất hiện các bản dịch phương Tây từ thế kỷ 18. Cuộc đời của ông nhuốm màu truyền kỳ, vời tài uống rượu làm thơ, một bóng áo trắng, một bầu rượu và một thanh kiếm, ngao du khắp nơi, hết ra làm quan rồi lại về ở ẩn.
Lý Bạch sinh ở Lũng Tây, Cam Túc, suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã được ngao du sơn thủy cùng cha. Ông tỏ ra rất thích thú, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu du, tự tại.
Đến năm 10 tuổi gia đình ông chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây, Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.
Khi 15 tuổi, ông đã có bài “Phú ngạo Tư Mã Tương Như”, “Thư gửi Hàn Kinh Châu”, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng ông đã nổi khắp Tứ Xuyên. Nhưng lúc đó ông lại có chí hướng khác, lên núi học Đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ và ngao du thiên hạ. Bước chân của Thi Tiên Lý Bạch có mặt ở khắp mọi danh thắng Trung Nguyên.

Dẫu sau này có vài lần vướng mắc chuyện quan trường, nhưng chí của ông không đặt ở công danh, chính là như thơ của ông, không chỉ không màng công danh, mà có không ít là vượt thoát khỏi thế tục, dùng lời của người đời khen tặng là “không phải lời của thế gian”.
Tương truyền rằng Lý Bạch làm vô cùng nhiều thơ, nhưng làm xong rồi lại không lưu giữ, thơ của ông được biết tới là nhờ dân gian ghi chép lại. Loạn An Sử diễn ra, Lý Bạch không tham gia nhưng vẫn bị cuốn vào, suýt bị xử tử. Thời gian này thơ của ông bị mất rất nhiều.
Năm 762, khi Lý Bạch đã qua đời thì người anh họ Lý Dương Lân mới bắt đầu thu thập lại thơ ông. Đến năm 1080, một người Cao Ly mới gom lại tập thơ của Lý Bạch, số lượng gồm 1.800 bài. Đến nay thì còn trên dưới 1.000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp Khách Hành, Thanh Bình Điệu, Hành Lộ Nan…
Dưới đây là một số bài thơ của Lý Bạch được khá nhiều người Việt biết đến, bản dịch thơ không thể nói hết cái hay của ngôn từ, chỉ nên để tham khảo.
Vọng Lư Sơn Bộc Bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Xa ngắm thác núi Lư
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Bài “Vọng Lư Sơn Bộc Bố” của Lý Bạch đã lưu lại muôn đời trong thi ca cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác, trí tưởng tượng phóng khoáng, khả năng quan sát rộng lớn, ý thơ vượt ra khoảng không bao la, ngôn từ hoa lệ, khí khái cao siêu.
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
Dịch thơ:
Tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Đây là một trong những tuyệt tác về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt của Lý Bạch, cách sử dụng từ ngữ thanh cao, ý tứ nhẹ nhàng, thiên nhiên rộng lớn, khung cảnh vô cùng khoáng đạt, vẽ nên bức tranh kiệt tác tại nhân gian.
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sơn
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Dịch thơ:
Cảm nghĩ đêm yên tĩnh
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
“Tĩnh dạ tứ” là một bài thơ mà bất cứ người tha hương nào cũng sẽ cảm nhận được trọn vẹn.
Há Giang Lăng – Tảo phát Bạch Đế thành
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san
Dịch thơ:
Tới Giang Lăng – Sáng rời thành Bạch Đế
Sáng từ Bạch Đế giữa ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu không dứt
Ngàn non thuyền nhẹ đã qua ngay
Người đời xưng tụng Lý Bạch là “Thi Tiên”, bởi thơ của ông luôn đứng từ một cảnh giới cao hơn mà bao quát vạn vật. Truyền thuyết rằng sau khi ông bị đuổi khỏi triều đình thì thường uống rượu say, nhờ cơ duyên được chứng kiến tiên nữ múa, từ đó thấu hiểu lẽ sinh tử mà viết ra bài “Cửu nhật Long sơn ẩm”:
Cửu nhật Long sơn ẩm
Cửu nhật Long sơn ẩm,
Hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khan phong lạc mạo,
Vũ ái nguyệt lưu nhân.
Dịch nghĩa:
Tiết Trùng Cửu uống rượu trên núi Rồng
Tiết Trùng Cửu uống rượu trên núi Rồng,
Hoa vàng cười kẻ làm quan bị đuổi đi.
Say nhìn gió thổi rơi mũ,
[Tiên nữ] múa tuyệt đẹp dưới trăng làm người chẳng muốn dời chân.
Cũng bởi thấu hiểu lẽ sinh tử rồi nên Lý Bạch mới cảm khái viết về cõi nhân sinh rằng:
Sinh giả vi quá khách,
Tử giả vi quy nhân.
Thiên địa nhất nghịch lữ,
Đồng bi vạn cổ trần.
Nghĩa là:
Sống là khách qua đường,
Chết tựa về cố hương.
Trời đất này khác chi quán trọ,
Người ở trong cõi trần ai đó mà bi thương [không biết chốn về].
Lý Bạch được mọi người biết đến với phong cách thơ phóng khoáng, siêu phàm thoát tục, vì vậy ông được thế nhân tôn là Thi tiên. Trong những năm cuối đời của ông, có một câu chuyện rất thú vị về việc nhờ thơ mà ông tìm được tri kỷ.
Những năm cuối đời, Lý Bạch rời kinh đô, thường một mình du ngoạn đến các nơi như Tuyên Thành, Nam Lăng, huyện Hấp, Thải Thạch… và một số địa danh nổi tiếng gần đó để gặp gỡ bằng hữu, uống rượu làm thơ.

Một buổi sáng sớm, Lý Bạch đến một quán rượu trên phố ở huyện Hấp để mua rượu, bỗng ông nghe thấy ở tiệm bán củi bên cạnh có tiếng người nói chuyện: “Lão nhân gia, ông là người nơi nào? Sao lớn tuổi rồi mà còn gánh nhiều củi đem bán vậy?” Ông lão nghe hỏi liền cười một tràng sảng khoái rồi ngâm lớn một bài thơ:
Phụ tân triều xuất mại,
Cô tửu nhật tây quy.
Tá vấn gia hà xứ?
Xuyên vân nhập thúy vi!
Tạm dịch nghĩa:
Gánh củi đi bán sáng,
Mua rượu chiều tà về.
Hỏi nhà ở nơi nào,
Xuyên mây vào núi xanh!
Lý Bạch nghe xong vô cùng kinh ngạc, không biết ai lại có thể tùy cơ ứng khẩu ngâm ra những câu thơ cảm động lòng người vậy!
Lý Bạch bèn hỏi chủ quán rượu về lão nhân gia, chủ quán rượu đáp: “Đó là một ông lão ẩn cư trong núi sâu, tên là Hứa Tuyên Bình, ông ấy thường hay đến vùng này du ngoạn, mỗi lần gánh củi vào thị trấn đều là khi trời vừa hửng sáng, trên gánh củi treo một cái bầu hồ lô và cây gậy trúc cong cong, bán củi xong thì mở bầu rượu ra uống, vừa đi vừa uống, say rồi thì ngâm thơ viết đối, ai không biết còn tưởng ông ấy là người điên”.
Nghe chủ quán nói thế Lý Bạch như phảng phất nhìn thấy hình bóng của chính mình, trong lòng bỗng có cảm giác như tìm được tri âm, bèn lập tức quay người ra cửa đi tìm ông lão, thấy ông lão đã đi qua cây cầu nhỏ trên phố, từng bước chậm rãi đi. Lý Bạch sải bước băng băng đuổi theo phía sau. Khi đuổi đến cây cầu nhỏ, xuyên qua một rừng trúc, rồi vòng qua nhánh sông, Lý Bạch mệt đến mức thở không ra hơi, nhìn lại thì đã không thấy ông lão đâu nữa.
Lý Bạch giẫm chân thở dài tiếc nuối: “Lẽ nào ta đã thực sự gặp được tiên nhân rồi!”
Đêm hôm ấy Lý Bạch chẳng tài nào chợp mắt được. Hồi tưởng lại phần lớn cuộc đời ngoại trừ vài người bạn thơ như Đỗ Phủ ra, thì ông chưa từng gặp được một bạn thơ nào có thể gọi là tri kỷ như ông lão hôm nay, cơ hội hạnh ngộ tri âm như thế này quyết không thể bỏ lỡ.
Sáng sớm hôm sau Lý Bạch đến trước cửa tiệm củi đợi cho đến khi mặt trời ngả về Tây mà chẳng thấy tung tích ông lão đâu, liên tục ba ngày liền đều như vậy. Không đành lòng, Lý Bạch quyết định mang bình rượu và lương khô chuẩn bị đi vào núi tìm ông lão.
Lý Bạch lần lượt tìm kiếm trong núi, lội qua nhiều con suối, hơn một tháng trời mà chưa thấy chút bóng dáng của ông lão. Tuy thế ông vẫn không nản lòng, vẫn đi đi lại lại quanh những ngọn núi con sông xinh đẹp này để tìm người bằng hữu tri kỷ của mình.
Buổi hoàng hôn hôm ấy ráng chiều nhuộm đỏ cả một bầu trời, dòng suối trong xanh và khu rừng trúc xanh biếc trong núi cùng nhau hiện lên trên nền trời khiến quang cảnh đẹp đẽ lạ thường. Lúc này Lý Bạch vừa thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên vừa lê tấm thân mệt mỏi xuống phía chân núi Tử Dương gần dãy Hoàng Sơn. Khi trèo qua miệng núi, ông phát hiện khối đá nham thạch khổng lồ trước mặt dường như có khắc chữ, nhìn kỹ thì hoá ra là một bài thơ:
Ẩn cư tam thập tải, trúc thất Nam Sơn điện.
Tĩnh dạ ngoạn minh nguyệt, nhàn triều ẩm bích tuyền.
Tiều phu ca lũng thượng, cốc điểu hý nham tiền.
Lạc hĩ bất tri lão, đô vong giáp tử niên.
Tạm dịch nghĩa:
Ẩn cư ba mươi năm, nhà trúc đỉnh Nam Sơn.
Đêm tĩnh thưởng trăng sáng, sáng nhàn uống suối xanh.
Tiều phu ca trên nương, chim rừng đùa trước đá.
Vui chơi chẳng biết già, đã quên ngày tháng trôi.
Tuy rằng Lý Bạch đã làm thơ mấy chục năm, nhưng một bài thơ toát lên hương vị hoa rừng cỏ nội thế này thì lần đầu tiên ông được lĩnh hội. Sau khi đọc một mạch ba lượt bài thơ, ông đã không nén được mà thốt lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” Rồi Lý Bạch nhìn thấy đống thóc đang phơi trên bãi đất bằng bên cạnh tảng nham thạch, bèn đứng sang một bên ngắm cảnh trí trên núi trong lúc chờ người đến gom thóc.
Khi mặt trời sắp khuất núi, Lý Bạch bỗng nghe tiếng sóng nước từng đợt từng đợt truyền đến. Đang nhìn quanh thì thấy một chiếc thuyền nhỏ từ bên kia sông chèo sang, một ông lão râu tóc phất phơ cầm mái chèo đứng ở mũi thuyền.
Lý Bạch vội đứng dậy hỏi thăm ông lão: “Xin hỏi lão nhân gia, ngài có biết lão ông Hứa Tuyên Bình ở đâu không?” Kỳ thực vị lão nhân này chính là ông lão Hứa Tuyên Bình mà Lý Bạch muốn tìm, lần trước ở thị trấn tại huyện Hấp thấy Lý Bạch mình mặc cẩm bào vua ban đuổi theo, ông còn tưởng rằng đó là triều đình phái người tìm ông để ra làm quan, nên ông không quay trở lại huyện Hấp nữa. Không ngờ rằng hôm nay gặp lại, hóa ra người này lại càng theo sát ông hơn.
Ông lão chỉ vào hàng rào trước mũi thuyền mà đáp một cách thờ ơ rằng: “Môn khẩu nhất can trúc, tiện thị Hứa ông gia!” (Hàng rào trúc trước cửa, đó là nhà Hứa ông). Lý Bạch ngước mắt nhìn những ngọn núi với cỏ cây chen chúc rậm rạp lại hỏi: “Xứ xứ giai thanh trúc, hà xứ khứ trảo tầm?” (Toàn là trúc với trúc, biết đâu để mà tìm?) Lão ông quan sát tỉ mỉ vị khách vẻ đầy phong trần hỏi lại: “Ông là ai?” Lý Bạch lặng lẽ cúi đầu chào lão ông và nói: “Tôi là Lý Bạch”. Lão ông nghe vậy thì ngây người ra: “Ông là Lý Bạch đến để tìm tôi?” Lý Bạch vội giải thích tâm nguyện của mình khi đến đây. Lão nhân chắp hai tay nói: “Ông là Thi tiên đương thời! Tôi có là gì đâu, chẳng qua chỉ sánh bằng một giọt nước trong biển thơ mà thôi. Biển cả như ông mà đi tìm một giọt nước, tôi không dám nhận đâu!” Nói xong liền chống thuyền quay trở về. Lý Bạch khẩn khoản: “Lão nhân gia, tôi vất vả bôn ba suốt ba tháng trời đi tìm ngài, cũng không dễ dàng gì mới gặp được, lẽ nào ngài từ chối tôi mà quay về?”
Lời nói chân thành khẩn thiết của Lý Bạch đã làm lão ông xúc động. Từ đó, dù là trong lúc bình minh hay trong hay ánh hoàng hôn rực rỡ, người ta vẫn thường thấy Lý Bạch và lão ông uống rượu, ngâm thơ trên phiến đá xanh lớn bên dòng suối. Từ nơi ấy tiếng ngâm thơ, tiếng cười nói rộn rã cùng với tiếng thác đổ hoà quyện vào nhau và được dòng suối đang trôi nhanh đưa đi xa đến nghìn dặm…
Ngày nay, nhiều du khách khi đến dãy Hoàng Sơn vẫn thích tìm kiếm những dấu vết của chuyến đi của Lý Bạch dọc theo dòng suối đang ào ào chảy. Liệu họ có tìm thấy được không? Khi đi qua khỏi con suối Minh Huyền trên núi Hổ Đầu Nham sẽ thấy một tảng đá khổng lồ có khắc hai chữ “Tuý thạch”, đó là nơi Lý Bạch và lão ông đã cùng nhau thưởng ngoạn sơn cảnh, uống rượu ngâm thơ, còn dòng suối nơi mà hai người họ rửa bát uống rượu thì được người đời sau gọi là “Tẩy bôi tuyền” (suối rửa chén).