Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Người Chăm Bani trong một dịp lễ truyền thống vào đầu năm 2025 tại Ninh Thuận
- Tác giả,Nicolas Weber
- Vai trò,Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Sài Gòn
- Tác giả,Alex-Thái Đình Võ
- Vai trò,Dịch
- 6 tháng 10 2025
Thế nhưng, chính những trải nghiệm này cho thấy cuộc chiến không chỉ chia cắt một quốc gia mà còn làm tan vỡ cả bức tranh đa sắc của các bản sắc địa phương.
Ở miền Nam, các cộng đồng thiểu số đặc biệt dễ tổn thương trước làn sóng "tân thực dân" dưới chính quyền Ngô Đình Diệm (1955-1963), với chính sách đồng hóa, cưỡng bức di dời và đàn áp tôn giáo. Đáp lại, nhiều nhóm đã kháng cự hoặc liên minh chiến lược, mở ra cuộc đấu tranh lâu dài nhằm giành sự công nhận và quyền lợi trong chế độ Sài Gòn.
Qua một trường ca Chăm đầu thế kỷ 19, được tái bản ngay sau Tết Mậu Thân 1968, bài viết này khảo sát cách người Chăm diễn đạt trải nghiệm hủy diệt, thực dân hóa và chiến tranh, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình và tái lập trật tự xã hội.
Đây không phải là tiếng nói thay mặt cộng đồng Chăm hay một diễn giải duy nhất, mà là cách nhìn cá nhân của tôi, dựa trên tư liệu và học thuật hiện có, đặt trong bối cảnh lịch sử và văn hóa rộng lớn hơn. Cũng cần lưu ý, bản dịch các đoạn thơ trong bài không hoàn toàn sát chữ. Nếu dịch sát, chất thơ sẽ mất đi. Thơ Chăm không chỉ truyền đạt sự kiện hay lời dạy, mà còn khơi gợi cảm xúc. Vì vậy, đôi khi tôi nhấn mạnh một số từ để tạo hiệu ứng, nhưng không làm sai lệch ý nghĩa.
Cuối cùng, cần nhắc rằng trường ca Chăm này đã có một bản dịch uy tín sang tiếng Việt do Inrasara, một trí thức, nhà thơ, tiểu luận gia nổi tiếng gốc Chăm, thực hiện (Ariya. Trường ca Chăm, TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2006, 314-339).
Phan Rang là một thị trấn ven biển yên ả, nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh hơn ba trăm cây số về phía bắc. Vài thập niên gần đây, nơi từng là tỉnh lỵ nhỏ bé này đã trở thành điểm du lịch sôi động. Nhưng ít ai ngờ rằng, chưa đầy hai thế kỷ trước, vùng đất này từng chứng kiến máu đổ, cưỡng bức di dời, tước đoạt đất đai và cả một kế hoạch hủy diệt được hoạch định.
"Không còn gì – trước mặt hay sau lưng. Có bao giờ thực sự có lý do để nắm giữ lấy điều gì?
Hủy diệt – gieo bởi muôn bàn tay, trên mọi lối đường, từ Panrang, Kraong, Parik đến Pajai,
Nước bọt hóa thành máu. Đất nước [ta] mang tội tình gì, [mà phải chịu kiếp trừng phạt] không cùng?"
Những câu thơ trầm mặc và sắc lạnh này mở đầu Ariya Gleng Anak – Trường ca Nhìn về phía trước (gọi tắt là Nhìn về phía trước) – một truyện thơ Chăm nổi tiếng đầu thế kỷ 19, chất chứa ký ức và mất mát, đồng thời kết tinh sự gắn bó của người Chăm với lịch sử, trải nghiệm và giá trị tinh thần.
Nhìn về phía trước trải dài từ vùng ven biển Panrang (Phan Rang) đến Parik (Phan Rí), qua Kraong (Long Hương cũ, Tuy Phong) và Pajai (Phú Hải cũ, phía bắc Phan Thiết). Đây từng là trung tâm chính trị của Panduranga – tiểu quốc bán tự trị và lãnh thổ Champa cuối cùng, từ Khánh Hòa, Lâm Đồng đến Đồng Nai – mà chính sử triều Nguyễn (1802-1945) gọi là trấn Thuận Thành.
Tác phẩm ra đời sau khi Panduranga bị triều Minh Mạng (1820-1841) sáp nhập và đưa vào tỉnh Bình Thuận năm 1832.
Chụp lại hình ảnh,Bản đồ Lang-Bian và vùng phụ cận, 1917; các chấm đỏ đánh dấu bốn địa điểm được nhắc đến trong trường ca
Được sáng tác bằng ngôn ngữ mang tính văn chương cao, giàu hình ảnh, theo thể thơ Chăm ariya – có phần tương đồng với lục bát Việt Nam – tác phẩm này vốn được ngâm đọc trước công chúng. Dù mang tính uyên áo với vốn từ phong phú và ẩn dụ dày đặc, Nhìn về phía trước vẫn dễ tiếp cận nhờ truyền thống học thuộc và ngâm đọc.
Kế thừa truyền thống viết lẫn truyền khẩu, tác phẩm mời gọi người đọc/nghe làm chứng cho biến cố quá khứ và đối diện bóng tối lịch sử. Không chỉ là bản tường thuật sống động về thảm họa – với những hình ảnh mạnh mẽ – Nhìn về phía trước còn gây chấn động tâm can, cuốn người tiếp cận vào trải nghiệm thương tổn gắn liền với căn tính Chăm.
Tác phẩm không chỉ đắm chìm trong quá khứ, mà kêu gọi vừa hướng tới phía trước (anak), vừa ngoái nhìn phía sau (linyaiy likuk), để nhận ra ý nghĩa không chỉ trong sự hủy diệt, mà còn trong lựa chọn và trách nhiệm hiện tại. Nó khuyến khích người Chăm trở lại với giá trị cốt lõi, khởi đầu quá trình hàn gắn từ cá nhân đến cộng đồng, khôi phục cân bằng và hòa hợp.
Đồng thời, tác phẩm khơi gợi sự tự vấn, thách thức người đọc/nghe đối diện với cái tôi bị phân mảnh. Nỗi khổ đau không chỉ là bi kịch mà còn là con đường dẫn đến tái sinh. Bằng cách đó, nhìn về phía trước trở thành không gian của an ủi và sức mạnh, nuôi dưỡng bởi ký ức tập thể kiên định và khát vọng phục hưng văn hóa.
Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Người Chăm ở Ninh Thuận viếng mộ vào đầu năm 2025
Gần một thế kỷ rưỡi sau, năm 1968, khi Việt Nam Cộng hòa còn non trẻ và chao đảo bên bờ nội chiến, năm trí thức Chăm – Ja Mata Harei, Jaya Panrang, Luw Kuang Thrang, Lem Ya Tin và Thuan Weng Nién – đã khôi phục Nhìn về phía trước khỏi quên lãng, nhằm gắn kết một xã hội Chăm chia rẽ quanh căn tính lịch sử và giá trị truyền thống.
Dù giai đoạn này chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc bản sắc và sức ép từ các nhóm vũ trang như BAJARAKA (1957-1958) hay FULRO (1964-1992), trong đó có phe chủ trương đòi độc lập cho Tây Nguyên và lãnh thổ Champa xưa, việc xuất bản văn bản này dường như không mang tính ly khai. Thay vào đó, đây là một nỗ lực văn hóa nhằm khơi dậy tinh thần đoàn kết trong cộng đồng Chăm cũng như trong xã hội miền Nam đang tan vỡ vì chiến tranh.
Theo truyền thống văn bản Đông Nam Á, nhóm trí thức này đã phục dựng nhiều dị bản từ vùng Panrang (Phan Rang). Qua biên tập công phu, họ dung hòa dị bản, cố định độ dài tác phẩm và chuẩn hóa chính tả. Đặc biệt, họ bổ sung hơn một trăm khổ thơ giáo huấn, rút từ các văn bản dạy người Chăm tuân theo phong tục, luật tục (adat), tiêu biểu như Ariya Pataow Adat (Trường ca dạy adat).
Sau khi hiệu đính, tác phẩm được in ronéo và nhiều khả năng lưu hành tại các tỉnh (theo cách gọi trước 1975) như Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy. Thành phẩm là bản chép tay 125 khổ thơ bằng chữ Chăm (akhar thrah), vừa tưởng niệm thảm họa lịch sử, vừa khuyến cáo đạo đức. Khi khơi dậy các nguyên tắc luân lý và trách nhiệm cộng đồng, tác phẩm trở thành lời đáp cho sự hoang mang của đời sống đương thời, kêu gọi trở về nếp sống đạo hạnh gắn với truyền thống Chăm (adat), để hàn gắn bản ngã rạn vỡ và kết cấu xã hội bị chia cắt.
Việc xuất bản Nhìn về phía trước không phải sự tình cờ. Nó ra đời trong một thời khắc lịch sử đặc biệt, khi việc bảo tồn và phổ biến tác phẩm trở nên cấp thiết đối với cộng đồng Chăm. Ngôn ngữ và bối cảnh của trường ca phản chiếu không khí chiến tranh, sợ hãi và bạo lực, gắn với huynh đệ tương tàn, chia rẽ cộng đồng và sự suy sụp đạo đức.
Trong dư chấn Tết Mậu Thân 1968, Nhìn về phía trước trở thành tấm gương phản chiếu cuộc khủng hoảng sâu sắc đang xé nát miền Nam – từ cấp độ địa phương đến toàn cầu.
Từ đầu thập niên 1960, căng thẳng sắc tộc và tôn giáo leo thang, đẩy miền Nam vào nguy cơ chiến tranh toàn diện. Chính sách "tân thực dân" của Ngô Đình Diệm đối với các cộng đồng ngoài Kinh và ngoài Công giáo (1955-1963) châm ngòi cho nhiều khủng hoảng – trong đó có biến cố Phật giáo 1963 – kết thúc bằng việc Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát.
Với người Chăm, đây là giai đoạn đầy thử thách: chia rẽ nội bộ, xung đột giữa Hồi giáo cải cách và tín đồ Bani truyền thống, trong khi chính trị càng phức tạp khi Mặt trận Giải phóng Champa nhập vào FULRO (1964), gây chia rẽ thay vì đoàn kết. Thêm vào đó, việc một bộ phận tham gia phong trào ******** khiến xã hội Chăm càng phân hóa.
Trong Tết Mậu Thân, các cuộc tấn công ở miền Trung và miền Nam – trong đó có Phan Rang và Phan Thiết – đẩy cộng đồng Chăm trở lại trạng thái kinh hoàng. Căn cứ Mỹ đặt ngay tại Phan Rang, sát các làng Chăm, càng làm tình hình thêm ngột ngạt.
Nhìn về phía trước lấy bối cảnh nửa đầu thế kỷ 19 – giai đoạn đánh dấu sự hình thành của Việt Nam như một thực thể chính trị thống nhất, khi các thế lực Việt và ngoài Kinh tranh giành ảnh hưởng, cùng những nỗ lực đồng nhất hóa khốc liệt xóa bỏ các căn tính chính trị, văn hóa và tôn giáo ngoài Kinh.
Diễn ra trong khoảng 1834-1836, tác phẩm khắc họa một thời kỳ bạo lực cực độ và sự tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần. Người Chăm không chỉ mất quyền tự trị, hứng chịu tấn công vào văn hóa và tôn giáo, mà còn gánh hệ quả từ việc vua cuối cùng, Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa, 1828-1835), bị cáo buộc liên quan cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835) ở Gia Định và hai cuộc nổi dậy lớn của Katip Sumat (1833-1834) và Ja Thak Wa (1834-1835) ở vùng Panduranga.
Cuộc đàn áp sau đó đặc biệt tàn bạo trên toàn Nam Kỳ, nhất là vùng Chăm: làng mạc bị thiêu rụi, dân cư dời đi, gia đình ly tán, cái chết lan tràn. Nhìn về phía trước là chứng tích của giai đoạn này, một hình thức sử học độc đáo, phản ánh trải nghiệm trực tiếp về thương tổn và sống còn, nhiều khả năng được lưu truyền qua ký ức và lời kể nhân chứng. Các biến cố trong truyện tương ứng với những gì được ghi lại ở các trường ca Chăm khác: tan rã hành chính và hoàng tộc, làng mạc bị phá hủy, đất đai bị tước đoạt, nạn đói, tôn giáo bị công kích, đền tháp triệt hạ và các chiến dịch đồng hóa.
Ngay từ đầu, loạt hình ảnh bất an xuất hiện: "hủy diệt" (raong), "sắt" (basei), "nước bọt hóa máu" (kacuec jieng darah), "lửa" (apuei), "tội lỗi" (duis), "cái ác" (jhak), "hận thù" (mabai). Tác phẩm vang vọng hình ảnh thiên tai dữ dội – đất rung, cây ngã – gợi cảm giác tận thế. Bằng tầng lớp ẩn dụ và hình ảnh huyền ẩn, truyện thơ khắc họa sự hủy diệt Panduranga/Thuận Thành vừa như đại họa thiên nhiên, vừa như hình phạt thần linh. Nó tái hiện những đòn giáng xuống người Chăm – từ hoàng tộc đến dân thường – từ sự suy tàn của triều đình đến việc xóa bỏ luật lệ ruộng đất, làng mạc bị tàn phá và sự áp đặt của mô hình hành chính Việt.
Một chủ đề nổi bật là sự tước đoạt tài sản, đất đai bởi quan lại hoặc người khai hoang, được thể hiện trong đoạn thơ:
"Trước hết chúng chặt chồi, bỏ lại gốc cây.
Chúng chém rễ, vứt bỏ.
Chúng hủy hoại mùa màng của đất nước.
Chúng giao hết của cải cho viên quan trấn giữ.
Khắp nơi, chúng gom sạch của ta.
Mùa màng, chúng giữ lấy cho mình."
Đoạn thơ cho thấy những gì không bị cướp đoạt thì bị phá hủy, như một nỗ lực có chủ đích gây nạn đói. Trong bối cảnh này, đói kém vừa là sự trừng phạt, vừa là cách buộc người Chăm phải lệ thuộc vào chính quyền địa phương do triều đình bổ nhiệm để tồn tại.
Bằng những hình ảnh ám ảnh, Nhìn về phía trước khắc họa một xã hội đảo lộn, nơi giá trị đạo đức tan rã và mối dây gia đình, cộng đồng đổ vỡ. Xã hội ấy bị bào mòn bởi cả áp lực bên ngoài lẫn căng thẳng nội tại, khiến mọi thứ trở nên bất thường. Tác phẩm nhắc trực tiếp đến sự mất mát của dhar phuel – đức hạnh và công đức tích lũy từ hành động chính đáng – có thể xem như cách người Chăm bản địa hóa nguyên lý dharma trong Ấn Độ giáo, tức bổn phận gắn với tập tục, luật đạo đức và chuẩn mực xã hội.