"Tổ buôn lậu gạo" của bí thư Thành ủy cứu đói cho 3,5 triệu dân Sài Gòn

  • Tạo bởi Tạo bởi SUS304
  • Start date Start date

SUS304

Chú bộ đội
United-Nations
Một buổi sáng sớm, bà Nguyễn Thị Ráo, tức bà Ba Thi - giám đốc Công ty Lương thực TP.HCM - nhận được điện thoại của anh Sáu Dân, tức ông Võ Văn Kiệt. Anh Sáu mời đến nhà ăn sáng. Bà Ba Thi đến nhà bí thư thì thấy ba vị khách nữa cũng là quan chức đầu ngành của TP. Đó là ông Lữ Minh Châu - giám đốc Ngân hàng Ngoại thương, ông Năm Ẩn - giám đốc Sở Tài chính và một hai vị khách khác cũng đang chờ... ăn sáng. Đó là một buổi sáng của năm 1979. Khi đó 3,5 triệu dân của một TP từng là “hòn ngọc Viễn Đông” đang rơi vào nạn thiếu đói đầu tiên và gay gắt chưa từng có.

Tết Bính Thìn 1976, tức là chỉ sau hơn 6 tháng kết thúc chiến tranh ở miền Nam, hơn 80 trí thức Việt kiều khắp năm châu được Chính phủ mời về nước ăn tết. Nhận được thư mời, ông Nguyễn Đăng Hưng, học bổng sang Bỉ du học ngành ngành vật lý hàng không và không gian ở Đại học Liege mừng khôn xiết bởi đây là cơ hội để thăm dò tình hình trước khi về hẳn với quê hương với mong muốn phục vụ lâu dài. GS Hưng nhớ lại: Ngay khi đặt chân xuống Hà Nội, nhóm Việt kiều đề nghị gặp lãnh đạo chính quyền và cơ quan quản lý khoa học kỹ thuật để nắm tình hình, chính sách, đề đạt nguyện vọng để từ đó có hướng giúp đỡ đất nước. Chúng tôi không phải về để đi chơi.

Nhưng rồi những yêu cầu đó không được phía cơ quan quản lý khoa học kỹ thuật đáp ứng. Trong cuộc gặp mặt này, đại diện quản lý khoa học không hỏi nhiều về môi trường phát triển khoa học, về tâm tư của anh em trí thức, mà chỉ yêu cầu mọi người cung cấp nhiều catalog các mặt hàng với mục đích để mua chứ không phải để nghiên cứu khoa học hay kỹ thuật. Đáng buồn thay, số sách khoa học mà Việt kiều đưa về nhiều năm sau, nằm nguyên ở các viện mà không được chuyển tới tay nhà khoa học.

Sau vài ngày ở Hà Nội, ngày 29 Tết, GS Hưng trở về Sài Gòn. Chiều 30 Tết, GS Hưng và người cháu thăm thú đường hoa Nguyễn Huệ. Thấy cảnh vật trữ tình nên thơ, GS Hưng lấy máy ảnh bấm một vài kiểu. Ai dè một trong số bức ảnh dính phải người công an đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường hoa. Từ đây rắc rối ập đến với chú cháu GS Hưng. Dù cố gắng lí giải đó chỉ là vô tình nhưng rồi cuối cùng GS Hưng và người cháu bị mời về đồn công an gần đó. Ông kể lại: Hai chú cháu tôi bị giữ từ 9 giờ tối đến 1 giờ sáng hôm sau mới được cho về. Buồn và thất vọng tràn trề vì phải đón giao thừa đầu tiên sau 16 năm xa quê hương ở đồn công an. Nhưng khi đó tôi vẫn cảm thông vì nghĩ đất nước mới hòa bình còn có nhiều khó khăn. Niềm vui quá lớn vì sau nhiều năm xa cách nay được về đã lấn át hết những sự cố liên quan đến mình.

Hè năm 1977, GS Hưng được mời về giảng dạy lần hai và được tiếp rước rất ân cần, Nhà nước lo cho ăn ở rất đầy đủ, tiêu chuẩn. Nhưng cũng chính lúc này ông lại tỉnh táo quan sát kĩ hơn cuộc sống ở Việt Nam lúc này. Đầu tiên hàng hóa cái gì cũng thiếu thốn. Mang tiếng là Việt kiều về thăm quê, có chút tiền nhưng hỏi mua chút quà về cho gia đình đều không có. Sản phẩm hàng hóa làm ra chỉ chưng làm kiểng, ngắm cho vui qua cửa kính thôi. Hè năm 1979, GS Hưng lại về Việt Nam nối tiếp công tác cũ. Lần này ông nhận thấy sự thiếu thốn của đời sống người dân đã đi đến mức trầm trọng rõ rệt. Ông thấy đặt ra những vấn đề khoa học tính toán cao siêu vào lúc này không đâu vào đâu nữa. Khoa học đã trở thành một thứ xa xỉ, vô vị trong một khung cảnh xã hội chưa giải quyết được miếng ăn, manh áo… Việt Nam lúc này đang là ốc đảo nghèo đói trong lúc các nước Đông Á – Thái Bình Dương phát triển nhảy vọt trên con đường thịnh vượng giàu sang.

Những ngày ở Sài Gòn trước khi bay về Bỉ, lúc rảnh rỗi GS Hưng thường đi xích lô ngắm phố phường giải khuây. Một bữa, nhìn mặt người đạp xích lô sáng sủa, ăn nói lời lẽ rành mạch, tầm hiểu biết khá sâu và cao, GS Hưng lấy làm lạ. Chú ý nhìn mãi mới nhớ ra: Trời! Có phải anh là Cẩn không? Cẩn học trường Pants bên Paris về nước năm 67?. Vâng, phải Hưng không? Hưng đi Bỉ năm 59 phải không?, người này hỏi. Thì ra người đạp xích lô kiếm ăn qua ngày chính là anh bạn học xuất sắc mà GS Hưng từng thán phục ngày nào. GS Hưng kể đêm trước hôm ra đi, ông Nguyễn Văn Linh có tổ chức bữa tiệc nhỏ để tiễn anh em Việt kiều. Khi tiệc sắp tàn, còn lại một vài người, GS Hưng rút hết gan ruột tâm sự với ông Nguyễn Văn Linh – người sau này là Tổng bí thư sau Đại hội Đảng lần thứ 6: Em lấy vé máy bay mai đi rồi. Từ đây em không bao giờ về Việt Nam nữa nếu đất nước không có sự đổi thay. Giờ người dân đói khổ lắm rồi. Đến cái cột đèn cũng muốn ra đi. Ông Nguyễn Văn Linh nghe xong không nói gì nhưng gương mặt rất buồn.

Năm 1979, ông Ngô Văn Tân đang là bộ đội ở Bộ tư lệnh Quân khu 7 được Thành ủy TP.HCM xin về làm Trưởng phòng lương thực Q.3 (sau này ông Tân là Giám đốc Công ty Lương thực TP.HCM). Ông Tân kể dân số Q.3 lúc đó khoảng 200.000 dân. Mỗi tháng tiêu chuẩn mỗi người được phát 9 kg nhưng quận thường xuyên phát không đủ, lại hay trễ. Để tăng cường cứu đói, mỗi tháng Q.3 được cấp 15 xe khoai, mì, sắn độn vào cơm. Thế nhưng lượng khoai sắn tăng cường này không đủ làm cho dạ dày người dân ấm lại. Lúc này đất nước đã thống nhất được năm năm và mùa này lúa ở ĐBSCL cũng vừa gặt xong, chất đầy bồ. Thế mà TP quá đói mặc dù người dân sẵn sàng bỏ tiền mua gạo. Nguyên nhân chính là Sở Lương thực hay Công ty Lương thực dẫu có tiền cũng không thể mua được lúa của dân vì Ủy ban Vật giá qui định giá mua quá thấp, bà con không bán.

Bí thư Võ Văn Kiệt nói: Chúng ta là những người lãnh đạo TP mà để dân đói thì chúng ta có xứng là lãnh đạo không? Có còn là người C.S không? Hôm nay, tất cả các anh, chị ngồi đây phải nghĩ kế để làm cho dân thoát đói. Ai không có kế thì tôi không cho về. Tôi sẽ nhốt ở đây. Bà Ba Thi nói ngay: Kế không khó, không cần phải nghĩ vì chỉ cách đây ít cây số, ĐBSCL có rất nhiều lúa. Chỉ cần xuống đó mua về rồi xay xát bán cho dân. Anh Sáu hỏi: Vậy sao không mua được?. Bà Ba Thi nói: Ban Vật giá nhà nước chỉ đạo giá mua lúa 5,2 hào/ký. Giá này chỉ là giá treo, không thể mua được, vì giá ngoài chợ là 3 đồng/kg. Nếu mua với giá chợ là vi phạm. Bí thư nói: Nếu làm cho dân hết đói thì không phải là vi phạm. Bà Ba Thi tiếp: Tôi cũng không sợ vi phạm kiểu đó, nhưng muốn mua phải có tiền. Nhà nước chỉ cấp cho công ty tiền theo giá lúa 5,2 hào thôi. Bí thư nói:Thế nên tôi mới mời anh Lữ Minh Châu đến đây. Vậy kế của anh Châu là gì?. Ông Châu nói: Ngân hàng không thiếu tiền nhưng phải có lệnh của (ngành) tài chính thì mới xuất được. Anh Sáu lại quay sang ông Năm Ẩn (giám đốc Sở Tài chính) nói: Kế của anh Năm là sao?. Ông Năm Ẩn trả lời: Thưa bí thư, nếu có lệnh của anh thì tôi sẽ viết được lệnh cho ngân hàng. Bí thư kết luận ngay: Trong buổi sáng nay, UBND TP sẽ có văn bản yêu cầu Sở Tài chính đồng ý cho ngân hàng xuất tiền cho Công ty Lương thực. Công ty và Sở Thương mại phải tổ chức mua lúa gạo phân phối cho nhân dân. Việc hôm nay chúng ta đang làm có thể gọi là thành lập tổ buôn lậu gạo. Nhưng thực chất là cứu đói cho dân. Ngày mai chị Ba Thi xuống ĐBSCL mua lúa đúng giá chợ, về xay xát bán cho bà con không cần lấy lãi.

Hôm sau, bà Ba Thi chỉ huy một đoàn xe vận tải tràn xuống ĐBSCL. Tuy nhiên, thời đó mỗi kilômet đường là một trạm gác. Trạm gác chỉ cần một cây súng, cắm một lá cờ là có thể ách bất cứ phương tiện vận tải nào và kiểm tra, lập biên bản. Bà Ba Thi liền nhờ một chiếc xe quân đội, biển đỏ, có lính mặc quân phục xanh, đeo súng dẫn đầu đoàn xe. Xe quân đội vượt qua tất cả mọi trạm gác. Xuống tới chợ, công ty rút tiền mua lúa công khai với giá 3 đồng/kg. Bà con nông dân mừng quá tranh nhau cân lúa. Lãnh đạo địa phương các tỉnh nghe tin đây là kế hoạch của anh Sáu cũng hết sức tạo điều kiện bằng cách “làm ngơ”. Lúa về TP được xay xát rồi chia cho các cửa hàng lương thực, các chợ bán cho bà con đúng giá vốn: 5 đồng/kg gạo. Trong khi người TP phải bỏ 7-8 đồng/kg mua của tư thương lén lút như người ăn trộm mà cũng không đủ ăn thì lúc này vui mừng khôn tả.

Theo cuốn sách Ấn tượng Võ Văn Kiệt do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long và NXB Trẻ xuất bản, chuyện mua lúa giá thị trường tưởng đơn giản nhưng là việc tày đình. Giám đốc Công ty Lương thực TP dám đánh cả đoàn xe xuống ĐBSCL mua lúa giá 2,5 đồng/kg (tương đương 5 đồng/kg gạo). Gạo chở về Sài Gòn bán theo giá kinh doanh (giá mua thực tế + chi phí xay xát + chi phí vận tải + thặng số thương nghiệp). Trong khi giá lúa do Ủy ban Vật giá quy định, Bộ Chính trị duyệt và Thủ tướng ký là 0,52 đồng/kg. Bà Ba Thi mua cao hơn năm lần quả là chuyện động trời. Nhưng lý do của bà khó ai có thể kết tội: phải lo cho cái bao tử của 3,5 triệu người dân TP. Đúng là bà dám vượt “đèn đỏ”, nhưng là ngồi trên xe cứu thương và cứu hỏa vượt công khai, chính đáng. Cái mốc “phá giá” này đã đẩy giá lúa khắp đồng bằng Nam bộ lên 2,5 đồng/kg. Giá chỉ đạo 0,52 đồng/kg bị vô hiệu hóa. Không bao lâu sau, mức phá giá đó lan ra cả nước. Không lùi được nữa. Sự đột phá của Công ty Lương thực TP không chỉ cứu cái bao tử người dân TP mà còn cứu nông dân cả nước khỏi cơ chế giá nghĩa vụ quá ư lỗi thời. Sự việc được báo cáo về trung ương. Trung ương triệu tập bà Ba Thi ra Hà Nội. Làm việc với bà là người lãnh đạo cao nhất của Đảng: Tổng bí thư Lê Duẩn. Tổng bí thư ngồi yên lặng nghe bà Ba Thi báo cáo đầy đủ tình hình từ đầu đến cuối. Sau cùng ông nói: Cô Chín Ráo làm như vậy là đúng!.

Đang tình hình nhiều nồi cơm ở TP.HCM thiếu cái để nhóm lửa, từng xe tải gạo ở miền Tây theo tổ thu mua của bà Ba Thi (Nguyễn Thị Ráo) ồ ạt đổ về. Có lãnh đạo chưa tin, trực tiếp xuống kho vốc gạo xem tận mắt.Nhiều cựu chiến binh đang bức xúc con cháu bị thiếu ăn gọi điện cho bà Ba Thi: Ba Thi, bà đi buôn lậu hả? Coi chừng tù à nghen. Nhưng làm gì cũng được, miễn sao cho dân no bụng là quý rồi. “Tổ buôn lậu” của anh Sáu không chỉ cứu đói cho 3,5 triệu dân TP.HCM mà còn cứu cho hơn 10 triệu bà con nông dân lúc đó thoát khỏi cảnh phải bán lúa cho Nhà nước với giá lỗ vốn: 0,52 đồng/kg.

Lần lại những tấm ảnh đã ố màu thời gian, bà Nguyễn Thị Kim Anh, cán bộ thu mua lúa gạo từ thời kỳ đầu năm 1978, nhớ mình đang học Trường Nguyễn Ái Quốc thì được gọi về chạy gạo với bà Ba Thi. Bà Kim Anh là dân kháng chiến trong bưng ra. Bà Bà Thi thích những người làm nhiều hơn là hô hào rỗng tuếch. Bà nói: Nhìn nhóm người lôi thôi lếch thếch, quần xắn ống thấp ống cao quá đầu gối, khăn rằn, nón lá lùm xùm... người ta tưởng là dân buôn lậu. Hồi đầu tổ thu mua chỉ vỏn vẹn có tám người. Bà Ba Thi làm tổ trưởng, một tài xế, hai kế toán và thủ quỹ, còn lại đều là nhân viên thu mua. Tổ thu mua lúa gạo đi Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, chỉ khoảng ba ngày sau là gạo về đến thành phố. Có đi tận nơi bà mới thấy quá nhiều cảnh bất cập, tai hại do cơ chế ngăn sông cấm chợ và Nhà nước tự định giá thu mua rẻ mạt, không tuân theo quy luật thị trường. Trong khi nhiều tỉnh thành rơi vào cảnh đói khát đến khoai mì độn bo bo cũng thiếu ăn thì nhiều nơi lại dư lúa gạo. Chỗ dư lúa, thừa gạo, lúa để ẩm mục làm phân, gạo đem cho gà heo ăn không hết, mà không cho nông dân đem lúa gạo dư thừa đó đến những nơi đang thiếu!

Sau một thời gian đầu mua gạo từ nông dân bằng tiền mặt, bà Ba Thi chuyển hướng sang hàng đổi hàng. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ hoàn cảnh nông dân rất khan hiếm hàng hóa thiết yếu. Nhiều khi cầm tiền trong tay họ cũng không thể tìm mua được những thứ hàng mình cần như xăng, dầu hỏa, vải vóc, thuốc tây, bột ngọt... Là một trong những thành viên của tổ thu mua lúa gạo thời kỳ đầu, ông Trần Văn Quang kể thật ra phương thức hàng đổi hàng cũng gặp khó. Hồi ấy với các mặt hàng thiết thực trong đời sống thì chỉ có nơi thiếu ít, nơi hụt nhiều chứ chẳng có nơi nào dư dả. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt và những lãnh đạo thành phố phải họp hành ngày đêm với các đơn vị sản xuất, tính toán, cân đối trước sau thật kỹ, bà Ba Thi mới có thể đem được hàng hóa về nông thôn đổi gạo.

Theo ông Ngô Văn Tân, đầu tiên tổ thu mua lấy Cần Thơ làm thí điểm. Sau khi được sự đồng tình của lãnh đạo tỉnh, các nhân viên tổ thu mua cùng với các đoàn hội đến từng hộ dân vận động bán lúa theo giá thỏa thuận. Người dân ban đầu e dè nhưng rồi phấn khởi chịu bán vì thấy giá cao gấp mấy lần giá bán nghĩa vụ cho Nhà nước. Việc thu mua ngày càng thuận lợi và được rộng ra các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau. Ông kể: Thời gian đầu còn mới, mỗi tháng tổ thu mua chỉ mua được 400-500 tấn nhưng về sau mỗi tháng thu mua được 10.000-20.000 tấn. Từng đoàn xe nối đuôi nhau từ miền Tây chở lúa gạo lên phân phối cho dân Sài Gòn. Tổ thu mua hoạt động liên tục từ năm 1979 đến năm 1982, đến khi đời sống người dân Sài Gòn ổn định thì tạm dừng.

Ngày 3-10-1985, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Ba Thi. Cán bộ, nhân viên Công ty và bà con thành phố đều phấn khởi vì vị nữ giám đốc, mà họ gọi vui là "người buôn gạo" đã được vinh danh. Đây là lần thứ hai bà nhận danh hiệu đó. Lần trước là trong chiến đấu giải phóng miền Nam và lần này là xây dựng đất nước. Đồng thời, chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước cũng được thuyên chuyển sang công tác khác. Ngày bà Ba Thi nhận danh hiệu Anh hùng Lao động đã có hàng trăm bức thư, điện, bài báo mừng cho Công ty và người nữ giám đốc Anh hùng. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã có bài viết đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3-10-1985 ca ngợi Giám đốc Ba Thi. Trong đó có đoạn: Hạt gạo chị Ba Thi thật nhiều chất chứa. Rất khó phân tích tỷ lệ các phần cấu thành trong danh hiệu anh hùng của chị Ba, bao nhiêu phần trăm thuộc suy tính đến bạc tóc, bao nhiêu phần trăm thuộc những đêm thức trắng vì khắc khoải sự đói no của thành phố, bao nhiêu phần trăm thuộc kinh nghiệm của một cán bộ từng lăn lộn với quần chúng tại một thành phố lớn, kinh nghiệm dẫn đến cách tổ chức làm ăn thoát hẳn lối mòn bao cấp. Thôi thì ta đành bằng lòng với nhận định: Danh hiệu anh hùng của chị tổng hợp tất cả những cái mà chúng ta gọi là phẩm chất của chị.

Link:


Hình 1: Bà Ba Thi.
Hình 2: Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (thứ 2 từ phải qua), bà Ba Thi (đứng giữa), ông Lữ Minh Châu (thứ 2 từ trái qua) là những người đưa ra và thực hiện chủ trương đưa gạo từ miền Tây lên cứu đói cho người dân Sài Gòn.
Hình 3: Giám đốc Ba Thi (đeo kính, đứng giữa hàng đầu) và các cán bộ phụ trách các cửa hàng lương thực của TP Hồ Chí Minh trong buổi lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động của bà vào tháng 10-1985.

Nguồn: Sergei Alpha
 

Attachments

  • 1.jpg
    1.jpg
    10.7 KB · Lượt xem: 85
  • 2.jpg
    2.jpg
    21.3 KB · Lượt xem: 86
  • 3.jpg
    3.jpg
    18.5 KB · Lượt xem: 85
Công lao vĩ đại nhất của Đảng là cởi trói cho dân tộc thoát khỏi sợi thòng lọng do chính Đảng ta treo lên. Xong rồi tuyên giáo tự hào vì những lãnh đạo dám nghĩ dám làm.
Với người có lý luận thì đó là 2 việc khác nhau: một cái là cải cách, một cái là đổi mới.
*) Sau khi đổi mới thì trở về trước cải cách :)):)):))
 
Có anh nào thắc mắc tại sao miền Nam vốn là nơi chưa từng thiếu đói mà chỉ 1 thời gian ngắn triển khai XHCN (theo mô hình của Liên Xô) lại khiến bà con tới Bobo không có mà ăn không ạ?
 
nhớ ơn bác Kiệt dân mình moi ấm no được tí chứ để các bác ngoài trung ương làm kinh tế thì giờ này mấy em còn giơ lol ra đi mua gạo...
 
Có anh nào thắc mắc tại sao miền Nam vốn là nơi chưa từng thiếu đói mà chỉ 1 thời gian ngắn triển khai XHCN (theo mô hình của Liên Xô) lại khiến bà con tới Bobo không có mà ăn không ạ?
Chiến tranh xong.còn gạo cặc mà ăn.k lẽ địt mẹ mày thay bo bo
 
nhớ ơn bác Kiệt dân mình moi ấm no được tí chứ để các bác ngoài trung ương làm kinh tế thì giờ này mấy em còn giơ lol ra đi mua gạo...
Tao thiach cụ duẩn.là người có tham.vọng và đéo lợi ích riêng
 
Có anh nào thắc mắc tại sao miền Nam vốn là nơi chưa từng thiếu đói mà chỉ 1 thời gian ngắn triển khai XHCN (theo mô hình của Liên Xô) lại khiến bà con tới Bobo không có mà ăn không ạ?

Phi thị trường , ngăn sông cấm chợ thì chả đói
 
Một buổi sáng sớm, bà Nguyễn Thị Ráo, tức bà Ba Thi - giám đốc Công ty Lương thực TP.HCM - nhận được điện thoại của anh Sáu Dân, tức ông Võ Văn Kiệt. Anh Sáu mời đến nhà ăn sáng. Bà Ba Thi đến nhà bí thư thì thấy ba vị khách nữa cũng là quan chức đầu ngành của TP. Đó là ông Lữ Minh Châu - giám đốc Ngân hàng Ngoại thương, ông Năm Ẩn - giám đốc Sở Tài chính và một hai vị khách khác cũng đang chờ... ăn sáng. Đó là một buổi sáng của năm 1979. Khi đó 3,5 triệu dân của một TP từng là “hòn ngọc Viễn Đông” đang rơi vào nạn thiếu đói đầu tiên và gay gắt chưa từng có.

Tết Bính Thìn 1976, tức là chỉ sau hơn 6 tháng kết thúc chiến tranh ở miền Nam, hơn 80 trí thức Việt kiều khắp năm châu được Chính phủ mời về nước ăn tết. Nhận được thư mời, ông Nguyễn Đăng Hưng, học bổng sang Bỉ du học ngành ngành vật lý hàng không và không gian ở Đại học Liege mừng khôn xiết bởi đây là cơ hội để thăm dò tình hình trước khi về hẳn với quê hương với mong muốn phục vụ lâu dài. GS Hưng nhớ lại: Ngay khi đặt chân xuống Hà Nội, nhóm Việt kiều đề nghị gặp lãnh đạo chính quyền và cơ quan quản lý khoa học kỹ thuật để nắm tình hình, chính sách, đề đạt nguyện vọng để từ đó có hướng giúp đỡ đất nước. Chúng tôi không phải về để đi chơi.

Nhưng rồi những yêu cầu đó không được phía cơ quan quản lý khoa học kỹ thuật đáp ứng. Trong cuộc gặp mặt này, đại diện quản lý khoa học không hỏi nhiều về môi trường phát triển khoa học, về tâm tư của anh em trí thức, mà chỉ yêu cầu mọi người cung cấp nhiều catalog các mặt hàng với mục đích để mua chứ không phải để nghiên cứu khoa học hay kỹ thuật. Đáng buồn thay, số sách khoa học mà Việt kiều đưa về nhiều năm sau, nằm nguyên ở các viện mà không được chuyển tới tay nhà khoa học.

Sau vài ngày ở Hà Nội, ngày 29 Tết, GS Hưng trở về Sài Gòn. Chiều 30 Tết, GS Hưng và người cháu thăm thú đường hoa Nguyễn Huệ. Thấy cảnh vật trữ tình nên thơ, GS Hưng lấy máy ảnh bấm một vài kiểu. Ai dè một trong số bức ảnh dính phải người công an đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường hoa. Từ đây rắc rối ập đến với chú cháu GS Hưng. Dù cố gắng lí giải đó chỉ là vô tình nhưng rồi cuối cùng GS Hưng và người cháu bị mời về đồn công an gần đó. Ông kể lại: Hai chú cháu tôi bị giữ từ 9 giờ tối đến 1 giờ sáng hôm sau mới được cho về. Buồn và thất vọng tràn trề vì phải đón giao thừa đầu tiên sau 16 năm xa quê hương ở đồn công an. Nhưng khi đó tôi vẫn cảm thông vì nghĩ đất nước mới hòa bình còn có nhiều khó khăn. Niềm vui quá lớn vì sau nhiều năm xa cách nay được về đã lấn át hết những sự cố liên quan đến mình.

Hè năm 1977, GS Hưng được mời về giảng dạy lần hai và được tiếp rước rất ân cần, Nhà nước lo cho ăn ở rất đầy đủ, tiêu chuẩn. Nhưng cũng chính lúc này ông lại tỉnh táo quan sát kĩ hơn cuộc sống ở Việt Nam lúc này. Đầu tiên hàng hóa cái gì cũng thiếu thốn. Mang tiếng là Việt kiều về thăm quê, có chút tiền nhưng hỏi mua chút quà về cho gia đình đều không có. Sản phẩm hàng hóa làm ra chỉ chưng làm kiểng, ngắm cho vui qua cửa kính thôi. Hè năm 1979, GS Hưng lại về Việt Nam nối tiếp công tác cũ. Lần này ông nhận thấy sự thiếu thốn của đời sống người dân đã đi đến mức trầm trọng rõ rệt. Ông thấy đặt ra những vấn đề khoa học tính toán cao siêu vào lúc này không đâu vào đâu nữa. Khoa học đã trở thành một thứ xa xỉ, vô vị trong một khung cảnh xã hội chưa giải quyết được miếng ăn, manh áo… Việt Nam lúc này đang là ốc đảo nghèo đói trong lúc các nước Đông Á – Thái Bình Dương phát triển nhảy vọt trên con đường thịnh vượng giàu sang.

Những ngày ở Sài Gòn trước khi bay về Bỉ, lúc rảnh rỗi GS Hưng thường đi xích lô ngắm phố phường giải khuây. Một bữa, nhìn mặt người đạp xích lô sáng sủa, ăn nói lời lẽ rành mạch, tầm hiểu biết khá sâu và cao, GS Hưng lấy làm lạ. Chú ý nhìn mãi mới nhớ ra: Trời! Có phải anh là Cẩn không? Cẩn học trường Pants bên Paris về nước năm 67?. Vâng, phải Hưng không? Hưng đi Bỉ năm 59 phải không?, người này hỏi. Thì ra người đạp xích lô kiếm ăn qua ngày chính là anh bạn học xuất sắc mà GS Hưng từng thán phục ngày nào. GS Hưng kể đêm trước hôm ra đi, ông Nguyễn Văn Linh có tổ chức bữa tiệc nhỏ để tiễn anh em Việt kiều. Khi tiệc sắp tàn, còn lại một vài người, GS Hưng rút hết gan ruột tâm sự với ông Nguyễn Văn Linh – người sau này là Tổng bí thư sau Đại hội Đảng lần thứ 6: Em lấy vé máy bay mai đi rồi. Từ đây em không bao giờ về Việt Nam nữa nếu đất nước không có sự đổi thay. Giờ người dân đói khổ lắm rồi. Đến cái cột đèn cũng muốn ra đi. Ông Nguyễn Văn Linh nghe xong không nói gì nhưng gương mặt rất buồn.

Năm 1979, ông Ngô Văn Tân đang là bộ đội ở Bộ tư lệnh Quân khu 7 được Thành ủy TP.HCM xin về làm Trưởng phòng lương thực Q.3 (sau này ông Tân là Giám đốc Công ty Lương thực TP.HCM). Ông Tân kể dân số Q.3 lúc đó khoảng 200.000 dân. Mỗi tháng tiêu chuẩn mỗi người được phát 9 kg nhưng quận thường xuyên phát không đủ, lại hay trễ. Để tăng cường cứu đói, mỗi tháng Q.3 được cấp 15 xe khoai, mì, sắn độn vào cơm. Thế nhưng lượng khoai sắn tăng cường này không đủ làm cho dạ dày người dân ấm lại. Lúc này đất nước đã thống nhất được năm năm và mùa này lúa ở ĐBSCL cũng vừa gặt xong, chất đầy bồ. Thế mà TP quá đói mặc dù người dân sẵn sàng bỏ tiền mua gạo. Nguyên nhân chính là Sở Lương thực hay Công ty Lương thực dẫu có tiền cũng không thể mua được lúa của dân vì Ủy ban Vật giá qui định giá mua quá thấp, bà con không bán.

Bí thư Võ Văn Kiệt nói: Chúng ta là những người lãnh đạo TP mà để dân đói thì chúng ta có xứng là lãnh đạo không? Có còn là người C.S không? Hôm nay, tất cả các anh, chị ngồi đây phải nghĩ kế để làm cho dân thoát đói. Ai không có kế thì tôi không cho về. Tôi sẽ nhốt ở đây. Bà Ba Thi nói ngay: Kế không khó, không cần phải nghĩ vì chỉ cách đây ít cây số, ĐBSCL có rất nhiều lúa. Chỉ cần xuống đó mua về rồi xay xát bán cho dân. Anh Sáu hỏi: Vậy sao không mua được?. Bà Ba Thi nói: Ban Vật giá nhà nước chỉ đạo giá mua lúa 5,2 hào/ký. Giá này chỉ là giá treo, không thể mua được, vì giá ngoài chợ là 3 đồng/kg. Nếu mua với giá chợ là vi phạm. Bí thư nói: Nếu làm cho dân hết đói thì không phải là vi phạm. Bà Ba Thi tiếp: Tôi cũng không sợ vi phạm kiểu đó, nhưng muốn mua phải có tiền. Nhà nước chỉ cấp cho công ty tiền theo giá lúa 5,2 hào thôi. Bí thư nói:Thế nên tôi mới mời anh Lữ Minh Châu đến đây. Vậy kế của anh Châu là gì?. Ông Châu nói: Ngân hàng không thiếu tiền nhưng phải có lệnh của (ngành) tài chính thì mới xuất được. Anh Sáu lại quay sang ông Năm Ẩn (giám đốc Sở Tài chính) nói: Kế của anh Năm là sao?. Ông Năm Ẩn trả lời: Thưa bí thư, nếu có lệnh của anh thì tôi sẽ viết được lệnh cho ngân hàng. Bí thư kết luận ngay: Trong buổi sáng nay, UBND TP sẽ có văn bản yêu cầu Sở Tài chính đồng ý cho ngân hàng xuất tiền cho Công ty Lương thực. Công ty và Sở Thương mại phải tổ chức mua lúa gạo phân phối cho nhân dân. Việc hôm nay chúng ta đang làm có thể gọi là thành lập tổ buôn lậu gạo. Nhưng thực chất là cứu đói cho dân. Ngày mai chị Ba Thi xuống ĐBSCL mua lúa đúng giá chợ, về xay xát bán cho bà con không cần lấy lãi.

Hôm sau, bà Ba Thi chỉ huy một đoàn xe vận tải tràn xuống ĐBSCL. Tuy nhiên, thời đó mỗi kilômet đường là một trạm gác. Trạm gác chỉ cần một cây súng, cắm một lá cờ là có thể ách bất cứ phương tiện vận tải nào và kiểm tra, lập biên bản. Bà Ba Thi liền nhờ một chiếc xe quân đội, biển đỏ, có lính mặc quân phục xanh, đeo súng dẫn đầu đoàn xe. Xe quân đội vượt qua tất cả mọi trạm gác. Xuống tới chợ, công ty rút tiền mua lúa công khai với giá 3 đồng/kg. Bà con nông dân mừng quá tranh nhau cân lúa. Lãnh đạo địa phương các tỉnh nghe tin đây là kế hoạch của anh Sáu cũng hết sức tạo điều kiện bằng cách “làm ngơ”. Lúa về TP được xay xát rồi chia cho các cửa hàng lương thực, các chợ bán cho bà con đúng giá vốn: 5 đồng/kg gạo. Trong khi người TP phải bỏ 7-8 đồng/kg mua của tư thương lén lút như người ăn trộm mà cũng không đủ ăn thì lúc này vui mừng khôn tả.

Theo cuốn sách Ấn tượng Võ Văn Kiệt do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long và NXB Trẻ xuất bản, chuyện mua lúa giá thị trường tưởng đơn giản nhưng là việc tày đình. Giám đốc Công ty Lương thực TP dám đánh cả đoàn xe xuống ĐBSCL mua lúa giá 2,5 đồng/kg (tương đương 5 đồng/kg gạo). Gạo chở về Sài Gòn bán theo giá kinh doanh (giá mua thực tế + chi phí xay xát + chi phí vận tải + thặng số thương nghiệp). Trong khi giá lúa do Ủy ban Vật giá quy định, Bộ Chính trị duyệt và Thủ tướng ký là 0,52 đồng/kg. Bà Ba Thi mua cao hơn năm lần quả là chuyện động trời. Nhưng lý do của bà khó ai có thể kết tội: phải lo cho cái bao tử của 3,5 triệu người dân TP. Đúng là bà dám vượt “đèn đỏ”, nhưng là ngồi trên xe cứu thương và cứu hỏa vượt công khai, chính đáng. Cái mốc “phá giá” này đã đẩy giá lúa khắp đồng bằng Nam bộ lên 2,5 đồng/kg. Giá chỉ đạo 0,52 đồng/kg bị vô hiệu hóa. Không bao lâu sau, mức phá giá đó lan ra cả nước. Không lùi được nữa. Sự đột phá của Công ty Lương thực TP không chỉ cứu cái bao tử người dân TP mà còn cứu nông dân cả nước khỏi cơ chế giá nghĩa vụ quá ư lỗi thời. Sự việc được báo cáo về trung ương. Trung ương triệu tập bà Ba Thi ra Hà Nội. Làm việc với bà là người lãnh đạo cao nhất của Đảng: Tổng bí thư Lê Duẩn. Tổng bí thư ngồi yên lặng nghe bà Ba Thi báo cáo đầy đủ tình hình từ đầu đến cuối. Sau cùng ông nói: Cô Chín Ráo làm như vậy là đúng!.

Đang tình hình nhiều nồi cơm ở TP.HCM thiếu cái để nhóm lửa, từng xe tải gạo ở miền Tây theo tổ thu mua của bà Ba Thi (Nguyễn Thị Ráo) ồ ạt đổ về. Có lãnh đạo chưa tin, trực tiếp xuống kho vốc gạo xem tận mắt.Nhiều cựu chiến binh đang bức xúc con cháu bị thiếu ăn gọi điện cho bà Ba Thi: Ba Thi, bà đi buôn lậu hả? Coi chừng tù à nghen. Nhưng làm gì cũng được, miễn sao cho dân no bụng là quý rồi. “Tổ buôn lậu” của anh Sáu không chỉ cứu đói cho 3,5 triệu dân TP.HCM mà còn cứu cho hơn 10 triệu bà con nông dân lúc đó thoát khỏi cảnh phải bán lúa cho Nhà nước với giá lỗ vốn: 0,52 đồng/kg.

Lần lại những tấm ảnh đã ố màu thời gian, bà Nguyễn Thị Kim Anh, cán bộ thu mua lúa gạo từ thời kỳ đầu năm 1978, nhớ mình đang học Trường Nguyễn Ái Quốc thì được gọi về chạy gạo với bà Ba Thi. Bà Kim Anh là dân kháng chiến trong bưng ra. Bà Bà Thi thích những người làm nhiều hơn là hô hào rỗng tuếch. Bà nói: Nhìn nhóm người lôi thôi lếch thếch, quần xắn ống thấp ống cao quá đầu gối, khăn rằn, nón lá lùm xùm... người ta tưởng là dân buôn lậu. Hồi đầu tổ thu mua chỉ vỏn vẹn có tám người. Bà Ba Thi làm tổ trưởng, một tài xế, hai kế toán và thủ quỹ, còn lại đều là nhân viên thu mua. Tổ thu mua lúa gạo đi Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, chỉ khoảng ba ngày sau là gạo về đến thành phố. Có đi tận nơi bà mới thấy quá nhiều cảnh bất cập, tai hại do cơ chế ngăn sông cấm chợ và Nhà nước tự định giá thu mua rẻ mạt, không tuân theo quy luật thị trường. Trong khi nhiều tỉnh thành rơi vào cảnh đói khát đến khoai mì độn bo bo cũng thiếu ăn thì nhiều nơi lại dư lúa gạo. Chỗ dư lúa, thừa gạo, lúa để ẩm mục làm phân, gạo đem cho gà heo ăn không hết, mà không cho nông dân đem lúa gạo dư thừa đó đến những nơi đang thiếu!

Sau một thời gian đầu mua gạo từ nông dân bằng tiền mặt, bà Ba Thi chuyển hướng sang hàng đổi hàng. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ hoàn cảnh nông dân rất khan hiếm hàng hóa thiết yếu. Nhiều khi cầm tiền trong tay họ cũng không thể tìm mua được những thứ hàng mình cần như xăng, dầu hỏa, vải vóc, thuốc tây, bột ngọt... Là một trong những thành viên của tổ thu mua lúa gạo thời kỳ đầu, ông Trần Văn Quang kể thật ra phương thức hàng đổi hàng cũng gặp khó. Hồi ấy với các mặt hàng thiết thực trong đời sống thì chỉ có nơi thiếu ít, nơi hụt nhiều chứ chẳng có nơi nào dư dả. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt và những lãnh đạo thành phố phải họp hành ngày đêm với các đơn vị sản xuất, tính toán, cân đối trước sau thật kỹ, bà Ba Thi mới có thể đem được hàng hóa về nông thôn đổi gạo.

Theo ông Ngô Văn Tân, đầu tiên tổ thu mua lấy Cần Thơ làm thí điểm. Sau khi được sự đồng tình của lãnh đạo tỉnh, các nhân viên tổ thu mua cùng với các đoàn hội đến từng hộ dân vận động bán lúa theo giá thỏa thuận. Người dân ban đầu e dè nhưng rồi phấn khởi chịu bán vì thấy giá cao gấp mấy lần giá bán nghĩa vụ cho Nhà nước. Việc thu mua ngày càng thuận lợi và được rộng ra các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau. Ông kể: Thời gian đầu còn mới, mỗi tháng tổ thu mua chỉ mua được 400-500 tấn nhưng về sau mỗi tháng thu mua được 10.000-20.000 tấn. Từng đoàn xe nối đuôi nhau từ miền Tây chở lúa gạo lên phân phối cho dân Sài Gòn. Tổ thu mua hoạt động liên tục từ năm 1979 đến năm 1982, đến khi đời sống người dân Sài Gòn ổn định thì tạm dừng.

Ngày 3-10-1985, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Ba Thi. Cán bộ, nhân viên Công ty và bà con thành phố đều phấn khởi vì vị nữ giám đốc, mà họ gọi vui là "người buôn gạo" đã được vinh danh. Đây là lần thứ hai bà nhận danh hiệu đó. Lần trước là trong chiến đấu giải phóng miền Nam và lần này là xây dựng đất nước. Đồng thời, chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước cũng được thuyên chuyển sang công tác khác. Ngày bà Ba Thi nhận danh hiệu Anh hùng Lao động đã có hàng trăm bức thư, điện, bài báo mừng cho Công ty và người nữ giám đốc Anh hùng. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã có bài viết đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3-10-1985 ca ngợi Giám đốc Ba Thi. Trong đó có đoạn: Hạt gạo chị Ba Thi thật nhiều chất chứa. Rất khó phân tích tỷ lệ các phần cấu thành trong danh hiệu anh hùng của chị Ba, bao nhiêu phần trăm thuộc suy tính đến bạc tóc, bao nhiêu phần trăm thuộc những đêm thức trắng vì khắc khoải sự đói no của thành phố, bao nhiêu phần trăm thuộc kinh nghiệm của một cán bộ từng lăn lộn với quần chúng tại một thành phố lớn, kinh nghiệm dẫn đến cách tổ chức làm ăn thoát hẳn lối mòn bao cấp. Thôi thì ta đành bằng lòng với nhận định: Danh hiệu anh hùng của chị tổng hợp tất cả những cái mà chúng ta gọi là phẩm chất của chị.

Link:


Hình 1: Bà Ba Thi.
Hình 2: Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (thứ 2 từ phải qua),
cũng may trong cái giai đoạn này còn có ben của ông Kiệt ko quá dính lấy cái giáo điều
Nhờ có mấy vụ xé rào kiểu này ở sg vs 1 vài nơi khác mà cái lô cốt bảo thủ ngoài Ba Đình thời đó mới bớt mơ mộng về thế giới đại đồng, xhcn...
Nên trong các lãnh đạo cơm sườn từ trc đến nay, t vẫn phần nào đó nể trọng ông Kiệt vì nhờ có ông thì mới có Đổi mới cho dặt dẹo đến h này
 
CS làm nhiều cái rất hài hước, tự do mua bán có từ hàng nghìn năm, tự nhiên đi ngăn sông, cấm chợ, kẻ thừa ko được bán, kẻ thiếu không được mua. Xưa đánh tư sản, thủ tiêu giai cấp tư sản, giờ thì mở tiệc mời tư bản ngoại bang vào đầu tư.
 
CS làm nhiều cái rất hài hước, tự do mua bán có từ hàng nghìn năm, tự nhiên đi ngăn sông, cấm chợ, kẻ thừa ko được bán, kẻ thiếu không được mua. Xưa đánh tư sản, thủ tiêu giai cấp tư sản, giờ thì mở tiệc mời tư bản ngoại bang vào đầu tư.
Nguyên do gói gọn vào 3 chữ - ý thức hệ. T nghe kể thời đó sau mấy pha xé rào đạt ở sg...Vd như Dệt thành công đang cb phá sản vì bao cấp thì sau phá rào đã đóng cho ngân sách mấy chục tr dollar tiền lời ...Ng ta ai cũng thấy bao cấp là phản khoa học nhưng khi những ng CS tương đối là "cấp tiến" thời đó đề nghị áp dụng phá rào đại trà thì ng ta kêu thế là chệnh hướng xhcn, ko còn là xhcn nữa
 
Dm gạo đéo cho buôn bán đấy thằng lồn, từ tỉnh này sang tỉnh khác đéo đc mang gạo. Nếu m mang thì m sẽ bị tội tư sản thương mại thao túng thị trường.
Cái này m nói đúng, chỗ t có sản xuất đường, toàn đem lậu vào TPHCM bán thôi. Nếu ko cẩn thẩn là mấy thằng chó săn tại địa phương tịch thu liền
 
Vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long kêu không có gạo . Mày có biết đọc bài báo không
Dm mày
nhờ ơn + sản mà Nam Bộ từ chỗ đồng lúa cò bay thẳng cánh thành chỗ thiếu ăn kinh niên, phải nhập khẩu bo bo với độn khoai sắn. Thời vua chúa phong kiến cũng đéo làm được điều đó.
 
Ra xin xỏ mấy thằng Bắc cộng hết cả nước bọt nó mới chấp nhận những đề xuất của ổng đấy :vozvn (20):
 
Nhưng tầm nhìn của cụ thì phạm vi từ nhà trên xuống nhà bếp; cộng thêm con mắt nhìn người với kiến thức về quản lý kinh tế của cụ cũng chuẩn vcl :burn_joss_stick:
Cụ bám liên xô bài tàu mạnh mẽ.nhưng đéo ngờ liên xộ sụp đổ.vậy là mộng vỡ
 
Bqif học rút ra ở đây là làm đầy tớ dù thời đại nào cubgx đéo bao giờ chết đói.
 
Top