Don Jong Un
Trai thôn
Nó giúp thế giới kết nối, tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế, khoa học, công nghệ, nhưng đồng thời cũng đặt phương Tây vào thế tự ràng buộc và phụ thuộc vào những đối tác mà họ từng nghĩ sẽ “tự thay đổi”.
Mỹ và Phương Tây đã quá tin rằng kinh tế thị trường sẽ kéo theo tự do chính trị, trong khi thực tế ở Trung Quốc và Nga lại cho thấy ngược lại: họ tận dụng kinh tế để củng cố quyền lực chính trị.
Nghiên cứu lịch sử để người ta biết những gì đã xảy ra trong quá khứ và từ đó rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai.
Từ gần một chục năm nay, tôi có linh cảm quá trình toàn cầu hóa ít nhiều phương tây đã phạm sai lầm chiến lược để dẫn đến tình trạng ngày nay. Trước hết xin ôn lại sơ lược lịch sử dẫn đến quá trình toàn cầu hóa sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước.
Chủ nghĩa phát xít ra đời cách đây một thế kỷ, đứng đầu là Đức quốc xã. Đó là một chủ nghĩa cực kỳ nguy hiểm cho loài người vì nó tiêu diệt mọi hình thức dân chủ, tôn chủ nghĩa dân tộc và dùng vũ lực chiến tranh để mong cai trị cả thế giới. Phần lớn các nước trên thế giới đều thống nhất là phải xóa sổ tư tưởng này để loại trừ hiểm họa cho nhân loại. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bằng việc phát xít Đức tấn công Ba-Lan tháng 9 năm 1939 đã làm bùng nổ cuộc đại chiến khốc liệt trên lục địa châu Âu.
Dù khác nhau về quan điểm và mục đích xây dựng xã hội, các nước vẫn tạm thời bắt tay nhau, tạo thành đồng minh tiêu diệt phát xít. Liên minh này gồm Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ hình thành khi Hitler điên cuồng muốn thôn tính cả châu Âu.
Thế nhưng, sau khi chế độ phát xít bị tiêu diệt, sự rạn nứt trong quan hệ Mỹ- Xô ngày càng rõ rệt. Mặc dù thế, tổng thống Mỹ hồi đó là Roosevelt vẫn muốn thực hiện một chính sách ONE-WORLD-POLITIC, cụ thể là trong tương lai những tranh chấp giữa các quốc gia phải được giải quyết bằng con đường đàm phán, từ bỏ hoàn toàn vũ lực, trong đó Liên hiệp quốc đóng vai trò trung tâm.
Nhưng Liên Xô muốn bành trướng ảnh hưởng của mình nên đã lập lên hàng loạt các nước vệ tinh cùng thể chế, gọi là phe XHCN. Ngoài ra, Liên Xô còn nhắm mục tiêu lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ và Hy lạp vào phe mình. Trước tình hình ấy, Mỹ phải thay đổi thái độ và „Bức màn sắt“ chia dọc châu Âu (lời của thủ tướng Anh Churchill) xuất hiện. Phía đông bức màn sắt này gồm các nước: Liên-Xô, Ba-Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Rumani, Bulgari. Còn sát phía tây bức màn sắt là Phần-Lan, Tây Đức, Áo, Hy-Lạp. Nam-Tư cũng nằm bên phía tây đường biên này nhưng là nước không theo phe nào.
Có bức màn sắt, người ta không thể biết những gì xảy ra ở bên kia, hai bên luôn đề phòng nhau, sẵn sàng đặt ngón tay vào cò súng. Đó là dấu chấm hết cho chính sách ONE-WORLD-POLITIC để chuyển sang chính sách CONTAINMENT- POLITIC nhằm cản sự bành trướng của Liên-Xô. Từ đó lý thuyết hai hệ thống đối đầu ra đời (Chiến tranh lạnh giữa Khối XHCN do Liên Xô đứng đầu và TBCN do Mỹ đứng đầu)
Mỹ muốn giúp đồng minh ở Tây Âu để họ đủ mạnh có thể đương đầu với Liên-Xô nên đã đổ tiền vào các nước bên sườn tây của “Bức màn sắt” mong vực các nền kinh tế của họ đã kiệt quệ vì chiến tranh (bắt đầu từ năm 1947). Tiền và hàng từ Mỹ đổ về và dựa trên chính sách kinh tế thị trường tự do, các nước phương tây hồi phục nhanh chóng rồi phồn vinh, trong khi sự phát triển ở Đông Âu ì ạch vì vận hành theo chính sách kinh tế kế hoạch.
Sau hai chục năm có “bức màn sắt”, tình hình không hề dịu đi mà mâu thuẫn còn lên cao hơn. Trước tình hình đó, một số chính trị gia Tây Âu, trong đó nổi bật nhất là Thủ tướng Đức Willy Brandt, có ý tưởng phải thay đổi chiến lược: Cải thiện các mối quan hệ thông qua thân thiện (1970). Chính phủ của ông đã ký hàng loạt hiệp ước hợp tác kinh tế với CHDC Đức, Ba-Lan, Hung-ga-ri, Liên – Xô. Sự hợp tác ấy mang lại lợi ích cho cả hai bên và dần dần dân chúng không còn nhìn nhau như kẻ thù nguy hiểm nữa. Bức màn sắt thưa dần, người dân hai bên đã hiểu một chút về nhau và biết được sự phát triển xã hội của bên kia.
Mọi cố gắng của nền kinh tế XHCN dần dần cũng đụng tới giới hạn, không thể phát huy tiềm năng và tài nguyên của đất nước một cách tối ưu. Cuối những năm 70, tình hình ở một số nước bắt đầu căng thẳng như ở Ba-Lan, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri.
Đặc biệt người dân CHDC Đức biết khá rõ những người bà con của họ ở bên kia biên giới sống ra sao, vì họ cùng một dân tộc. Chính vì thế, phong trào phản đối ở đây mạnh nhất dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin tháng 11 năm 1989. Khoảng một năm sau đó, hàng loạt các nước Đông Âu nổi dậy, không chấp nhận chế độ ở nước họ và muốn xây dựng nhà nước đa nguyên đa đảng, tự do dân chủ theo mô hình phương tây. Chiến tranh lạnh kết thúc!
Phương tây đã nghĩ rằng, thể chế dân chủ đã chiến thắng trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới chỉ còn tồn tại vài nước vẫn theo CNCS. Người dân ở các nước phương tây vốn đã giàu có nên nhu cầu tiêu thụ hàng hóa không còn cao như trước đây nữa. Các hãng phương tây muốn bán hàng cho các nước nghèo khác. Một thị trường mênh mông, đặc biệt là thị trường Trung Quốc với 1.4 tỷ người cuốn hút họ.
Thế rồi họ nhận ra, tại sao mình không sản xuất ở ngay trên đất nước họ và tận dụng công nhân rẻ mạt để lợi nhuận cao hơn. Toàn cầu hóa về kinh tế ra đời từ đó.
Ta có thể hiểu nôm na khái niệm “Toàn cầu hóa” như thế này: Một mặt hàng được thiết kế ở CHLB Đức nhưng mua nguyên liệu ở Ukraine rồi đưa sang Trung Quốc sản xuất. Hàng hóa từ đó bán cho dân Trung Quốc và các nước xung quanh, vừa chi phí rẻ, vừa có lợi nhuận rất cao. Đó là thời kỳ hoàng kim của các hãng công nghiệp Tây Âu.
Các ông chủ hãng ở Tây Âu nói với các nước tiếp nhận đầu tư rằng: Chúng tôi sẽ sản xuất ra những máy mọc tinh vi, thuốc men cao cấp, còn các anh sản xuất hàng tiêu dùng rồi chúng tôi mua lại của các anh. Chúng tôi bỏ tiền xây dựng hãng xưởng ở đất nước các anh và tạo công ăn việc làm cho dân chúng, đóng thuế cho chính phủ các anh. Hai bên gật gù, hoàn toàn đồng ý thỏa thuận.
Khoảng chục năm đầu tiên, các hãng công nghiệp châu Âu thu lợi nhuận rất tốt. Họ sẵn sàng để cho dân nước họ thất nghiệp và mang việc làm đến tặng dân các nước họ đầu tư, vì giá công nhân ở châu Âu rất đắt (Ví dụ, mới chỉ công may một chiếc áo sơ mi ở Đức ít nhất cũng phải 7 Euro, trong khi ở Trung Quốc kể cả tiền vải và công may chỉ có 5 Euro mà chất lượng tương đương). Thất nghiệp ở Mỹ và châu Âu tăng mạnh dẫn đến bất ổn xã hội, chủ nghĩa dân túy có đất phát triển và biến Trung Quốc trở thành xưởng sản xuất hàng tiêu dùng cho cả thế giới.
Sau khoảng chục năm, giới lãnh đạo Trung Quốc cho là thời điểm họ mong chờ đã đến. Họ ra điều kiện cho các hãng phương tây: Các anh đầu tư vào đất nước này, chúng tôi rất hoan nghênh. Chúng tôi sẽ giảm thuế cho các anh, cho các anh thuê đất rất rẻ và cho phép các anh tiếp cận những thị trường mênh mông khác, không giới hạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu một điều kiện. Đó là, các anh phải để lại công nghệ sản xuất cho chúng tôi, phải đào tạo nhân viên của chúng tôi thành những chuyên gia. Chấm hết!
Điều đó có nghĩa là, bao nhiêu bí mật nhà nghề do nghiên cứu hàng trăm năm qua, bây giờ phải tuôn ra hết. Đồng ý ký hay không đây? Mình không ký thì thằng khác nó lại nhảy vào mà thị trường thì béo bở, hốt bạc. Vả lại nhiệm kỳ mình làm Manager chỉ có vài năm thôi, phải tranh thủ chứ vì đằng nào vốn liếng của mình đã nằm chết ở đây rồi. Thế là sau vài đêm mất ngủ, họ nhắm mắt nghiến răng ký!
Trung Quốc chỉ chờ có thế. Họ dùng toàn bộ trí tuệ để thu Know- How của những nước văn minh bằng nhiều con đường, kể cả gián điệp kinh tế nhan nhản.
Có những khi họ mua hai hoặc ba cái máy hiện đại hoàn toàn giống nhau. Một cỗ máy họ tháo ra nghiên cứu từng con ốc, viên bi rồi cho sản xuất lại những bộ phận ấy để copy hoàn toàn thành một chiếc máy mới.
Hồi đó Trung Quốc ký với Đức làm đường sắt cao tốc 400 km/h. Họ nói, trước hết thử nghiệm từ sân bay quốc tế về trung tâm thành phố Thượng Hải 50 km, sau đó sẽ mở rộng ra toàn đất nước. Thủ tướng Đức Gehardt Schröder và thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ hân hoan cụng ly sâm banh trên đoạn đường sắt mới khánh thành. Nhưng đó là đoạn đường duy nhất Đức làm, sau đó TQ tự làm và bắt chước công nghệ Đức một cách tài tình!
Với việc đẩy mạnh toàn cầu hóa, phương tây tin rằng, một mặt kiếm lời, mặt khác sẽ biến thể chế của những nước này dần dần “tự do hóa” và hội nhập vào trật tự như ý họ muốn. Nhưng họ đã lầm. Chỉ trong vòng hơn 20 năm, từ một đất nước lạc hậu, Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và công nghệ, thách thức vai trò của phương tây, trong khi họ vẫn giữ thể chế độc tài.
Phương tây đã tự tạo ra sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ Trung Quốc như thuốc men, hàng tiêu dùng, đất hiếm. Họ đã tạo điều kiện để đối thủ vươn lên, mô hình xã hội tự do của phương tây bây giờ kém tính hấp dẫn hơn trước.
Có lẽ vì sự thành công trong chiến lược “Cải tổ thông qua thân thiện” của những năm 70 thế kỷ trước nên phương tây chủ quan ứng dụng cho các nước có nền văn hóa khác họ nhiều. Họ ít nghiên cứu về bản chất con người TQ và ngây thơ dễ tin nên nhiều trường hợp rơi vào tình trạng “nuôi ong tay áo”. Đối với Nga cũng thế. Bản chất của chính phủ Nga thể hiện rất rõ từ năm 2014 khi họ ngang nhiên thôn tính bán đảo Krim của Ukraine, nhưng phương tây chỉ phản đối lấy lệ. Phương tây chỉ nhìn lợi ích kinh tế và nguồn năng lượng rẻ từ Nga, bây giờ giật mình thì đã hơi muộn.
Nói tóm lại, quá trình toàn cầu hóa là quá trình phát triển tất yếu, nhưng phương tây chủ quan, ít nhiều thật thà khờ khạo và bây giờ phải trả giá đắt. Hy vọng đây là bài học xương máu để họ đánh giá các đối tác chiến lược trong tương lai. Tôi giật mình khi nghe thấy một chính trị gia cao cấp Đức phát biểu: “Từ trước đến nay chế độ độc tài chỉ có thể phồn thịnh một thời gian ngắn. Nhưng có thể bây giờ sẽ khác!”.
