Live Tranh cãi về ý nghĩa của tên Gia Long Đế.

sami88

Thần điêu đại bịp
PbX7zdk.jpeg

vV5L6yoF.jpeg

H4paxd.jpeg

m3f2sgS7.jpeg
 
@atlas05 m nghỉ sao về vụ này?
Ý kiến của T Gia Long là Gia Định và Thăng Long là sai lầm. 2 chữ Long khác nhau vào thời điểm đó.
Chữ Việt Nam đã bao hàm ý thống nhất đất nước rồi.
Việt là vùng đất Việt Thường
Nam là vùng đất An Nam
Niên hiệu được xuất phát từ khẩu hiệu hay phương châm trị vì của vị Vua đó.

Việt Nam dưới thời Vua Gia Long có nghĩa là một đất nước Hưng Thịnh, Tốt Đẹp, Thống Nhất.
 
@atlas05 m nghỉ sao về vụ này?
Ý kiến của T Gia Long là Gia Định và Thăng Long là sai lầm. 2 chữ Long khác nhau vào thời điểm đó.
Chữ Việt Nam đã bao hàm ý thống nhất đất nước rồi.
Việt là vùng đất Việt Thường
Nam là vùng đất An Nam
Niên hiệu được xuất phát từ khẩu hiệu hay phương châm trị vì của vị Vua đó.

Việt Nam dưới thời Vua Gia Long có nghĩa là một đất nước Hưng Thịnh, Tốt Đẹp, Thống Nhất.
Cái này tao đã từng đố bọn mày rồi.
Thằng cha Dương Quốc Chính nói bậy
Phủ Gia Định có từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu 1699 rồi.
Cái tên Gia trong niên hiệu Gia Long đúng là lấy từ chữ Gia trong Gia Định đó
Còn chữ Long mới thú vị
Đéo liên quan đến Thăng Long và cũng đéo liên quan đến Càn Long
 
Cái này tao đã từng đố bọn mày rồi.
Thằng cha Dương Quốc Chính nói bậy
Phủ Gia Định có từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu 1699 rồi.
Cái tên Gia trong niên hiệu Gia Long đúng là lấy từ chữ Gia trong Gia Định đó
Còn chữ Long mới thú vị
Đéo liên quan đến Thăng Long và cũng đéo liên quan đến Càn Long
M nghỉ sao về vụ này? Vậy Gia Long có nghĩa là gì? T diễn giải ý của T có đúng không? Mà nó xoá commnet của T rồi.
 
chữ Long trong Thăng Long (昇龍) và chữ Long trong Gia Long (嘉隆) là hai chữ Hán hoàn toàn khác nhau. Chữ Long trong Thăng Long là (con rồng), trong khi chữ Long trong Gia Long là (hưng thịnh). Đây là điểm chính yếu gây nên sự nhầm lẫn và tranh cãi.
Huống chi năm 1802 tháng 6 Gia Long đặt niên hiệu của mình thì lúc đó Thăng Long còn trong tay Quang Toản
Gia Long không thể lấy tên đất của kẻ thù đặt cho niên hiệu của mình được
 
M nghỉ sao về vụ này? Vậy Gia Long có nghĩa là gì? T diễn giải ý của T có đúng không? Mà nó xoá commnet của T rồi.
Xã Long Hưng, đặc biệt là khu vực Long Hưng A, thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp có một câu chuyện lịch sử rất nổi tiếng và quan trọng liên quan đến vua Gia Long (Nguyễn Ánh).


Câu chuyện này gắn liền với Miếu Gia Long và địa danh "Cây đa bến ngự" tại ấp Hưng Mỹ Tây.


Vào năm 1787, sau nhiều lần thất bại trước quân Tây Sơn và phải lưu vong sang Xiêm La (Thái Lan), Nguyễn Ánh đã trở về nước. Ông đã chọn một địa điểm có địa thế hiểm yếu và thuận lợi tại vùng Hồi Oa (hay còn gọi là Nước Xoáy, nay thuộc xã Long Hưng A) để đóng bản doanh.


Trong thời gian đóng quân tại đây, Nguyễn Ánh và binh sĩ đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của người dân địa phương. Nổi bật nhất là câu chuyện về một người có tên là Nguyễn Văn Mậu, một phú hào trong vùng. Ông đã dốc hết kho lúa của gia đình để cung cấp lương thực cho quân của Nguyễn Ánh trong nhiều tháng liền, giúp lực lượng của ông củng cố và phục hồi sau những thất bại nặng nề.


Tại đây, Nguyễn Ánh đã có thời gian bôn tẩu, thu phục nhân tâm và củng cố lực lượng. Từ vùng đất này, ông đã phát động các cuộc tấn công và dần dần giành lại quyền kiểm soát Gia Định và các vùng đất ở Nam Bộ, làm tiền đề cho công cuộc thống nhất toàn bộ đất nước sau này.


Để ghi nhớ công ơn của những người dân đã giúp đỡ mình, đặc biệt là ông Nguyễn Văn Mậu, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã ban sắc phong cho ông Mậu và cho xây dựng miếu thờ, mà sau này dân gian gọi là Miếu Gia Long (còn có tên gọi là Đức Cao Hoàng Miếu). Ngôi miếu này được xây dựng trên chính nền đồn cũ Hồi Oa.


Đặc biệt, tại đây còn lưu truyền giai thoại về "Cây đa bến ngự". Tương truyền, đây là nơi Nguyễn Ánh thường ngồi câu cá để thư giãn và suy ngẫm kế hoạch phục quốc.


Hàng năm, người dân địa phương vẫn tổ chức lễ giỗ vua Gia Long tại miếu này vào ngày 18 và 19 tháng Chạp âm lịch để tưởng nhớ công lao của vị vua đầu triều Nguyễn và sự kiện lịch sử đã diễn ra trên mảnh đất này.

Cái địa danh Long Hưng này là Nguyễn Ánh đổi tên là đất phát tích của Nguyễn Ánh căn cứ đầu tiên của ông giúp ông giành thiên hạ
Chữ long trong Long Hưng cũng chính là chữ Long trong long trọng hưng thịnh niên hiệu của Gia Long
 
Niên hiệu Gia Long là tên 2 vùng đất gắn bó mật thiết và quan trọng với cuộc đời ông
Gia là Gia Định vùng đất ông xây dựng cơ sở đầu tiên xưng vương năm 1780
Long là Long Hưng căn cứ hồi oa nước xoáy ở Đồng Tháp nơi Gia Long sau khi từ Xiêm về lập căn cứ đầu tiên để ông tiến lên lấy lại cả thiên hạ năm 1787.
 
Xã Long Hưng, đặc biệt là khu vực Long Hưng A, thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp có một câu chuyện lịch sử rất nổi tiếng và quan trọng liên quan đến vua Gia Long (Nguyễn Ánh).


Câu chuyện này gắn liền với Miếu Gia Long và địa danh "Cây đa bến ngự" tại ấp Hưng Mỹ Tây.


Vào năm 1787, sau nhiều lần thất bại trước quân Tây Sơn và phải lưu vong sang Xiêm La (Thái Lan), Nguyễn Ánh đã trở về nước. Ông đã chọn một địa điểm có địa thế hiểm yếu và thuận lợi tại vùng Hồi Oa (hay còn gọi là Nước Xoáy, nay thuộc xã Long Hưng A) để đóng bản doanh.


Trong thời gian đóng quân tại đây, Nguyễn Ánh và binh sĩ đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của người dân địa phương. Nổi bật nhất là câu chuyện về một người có tên là Nguyễn Văn Mậu, một phú hào trong vùng. Ông đã dốc hết kho lúa của gia đình để cung cấp lương thực cho quân của Nguyễn Ánh trong nhiều tháng liền, giúp lực lượng của ông củng cố và phục hồi sau những thất bại nặng nề.


Tại đây, Nguyễn Ánh đã có thời gian bôn tẩu, thu phục nhân tâm và củng cố lực lượng. Từ vùng đất này, ông đã phát động các cuộc tấn công và dần dần giành lại quyền kiểm soát Gia Định và các vùng đất ở Nam Bộ, làm tiền đề cho công cuộc thống nhất toàn bộ đất nước sau này.


Để ghi nhớ công ơn của những người dân đã giúp đỡ mình, đặc biệt là ông Nguyễn Văn Mậu, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã ban sắc phong cho ông Mậu và cho xây dựng miếu thờ, mà sau này dân gian gọi là Miếu Gia Long (còn có tên gọi là Đức Cao Hoàng Miếu). Ngôi miếu này được xây dựng trên chính nền đồn cũ Hồi Oa.


Đặc biệt, tại đây còn lưu truyền giai thoại về "Cây đa bến ngự". Tương truyền, đây là nơi Nguyễn Ánh thường ngồi câu cá để thư giãn và suy ngẫm kế hoạch phục quốc.


Hàng năm, người dân địa phương vẫn tổ chức lễ giỗ vua Gia Long tại miếu này vào ngày 18 và 19 tháng Chạp âm lịch để tưởng nhớ công lao của vị vua đầu triều Nguyễn và sự kiện lịch sử đã diễn ra trên mảnh đất này.

Cái địa danh Long Hưng này là Nguyễn Ánh đổi tên là đất phát tích của Nguyễn Ánh căn cứ đầu tiên của ông giúp ông giành thiên hạ
Chữ long trong Long Hưng cũng chính là chữ Long trong long trọng hưng thịnh niên hiệu của Gia Long
Vậy có nghĩa là Long Trọng Hưng Thịnh một đất nước Việt Nam, Tốt Đẹp, Phúc Lành phải không?

Niên hiệu Gia Long là tên 2 vùng đất gắn bó mật thiết và quan trọng với cuộc đời ông
Gia là Gia Định vùng đất ông xây dựng cơ sở đầu tiên xưng vương năm 1780
Long là Long Hưng căn cứ hồi oa nước xoáy ở Đồng Tháp nơi Gia Long sau khi từ Xiêm về lập căn cứ đầu tiên để ông tiến lên lấy lại cả thiên hạ năm 1787.
T chưa bao giờ thấy lấy địa danh làm Niên Hiệu.
 
Thì bây giờ thấy.
Có gì lạ đâu
Ý NGHĨA NIÊN HIỆU “GIA LONG” 嘉隆
#Chuyện_chữ_nghĩa

Gia Long là niên hiệu của vị vua đời đầu triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chép: “Mùng một tháng Năm, năm Nhâm tuất (1802), cho lập đàn ở cánh đồng An Ninh, tế cáo với trời đất về việc đặt niên hiệu. Qua mùng hai, tế cáo ông bà tổ tiên. Cúng vái xong, vua ra ngự điện nhận lễ chầu chúc mừng, đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá thiên hạ” (Chính biên, Kỷ thứ nhứt - Thế tổ Cao hoàng đế).

Về nguồn gốc niên hiệu nầy, giới học thuật chia làm hai quan điểm khác nhau.

1. “GIA LONG” LÀ DO GHÉP HAI ĐỊA DANH GIA ĐỊNH VÀ VĨNH LONG

Quan điểm nầy do Thịnh Khánh Phất[1] đưa ra đầu tiên, trong “Việt Nam địa dư Đồ thuyết”: “Khi Nguyễn Ánh mới vô đất Đồng Nai, đã tuyển chọn dân binh ở Gia Định và Vĩnh Long làm lực lượng phục quốc. Đây là đội quân thiện chiến, đắc lực, nên sau khi giành được nước, để tưởng nhớ công lao, [Nguyễn Ánh] đã ghép hai hai địa danh nầy làm niên hiệu.

“Thanh sử cảo”[2] đã tiếp thu quan điểm nầy: “Nguyễn Phước Ánh lấy được nước, phần lớn dựa vào binh lực Gia Định và Vĩnh Long, vì vậy ghép hai địa danh nầy làm niên hiệu, là Gia Long” (Thuộc quốc truyện - Việt Nam).

2. “GIA LONG” LÀ DO GHÉP HAI ĐỊA DANH GIA ĐỊNH VÀ THĂNG LONG

Quan điểm nầy do Thái Đình Lan[3] đưa ra, trong “Hải Nam tạp trứ”. Hải Nam tạp trứ được viết năm 1835, dựa trên những quan sát thực tế của Thái Đình Lan trong thời gian ông ở Việt Nam. Lúc đó Lan giao du với các nhân sĩ hàng đầu như Phan Thanh Giản, nên cách ông giải thích ý nghĩa niên hiệu có thể là qua các câu chuyện của họ. Tức là quan điểm cho niên hiệu Gia Long là do ghép bởi Gia Định với Thăng Long, ít ra đã phổ biến ở Việt Nam từ năm 1835 trở về trước.

Cách giải thích nầy bắt nguồn “Bắc Ninh toàn tỉnh Địa dư chí”[4]. Theo đó thì năm 1802, khi Nguyễn Gia Cát[5] đi sứ xin phong tước, ông bị người Thanh chất vấn: Phải chăng niên hiệu Gia Long là có ý kình chống nhà Thanh? (Vì chữ Gia trùng với niên hiệu Gia Khánh, Long lại trùng với Càn Long) Cát đáp: “Nước tôi trước đây từ thời Trịnh Lê bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc. Kịp khi quốc vương tôi hưng binh ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long, nên nhơn đó ghép thành niên hiệu Gia Long, nào có ý kiêu căng xấc xược”.

Nguyễn Gia Cát nguyên là Tiến sĩ đời Hậu Lê, lại từng là Đốc học Bắc Thành thời Tây Sơn, nhưng vẫn được vua Gia Long ghé mắt xanh trọng đãi, bổ làm Tả tham tri Bộ Lễ kiêm Cần Chánh điện Học sĩ, tước Quỳ Giang hầu, và được cử đi sứ sang Thanh cầu phong. Ngộ biến tòng quyền, trước câu hỏi gắt của tụi quan lại nhà Thanh, Cát buộc phải chống chế theo suy luận của mình như trên.

Ác cái là lối chống chế qua ải đó lại được các học giả đời sau, như Trương Vĩnh Ký cũng cho là thiệt. Để rồi học giả Trang Cát Phát[5] của Đài Loan lại bị danh tiếng của Trương Vĩnh Ký át vía, cũng tán đồng quan điểm cho Gia Long nghĩa là “Dấy nghiệp ở Gia Đình, thành nghiệp ở Thăng Long”. Tiếp đó lại tới Thôi Bỉnh Húc[6] của Hàn quốc, trong công trình biên khảo “Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng” (Southern Vietnam under the reign of Minh Mang), cũng nói theo y chang.

Hai quan điểm trên có điểm chung ở chỗ cho niên hiệu “Gia Long” là được ghép từ địa danh, và chữ Gia chỉ đất Gia Định; chỉ khác ở chữ Long khúc đuôi, bên thì cho là Vĩnh Long, bên lại nói là Thăng Long.

Đã đành đất Gia Định góp phần công lớn, cung ứng cả tài lực lẫn nhơn lực cho sự nghiệp phục quốc của vua Gia Long, nhưng cách hiểu đó của cả hai tụi lại có lỗ hổng lớn.

* * *

Trước hết, nói về cách hiểu Gia Long là ghép bởi Gia Định với Vĩnh Long. Thì địa danh Vĩnh Long xuất hiện trễ hơn niên hiệu của Nguyễn Ánh cả ba chục năm.

Xứ Vĩnh Long là vùng đất màu mỡ do phù sa sông Cổ Chiên bồi đắp, dân mình tới khẩn hoang thành nơi trù phú. Năm 1732, Ninh vương Nguyễn Phước Chú đặt làm dinh Long Hồ, thuộc phủ Gia Định. Qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, dinh Long Hồ lần lượt đổi tên thành dinh Hoằng Trấn, dinh Trấn Vĩnh, rồi trấn Vĩnh Thanh, tới 1832 mới được Minh mạng đổi thành trấn Vĩnh Long (theo Đại Nam nhứt thống chí)[7].

Đại Nam thực lục Chính biên cho biết lý do đổi tên trần Vĩnh Thanh 永清 thành trấn Vĩnh Long là tại kỵ húy, tránh trùng chữ Thanh với lăng Trường Thanh 長清 của chúa Nguyễn Phước Chu. Tên đất Vĩnh Long 永隆 có nghĩa là mãi mãi hưng thạnh, nó chẳng dính dáng gì tới ông vua có công dựng nước cho người Việt.

* * *

Qua tới cách hiểu Gia Long là ghép bởi Gia Định với Thăng Long.

Chỗ nầy phải phân biệt, tên cũ của Hà Nội là Thăng Long 升龍, với chữ Long là con rồng, ý là con rồng nhảy vọt lên. Tới năm 1805, Gia Long đế mới đổi tên, sửa từ con rồng nứng đó thành ra Thăng Long 升隆, với chữ Long khác, có nghĩa là hưng thạnh. Từ đó, cái tên Thăng Long hoàn toàn đổi nghĩa khác, thành ra là “Thăng bình hưng thạnh”.

Vậy là địa danh Thăng Long (với chữ Long là hưng thạnh, trùng với chữ Long của Càn Long) xuất hiện sau niên hiệu Gia Long tới ba, bốn năm. Tới đây, đứa nào dám nói Gia Long là ghép Gia Định với Thăng Long nữa thôi?

Hơn nữa, nếu lấy niên hiệu Gia Long là với cái nghĩa “bắt đầu dựng nghiệp ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long”, nhằm nhấn mạnh đã thống nhứt san hà, Bắc Nam liền một cõi từ Gia Định tới Thăng Long, thì phải chiếm được Thăng Long rồi, mới nói kiểu đó được. Đằng nầy, hồi Nguyễn Ánh đặt niên hiệu Gia Long là bữa mùng hai tháng Năm, năm 1802. Lúc đó, thành Thăng Long còn là con rồng chổng đứng, và vẫn do Tây Sơn cai quản. phải hơn cả tháng sau, bữa 18 tháng Sáu, Khâm sai Chưởng tả quân dinh kiêm Bình Tây tướng quân Lê Văn Duyệt mới dẫn đại quân tiến vô chiếm lấy.

Qua đó thì thấy cách giải thích của Nguyễn Gia Cát: “Quốc vương tôi hưng binh ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long, nên nhơn đó ghép thành niên hiệu Gia Long” chỉ là tạm thời ứng đối cho qua, để xoa dịu vua tôi nhà Thanh. Vì ngoài việc báo tin đặt niên hiệu mới, qua năm 1804, Nguyễn Ánh còn cử sứ thần qua Thanh, yêu cầu đổi tên nước từ Đại Việt thành Nam Việt[8]. Tình hình triều Nguyễn lúc đò mới thành lập, đủ thứ phức tạp trong ngoài, thành thử sứ thần Đại Việt phải nói đại cho xuôi tai tụi Thanh vậy thôi.

Năm 1802, Nguyễn Ánh tuy lấy niên hiệu Gia Long, nhưng chỉ xưng vương. Phải tới cuối năm 1806, sau khi đổi tên nước thành Việt Nam, mới đàng hoàng xưng đế. Thành thử lời biện bạch của Nguyễn Gia Cát phải sau bốn năm mới thành sự thiệt.

* * *

Điều quan trọng là hồi xưa, cả vua ta lẫn vua Tàu, đều lựa chữ ngụ ý tốt lành để đặt làm niên hiệu, chưa từng thấy ai lấy địa danh làm niên hiệu kiểu cù lần lửa làm vậy.

Vậy rốt cuộc chữ “Gia Long” có ý nghĩa gì?

Theo Phạm Đình Hổ (1768-1839) trong “Long Ân tự tấu nghị” 隆恩寺奏議, bài nghị luận với những suy tư về các vấn đề lịch sử, văn hóa và xã hội thời bấy giờ thì: “Nhận mệnh Thế tổ Cao hoàng đế đã bình định đất nước, thống nhất bản đồ, xây dựng kinh đô, mở rộng kinh doanh, lấy Gia Long làm niên hiệu. Cho thấy thần khí đã có nơi hướng về, mệnh trời được quy tụ. Điều nầy ngầm hiểu ngay từ đầu cho điềm lành Bân, Thai dựng nước”[9].

Bân 豳 là tên nước thời xưa, chỗ phát tích nhà Châu. Thai 邰 là đất phong cho Hậu Tắc, thủy tổ nhà Châu. Câu nầy so sánh chúa Nguyễn Hoàng với tiên tổ nhà Châu, vì đã lấy trấn Thuận Hóa làm nền tảng, mở mang thành “Quảng Nam quốc”, định sẵn cơ đồ cho nhà Nguyễn.

Ý Phạm Đình Hổ nói Nguyễn Ánh lấy niên hiệu Gia Long là ngụ ý kế thừa tổ nghiệp, xây nền chánh thống.

Còn theo Đại Nam thực lục thì Nguyễn Hoàng được đặt thụy hiệu là Gia Dụ 嘉裕. Chữ Gia nầy nghĩa là tốt đẹp, rõ ràng chẳng dính dáng gì tới tên đất Gia Định, họa chăng chỉ có thể liên tưởng tới tên… cầu Gia Hội![10]

Còn manh mối khác về chữ Gia, là hồi còn bôn ba đắp mô phục quốc, Nguyễn Ánh có cho đúc đồng tiền “Gia Hưng thông bảo”. Do đó người Thanh còn quen kêu Ánh là “Gia Hưng vương” 嘉興王.

Gia Hưng nầy hổng phải niên hiệu, bởi vì từ lúc đó cho tới khi lên ngôi vương ở Sài Côn (Sài Gòn), Nguyễn Phước Ánh vẫn tôn vua Lê làm chánh thống, nên vẫn xài niên hiệu nhà Lê. Kể từ tháng 5-1802 mới lấy niên hiệu Gia Long cho mình. Mà Gia Hưng đây vốn dính líu với Gia Dụ, tức là “Khởi từ Gia Dụ vương mà hưng thạnh”. Đồng tiền “Gia Hưng thông bảo” do đó ngụ ý đồng tiền cát tường.

Rồi khi lên ngôi chánh vì vương, Nguyễn Ánh bày tỏ hoài bão theo hướng đó, nên lấy niên hiệu Gia Long. Long nầy vừa gần với chữ Hưng trước đó, đều ngụ ý tốt lành, lại vừa để kỷ công: Trải hai mươi năm bất chấp những lận đận thăng trầm, sở dĩ gầy nên nghiệp lớn là nhờ tổ tiên phò hộ.

Gia Long vì vậy hàm nghĩa kế thừa tổ nghiệp từ Gia Dụ vương mà hưng thạnh.
_________

[1] Thịnh Khánh Phất 盛慶紱: Nhà nghiên cứu thời Vãn Thanh, không rõ năm sinh năm mất. Ông là tác giả bộ “Việt Nam địa dư Đồ thuyết” 越南地輿圖說 nổi tiếng (6 quyển, xuất bản năm 1883).

[2] Thanh sử cảo 清史稿: Bản thảo bộ tư liệu lịch sử đời Thanh. Nội dung chép các việc từ khi Nỗ-nhĩ-cáp-xích (Thanh Thái tổ) lập ra nhà Thanh năm 1616 cho tới khi Cách mạng Tân hợi 1911 thành công. Dự án biên soạn nầy bắt đầu năm 1914, khi chính phủ Bắc Dương do Viên Thế Khải đứng đầu lập ra Thanh sử quán, đã mời hơn 100 sử gia biên soạn một bộ “Thanh sử”. Bởi tiếp đó chiến tranh liên miên, bộ sử nầy không thể hoàn thành. Cho tới khi phát hành năm 1929, nó vẫn còn giai đoạn sơ thảo, nên kêu là “Thanh sử cảo” (Cảo 稿 nghĩa là “bản thảo”).

[3] Thái Đình Lan 蔡廷蘭 (1801-1859): Người huyện Bành Hồ (Đài Loan). Năm 1836, trên đường thi hương về gặp bão, dạt vô đất Quảng Ngãi của Việt Nam. Minh Mạng tính đợi tới mùa xuân thuận gió sẽ cấp thuyền đưa Lan về quê. Nhưng ông gấp về săn sóc mẹ già nên đi luôn theo đường bộ. Thái Đình Lan đã đi qua 14 tỉnh miền Bắc và Bắc trung bộ của Việt Nam, đi xuyên Quảng Tây, Quảng Đông, Hạ Môn để về Bành Hồ. Được vua Minh Mạng chiếu cố trọng đãi, suốt chặng đường dài Lan đã kết giao nhiều bậc sĩ phu Việt Nam. Ông ghi chép tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe về phong tục tập quán Việt Nam, viết thành cuốn “Hải Nam tạp trứ” 海南雜著 (phát hành năm 1835). Đây là tài liệu quan trọng về phong tục, dân tình Việt Nam thế kỷ 19 cũng như văn hóa lịch sử đất Bành Hồ.

[4] Bắc Ninh toàn tỉnh Địa dư chí 北寧全省地輿志: Do Mạnh Siêu Nguyễn Trác, người làng Niệm Xá, Vũ Giàng soạn năm 1891, bản chữ Hán ký hiệu thư viện A.2889.

[5] Trang Cát Phát 莊吉發 (1936-): Nhà sử học Đài Loan. Ông là nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Cố cung Quốc gia (Đài Loan), giảng dạy khoa Lịch sử tại Đại học Đàm Giang (Tamkang University) và Đại học Quốc lập Đài Loan (National Taiwan University).

[6] Thôi Bỉnh Húc 崔秉旭 (Choi Byung-wook): Chuyên gia nghiên cứu Việt Nam, giáo sư Đại học Nhơn Hà (인하대학교, Inha University).

[7] Nguyên văn: 永隆省一轄,在此前原屬龍湖營,己亥年(1779)為弘鎮營,庚子年(1780)為永鎮營,嘉隆七年(1808)改為永清鎮,隸於嘉定城。

[8] Nhưng Gia Khánh không chịu, vì tên Nam Việt trùng với nước Nam Việt của Triệu Đà. Bởi e gây ngộ nhận, khiến người nước Nam lầm tưởng cái nước Nam Việt bao gồm cả Lưỡng Quảng đó cũng là của mình, sẽ sinh sự lôi thôi. Nên đảo lại lời cầu xin, ban cho tên là Việt Nam.

[9] Nguyên văn: 奉我世祖高皇帝,蕩定區宇,混一輿圖,建廣德京營,以‘嘉隆’記號,於以見神器有歸、天命所集,已隱然于豳、邰肇造之初。

[10] Gia Hội 嘉會 nghĩa là “cơ hội khó gặp”, lấy ý thơ của danh tướng Lý Lăng đời Hớn:

嘉會難再遇 Gia hội nan tái ngộ
三載為千秋 Tam tải vi thiên thu

(Khó có cơ hội gặp lại, Ba năm bằng ngàn thu).
 
Ý NGHĨA NIÊN HIỆU “GIA LONG” 嘉隆
#Chuyện_chữ_nghĩa

Gia Long là niên hiệu của vị vua đời đầu triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chép: “Mùng một tháng Năm, năm Nhâm tuất (1802), cho lập đàn ở cánh đồng An Ninh, tế cáo với trời đất về việc đặt niên hiệu. Qua mùng hai, tế cáo ông bà tổ tiên. Cúng vái xong, vua ra ngự điện nhận lễ chầu chúc mừng, đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá thiên hạ” (Chính biên, Kỷ thứ nhứt - Thế tổ Cao hoàng đế).

Về nguồn gốc niên hiệu nầy, giới học thuật chia làm hai quan điểm khác nhau.

1. “GIA LONG” LÀ DO GHÉP HAI ĐỊA DANH GIA ĐỊNH VÀ VĨNH LONG

Quan điểm nầy do Thịnh Khánh Phất[1] đưa ra đầu tiên, trong “Việt Nam địa dư Đồ thuyết”: “Khi Nguyễn Ánh mới vô đất Đồng Nai, đã tuyển chọn dân binh ở Gia Định và Vĩnh Long làm lực lượng phục quốc. Đây là đội quân thiện chiến, đắc lực, nên sau khi giành được nước, để tưởng nhớ công lao, [Nguyễn Ánh] đã ghép hai hai địa danh nầy làm niên hiệu.

“Thanh sử cảo”[2] đã tiếp thu quan điểm nầy: “Nguyễn Phước Ánh lấy được nước, phần lớn dựa vào binh lực Gia Định và Vĩnh Long, vì vậy ghép hai địa danh nầy làm niên hiệu, là Gia Long” (Thuộc quốc truyện - Việt Nam).

2. “GIA LONG” LÀ DO GHÉP HAI ĐỊA DANH GIA ĐỊNH VÀ THĂNG LONG

Quan điểm nầy do Thái Đình Lan[3] đưa ra, trong “Hải Nam tạp trứ”. Hải Nam tạp trứ được viết năm 1835, dựa trên những quan sát thực tế của Thái Đình Lan trong thời gian ông ở Việt Nam. Lúc đó Lan giao du với các nhân sĩ hàng đầu như Phan Thanh Giản, nên cách ông giải thích ý nghĩa niên hiệu có thể là qua các câu chuyện của họ. Tức là quan điểm cho niên hiệu Gia Long là do ghép bởi Gia Định với Thăng Long, ít ra đã phổ biến ở Việt Nam từ năm 1835 trở về trước.

Cách giải thích nầy bắt nguồn “Bắc Ninh toàn tỉnh Địa dư chí”[4]. Theo đó thì năm 1802, khi Nguyễn Gia Cát[5] đi sứ xin phong tước, ông bị người Thanh chất vấn: Phải chăng niên hiệu Gia Long là có ý kình chống nhà Thanh? (Vì chữ Gia trùng với niên hiệu Gia Khánh, Long lại trùng với Càn Long) Cát đáp: “Nước tôi trước đây từ thời Trịnh Lê bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc. Kịp khi quốc vương tôi hưng binh ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long, nên nhơn đó ghép thành niên hiệu Gia Long, nào có ý kiêu căng xấc xược”.

Nguyễn Gia Cát nguyên là Tiến sĩ đời Hậu Lê, lại từng là Đốc học Bắc Thành thời Tây Sơn, nhưng vẫn được vua Gia Long ghé mắt xanh trọng đãi, bổ làm Tả tham tri Bộ Lễ kiêm Cần Chánh điện Học sĩ, tước Quỳ Giang hầu, và được cử đi sứ sang Thanh cầu phong. Ngộ biến tòng quyền, trước câu hỏi gắt của tụi quan lại nhà Thanh, Cát buộc phải chống chế theo suy luận của mình như trên.

Ác cái là lối chống chế qua ải đó lại được các học giả đời sau, như Trương Vĩnh Ký cũng cho là thiệt. Để rồi học giả Trang Cát Phát[5] của Đài Loan lại bị danh tiếng của Trương Vĩnh Ký át vía, cũng tán đồng quan điểm cho Gia Long nghĩa là “Dấy nghiệp ở Gia Đình, thành nghiệp ở Thăng Long”. Tiếp đó lại tới Thôi Bỉnh Húc[6] của Hàn quốc, trong công trình biên khảo “Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng” (Southern Vietnam under the reign of Minh Mang), cũng nói theo y chang.

Hai quan điểm trên có điểm chung ở chỗ cho niên hiệu “Gia Long” là được ghép từ địa danh, và chữ Gia chỉ đất Gia Định; chỉ khác ở chữ Long khúc đuôi, bên thì cho là Vĩnh Long, bên lại nói là Thăng Long.

Đã đành đất Gia Định góp phần công lớn, cung ứng cả tài lực lẫn nhơn lực cho sự nghiệp phục quốc của vua Gia Long, nhưng cách hiểu đó của cả hai tụi lại có lỗ hổng lớn.

* * *

Trước hết, nói về cách hiểu Gia Long là ghép bởi Gia Định với Vĩnh Long. Thì địa danh Vĩnh Long xuất hiện trễ hơn niên hiệu của Nguyễn Ánh cả ba chục năm.

Xứ Vĩnh Long là vùng đất màu mỡ do phù sa sông Cổ Chiên bồi đắp, dân mình tới khẩn hoang thành nơi trù phú. Năm 1732, Ninh vương Nguyễn Phước Chú đặt làm dinh Long Hồ, thuộc phủ Gia Định. Qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, dinh Long Hồ lần lượt đổi tên thành dinh Hoằng Trấn, dinh Trấn Vĩnh, rồi trấn Vĩnh Thanh, tới 1832 mới được Minh mạng đổi thành trấn Vĩnh Long (theo Đại Nam nhứt thống chí)[7].

Đại Nam thực lục Chính biên cho biết lý do đổi tên trần Vĩnh Thanh 永清 thành trấn Vĩnh Long là tại kỵ húy, tránh trùng chữ Thanh với lăng Trường Thanh 長清 của chúa Nguyễn Phước Chu. Tên đất Vĩnh Long 永隆 có nghĩa là mãi mãi hưng thạnh, nó chẳng dính dáng gì tới ông vua có công dựng nước cho người Việt.

* * *

Qua tới cách hiểu Gia Long là ghép bởi Gia Định với Thăng Long.

Chỗ nầy phải phân biệt, tên cũ của Hà Nội là Thăng Long 升龍, với chữ Long là con rồng, ý là con rồng nhảy vọt lên. Tới năm 1805, Gia Long đế mới đổi tên, sửa từ con rồng nứng đó thành ra Thăng Long 升隆, với chữ Long khác, có nghĩa là hưng thạnh. Từ đó, cái tên Thăng Long hoàn toàn đổi nghĩa khác, thành ra là “Thăng bình hưng thạnh”.

Vậy là địa danh Thăng Long (với chữ Long là hưng thạnh, trùng với chữ Long của Càn Long) xuất hiện sau niên hiệu Gia Long tới ba, bốn năm. Tới đây, đứa nào dám nói Gia Long là ghép Gia Định với Thăng Long nữa thôi?

Hơn nữa, nếu lấy niên hiệu Gia Long là với cái nghĩa “bắt đầu dựng nghiệp ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long”, nhằm nhấn mạnh đã thống nhứt san hà, Bắc Nam liền một cõi từ Gia Định tới Thăng Long, thì phải chiếm được Thăng Long rồi, mới nói kiểu đó được. Đằng nầy, hồi Nguyễn Ánh đặt niên hiệu Gia Long là bữa mùng hai tháng Năm, năm 1802. Lúc đó, thành Thăng Long còn là con rồng chổng đứng, và vẫn do Tây Sơn cai quản. phải hơn cả tháng sau, bữa 18 tháng Sáu, Khâm sai Chưởng tả quân dinh kiêm Bình Tây tướng quân Lê Văn Duyệt mới dẫn đại quân tiến vô chiếm lấy.

Qua đó thì thấy cách giải thích của Nguyễn Gia Cát: “Quốc vương tôi hưng binh ở Gia Định, hoàn thành đại nghiệp ở Thăng Long, nên nhơn đó ghép thành niên hiệu Gia Long” chỉ là tạm thời ứng đối cho qua, để xoa dịu vua tôi nhà Thanh. Vì ngoài việc báo tin đặt niên hiệu mới, qua năm 1804, Nguyễn Ánh còn cử sứ thần qua Thanh, yêu cầu đổi tên nước từ Đại Việt thành Nam Việt[8]. Tình hình triều Nguyễn lúc đò mới thành lập, đủ thứ phức tạp trong ngoài, thành thử sứ thần Đại Việt phải nói đại cho xuôi tai tụi Thanh vậy thôi.

Năm 1802, Nguyễn Ánh tuy lấy niên hiệu Gia Long, nhưng chỉ xưng vương. Phải tới cuối năm 1806, sau khi đổi tên nước thành Việt Nam, mới đàng hoàng xưng đế. Thành thử lời biện bạch của Nguyễn Gia Cát phải sau bốn năm mới thành sự thiệt.

* * *

Điều quan trọng là hồi xưa, cả vua ta lẫn vua Tàu, đều lựa chữ ngụ ý tốt lành để đặt làm niên hiệu, chưa từng thấy ai lấy địa danh làm niên hiệu kiểu cù lần lửa làm vậy.

Vậy rốt cuộc chữ “Gia Long” có ý nghĩa gì?

Theo Phạm Đình Hổ (1768-1839) trong “Long Ân tự tấu nghị” 隆恩寺奏議, bài nghị luận với những suy tư về các vấn đề lịch sử, văn hóa và xã hội thời bấy giờ thì: “Nhận mệnh Thế tổ Cao hoàng đế đã bình định đất nước, thống nhất bản đồ, xây dựng kinh đô, mở rộng kinh doanh, lấy Gia Long làm niên hiệu. Cho thấy thần khí đã có nơi hướng về, mệnh trời được quy tụ. Điều nầy ngầm hiểu ngay từ đầu cho điềm lành Bân, Thai dựng nước”[9].

Bân 豳 là tên nước thời xưa, chỗ phát tích nhà Châu. Thai 邰 là đất phong cho Hậu Tắc, thủy tổ nhà Châu. Câu nầy so sánh chúa Nguyễn Hoàng với tiên tổ nhà Châu, vì đã lấy trấn Thuận Hóa làm nền tảng, mở mang thành “Quảng Nam quốc”, định sẵn cơ đồ cho nhà Nguyễn.

Ý Phạm Đình Hổ nói Nguyễn Ánh lấy niên hiệu Gia Long là ngụ ý kế thừa tổ nghiệp, xây nền chánh thống.

Còn theo Đại Nam thực lục thì Nguyễn Hoàng được đặt thụy hiệu là Gia Dụ 嘉裕. Chữ Gia nầy nghĩa là tốt đẹp, rõ ràng chẳng dính dáng gì tới tên đất Gia Định, họa chăng chỉ có thể liên tưởng tới tên… cầu Gia Hội![10]

Còn manh mối khác về chữ Gia, là hồi còn bôn ba đắp mô phục quốc, Nguyễn Ánh có cho đúc đồng tiền “Gia Hưng thông bảo”. Do đó người Thanh còn quen kêu Ánh là “Gia Hưng vương” 嘉興王.

Gia Hưng nầy hổng phải niên hiệu, bởi vì từ lúc đó cho tới khi lên ngôi vương ở Sài Côn (Sài Gòn), Nguyễn Phước Ánh vẫn tôn vua Lê làm chánh thống, nên vẫn xài niên hiệu nhà Lê. Kể từ tháng 5-1802 mới lấy niên hiệu Gia Long cho mình. Mà Gia Hưng đây vốn dính líu với Gia Dụ, tức là “Khởi từ Gia Dụ vương mà hưng thạnh”. Đồng tiền “Gia Hưng thông bảo” do đó ngụ ý đồng tiền cát tường.

Rồi khi lên ngôi chánh vì vương, Nguyễn Ánh bày tỏ hoài bão theo hướng đó, nên lấy niên hiệu Gia Long. Long nầy vừa gần với chữ Hưng trước đó, đều ngụ ý tốt lành, lại vừa để kỷ công: Trải hai mươi năm bất chấp những lận đận thăng trầm, sở dĩ gầy nên nghiệp lớn là nhờ tổ tiên phò hộ.

Gia Long vì vậy hàm nghĩa kế thừa tổ nghiệp từ Gia Dụ vương mà hưng thạnh.
_________

[1] Thịnh Khánh Phất 盛慶紱: Nhà nghiên cứu thời Vãn Thanh, không rõ năm sinh năm mất. Ông là tác giả bộ “Việt Nam địa dư Đồ thuyết” 越南地輿圖說 nổi tiếng (6 quyển, xuất bản năm 1883).

[2] Thanh sử cảo 清史稿: Bản thảo bộ tư liệu lịch sử đời Thanh. Nội dung chép các việc từ khi Nỗ-nhĩ-cáp-xích (Thanh Thái tổ) lập ra nhà Thanh năm 1616 cho tới khi Cách mạng Tân hợi 1911 thành công. Dự án biên soạn nầy bắt đầu năm 1914, khi chính phủ Bắc Dương do Viên Thế Khải đứng đầu lập ra Thanh sử quán, đã mời hơn 100 sử gia biên soạn một bộ “Thanh sử”. Bởi tiếp đó chiến tranh liên miên, bộ sử nầy không thể hoàn thành. Cho tới khi phát hành năm 1929, nó vẫn còn giai đoạn sơ thảo, nên kêu là “Thanh sử cảo” (Cảo 稿 nghĩa là “bản thảo”).

[3] Thái Đình Lan 蔡廷蘭 (1801-1859): Người huyện Bành Hồ (Đài Loan). Năm 1836, trên đường thi hương về gặp bão, dạt vô đất Quảng Ngãi của Việt Nam. Minh Mạng tính đợi tới mùa xuân thuận gió sẽ cấp thuyền đưa Lan về quê. Nhưng ông gấp về săn sóc mẹ già nên đi luôn theo đường bộ. Thái Đình Lan đã đi qua 14 tỉnh miền Bắc và Bắc trung bộ của Việt Nam, đi xuyên Quảng Tây, Quảng Đông, Hạ Môn để về Bành Hồ. Được vua Minh Mạng chiếu cố trọng đãi, suốt chặng đường dài Lan đã kết giao nhiều bậc sĩ phu Việt Nam. Ông ghi chép tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe về phong tục tập quán Việt Nam, viết thành cuốn “Hải Nam tạp trứ” 海南雜著 (phát hành năm 1835). Đây là tài liệu quan trọng về phong tục, dân tình Việt Nam thế kỷ 19 cũng như văn hóa lịch sử đất Bành Hồ.

[4] Bắc Ninh toàn tỉnh Địa dư chí 北寧全省地輿志: Do Mạnh Siêu Nguyễn Trác, người làng Niệm Xá, Vũ Giàng soạn năm 1891, bản chữ Hán ký hiệu thư viện A.2889.

[5] Trang Cát Phát 莊吉發 (1936-): Nhà sử học Đài Loan. Ông là nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Cố cung Quốc gia (Đài Loan), giảng dạy khoa Lịch sử tại Đại học Đàm Giang (Tamkang University) và Đại học Quốc lập Đài Loan (National Taiwan University).

[6] Thôi Bỉnh Húc 崔秉旭 (Choi Byung-wook): Chuyên gia nghiên cứu Việt Nam, giáo sư Đại học Nhơn Hà (인하대학교, Inha University).

[7] Nguyên văn: 永隆省一轄,在此前原屬龍湖營,己亥年(1779)為弘鎮營,庚子年(1780)為永鎮營,嘉隆七年(1808)改為永清鎮,隸於嘉定城。

[8] Nhưng Gia Khánh không chịu, vì tên Nam Việt trùng với nước Nam Việt của Triệu Đà. Bởi e gây ngộ nhận, khiến người nước Nam lầm tưởng cái nước Nam Việt bao gồm cả Lưỡng Quảng đó cũng là của mình, sẽ sinh sự lôi thôi. Nên đảo lại lời cầu xin, ban cho tên là Việt Nam.

[9] Nguyên văn: 奉我世祖高皇帝,蕩定區宇,混一輿圖,建廣德京營,以‘嘉隆’記號,於以見神器有歸、天命所集,已隱然于豳、邰肇造之初。

[10] Gia Hội 嘉會 nghĩa là “cơ hội khó gặp”, lấy ý thơ của danh tướng Lý Lăng đời Hớn:

嘉會難再遇 Gia hội nan tái ngộ
三載為千秋 Tam tải vi thiên thu

(Khó có cơ hội gặp lại, Ba năm bằng ngàn thu).
Không ai để ý phân tích về địa danh long hưng ở Sa Đéc nơi Nguyễn Ánh đặt căn cứ đầu tiên sau khi từ Xiêm về
Nơi giúp ông phát tích giành được thiên hạ

Đây là đền thờ Long Hưng ở sa đéc nơi Nguyễn Ánh lập căn cứ nè
Mày nhìn chữ Long trong Long Hưng nghĩa là thịnh vượng hưng thịnh đúng chữ long trong niên hiệu Gia Long
 
Top