Tư duy phải theo kịp với Truyền thông (Hiện thực giả tạo)

Pavel Korchagin

Già trâu
Chào bạn, có một khán giả góp ý mình nói về một chủ đề là, “truyền thông là quyền lực thứ tư”, thực ra câu này có thể hiểu biết bằng hai cách.
Một là truyền thông là quyền lực thứ tư ngoài quyền lực lập pháp, hành chính và tư pháp.
Hai là truyền thông là quyền lực thứ tư ngoài quyền lực của quý tộc, bình dân và giáo hội.
Nhưng dù sao hai cách hiểu biết này đều có nhấn mạnh một điều là, truyền thông có năng lực hướng dẫn dư luận, cho nên có thể ảnh hưởng chính trị, trong đó có thể mang lại cả lợi ích và tổn hại.
Lợi ích của truyền thông là truyền thông có thể giám sát chính phủ, phơi bày hành vi xấu xí của chính phủ, làm chính phủ không dám hư hỏng.
Tổn hại của truyền thông là truyền thông có thể nói dối, làm người ta bị dắt mũi hay lạc hướng, hay là người ta tận dụng truyền thông công kích nhau, làm xã hội phân cực.
Và trong tính huống của bây giờ, chúng ta có thể nhìn thấy rằng, tổn hại của truyền thông là hiển nhiên hơn lợi ích của nó, tại vì mạng xã hội thật sự tạo điều kiện cho nhiều tin giả/fake news lây truyền, và ý kiến xã hội càng ngày càng phân cực, và bây giờ nước Mỹ đang tìm cách chế ngự quái vật mạng xã hội.
Mình thẳng thắn báo cho các bạn, vì nói về chủ đề của truyền thông, mình thật sự có trải nghiệm nhiều lần thất bại trong việc viết bài, tại vì mình không thể tìm được kết luận.
Khi bắt đầu mình nghĩ rằng, bây giờ sở dĩ mạng xã hội có tạo nên khủng hoảng truyền thông, đó là vì mạng xã hội là một công cụ truyền thông vừa mới ra mắt, trước khi mạng xã hội, mỗi khi có công cụ truyền thông mới vừa mới ra mắt, cũng có tạo nên khủng hoảng truyền thông.
Ví dụ máy tivi và máy ảnh có thể trình bài hình ảnh xúc động tình cảm nhiều hơn, khi báo chí xuất hiện vào thế kỷ 17, cũng được nhiều người tận dụng để tháo túng dư luận đại chúng, nhưng mà bây giờ chúng ta sẽ không thấy báo chí, máy tivi và máy ảnh rất nguy hiểm.
Cho nên mình nghĩ rằng, có lẽ chỉ cần trải qua một đoàn thời gian, cuối cùng nhân loại cũng sẽ tìm được cách để kiểm soát những tổn hại của công cụ mới, ví dụ vào ngày xưa, người ta rất sợ virus máy tính, nhưng bây giờ đã không sợ lắm, nhưng mà sau đó mình phát hiện mình sai rồi.
Từ khi báo chí xuất hiện đến khi mạng xã hội ra mắt, lịch sử truyền thông đại chúng đã trải qua 500 năm, nhưng thực ra, nhân loại không có phát triển ra phương tiện mà có thể càng ngày càng khéo léo để kiểm soát tổn hại của truyền thông, nói chuẩn hơn, nhân loại chỉ có làm quen với tổn hại của truyền thông, không dễ bị ảnh hưởng thôi.
Vì trình bày sự phát hiện này, trong video hôm nay, mình phải nói cùng với sự phát triển trí thức luận, tất nhiên mình sẽ tận lực giới thiệu một cách giản dị, mục đích chỉ là vì chỉ ra một điều là, bây giờ nhân loại đã phải làm quen với một tư duy là, thế giới có nhiều hiện thực, tư duy của chúng ta phải theo kịp với tốc độ ra mắt của công cụ truyền thông.
 
(2. Sophist của cổ Hy Lạp)
Đầu tiên, chúng ta phải làm rõ một điều là, bản chất của tổn hại truyền thông là gì, có lẽ đối với nhiều người, sẽ ngay lập tực nghĩ rằng, chắc chắn là vì truyền thông có thể làm dư luận bối rối, ok thế chúng ta phải đi xem xét sự bối rối dư luận đầu tiên của nhân loại, đó là cổ Hy Lạp.
Văn minh cổ Hy Lạp thì hành chính trị dân chủ đầu tiên của nhân loại, đối với họ, dư luận đại chúng tất nhiên là một vấn đề rất quan trọng, họ có ý thức rằng, để tạo nên dư luận đại chúng tốt lành, thì người dân phải có tự do ngôn luận, trong đó mỗi công dân đều nên có thể phát biểu ý kiến một cách bình đẳng, đó gọi là Isegoria, ngoài ra, mỗi người đều nên có thể phát biểu bất cứ ý kiến gì, đó gọi là Parrhesia.
Đáng tiếc là, cuối cùng chính trị dân chủ cổ Hy Lạp thất bại, và theo Plato, đó là vì Sophist làm dư luận bối rối.
Sophist vốn có nghĩa là những người có kiến thức, có thể mưu sinh bằng cách dạy học mấy môn kiến thức cho người ta, nhưng mà sau đó có một từ ngữ gọi là Sophism, đó có nghĩa là Chủ nghĩa ngụy biện, trong hiện đại, Sophist cũng có nghĩa là nhà ngụy biện.
Theo Plato, sở dĩ Sophist từ thầy giáo biến thành nhà ngụy biện, là vì họ bị hư hỏng khi sử dụng tu từ học/ rhetoric.
Mình thấy có lẽ tu từ học không phải là một phiên dịch tốt cho rhetoric, tại vì nhắc đến tu từ học, chỉ sẽ làm người ta liên tưởng đến học vấn về sử dụng từ ngữ, nhưng ý nghĩa nguyên thủy của rhetoric là học vấn về nói chuyện trước quần chúng, đó là nhấn mạnh năng lực thuyết phục người ta.
Nếu bạn có đọc sách Rhetoric của Aristotle, thì sẽ phát hiện có nhiều nội dung là liên quan đến nên làm thế nào để tận dụng tình cảm và tính tình của người ta để nâng cao sức thuyết phục ngôn luận của chính mình, cho nên Rhetoric không hạn là học vấn về trình bài vấn đề và biện luận, cũng bao gồm kỹ năng quan sát phản ứng và tính tình của người ta, và kích thích tình cảm của người ta.
Có một điều đáng suy ngẫm là, Plato có đặc biệt phân biệt Sophis với Philosopher, tức là nhà triết học.
Plato đặc biệt chỉ ra rằng, nhà triết học là những người hiểu biết nguyên lý ở đằng sau, và có thể chỉ ra sự thật sau hiện tượng cho người ta coi, giống như một người có thể chỉ ra sự vật chân chính sau bóng tối.
Còn Sophist chỉ là sử dụng Rhetoric thuyết phục người ta, nhưng không có chỉ ra sự thật cho người ta, họ chỉ quan tâm có thể tụ tập nhiều người và ảnh hưởng chính trị hay không. Ở đây chúng ta có thể phát hiện bản chất tổn hại của Rhetoric cùng với truyền thông, cả hai đều là công cụ mang mục đích tuyên truyền và thuyết phục người ta, và sở dĩ Rhetoric uy hiểm, là vì Sophist chỉ muốn thuyết phục người ta nhưng không quan tâm sự thật.
Mời bạn chú ý, hành động thuyết phục người ta, chính là muốn trình bày một hiện thực cho người ta, và làm người ta tin vào đó, nếu người thuyết phục không phụ trách với nội dung mà mình trình bày, thì có khả năng là không chỉ là trình bày một hiện thực nhân tạo, thậm chí là một hiện thực giả tạo cho người ta, đó chính là tội lỗi của Sophist, cũng là tội lỗi của truyền thông.
Có một điều trớ trêu là, Plato có đặc biệt viết ra một kịch bản nói về thầy giáo của ông ấy, tức là Socrates bị tố cáo rằng, ông ấy là Sophist và truyền đặt tư tưởng sai lệch cho thế hệ trẻ, làm họ thiếu tôn trọng xã hội của họ.
Thực ra cái mà Socrates muốn làm, là giáo dục thế hệ trẻ sử dụng lý tính của mình để nhìn vào sự thật, không nên bị hạn chế bởi tư tưởng truyền thống.
Plato chính là muốn chỉ ra rằng, Socrates giáo dục người ta sử dụng lý tính để xem xét hiện thực, kết quả là bị người ta tố cáo có ngụy biện, và những Sophist ngụy biện, thì có thể diễn đạt hiện thực nhân tạo bằng miệng, mà không bị chịu trách nhiệm.
Sau đó có nhiều Sophist xuất hiện, có nhiều hiện thực nhân tạo lây truyền trong dư luận, không biết cái nào là đúng, cái nào là sai, chính trị dân chủ của cổ Hy Lạp càng ngày càng hỗn loạn.
Sau đó người dân hy vọng có một nhà vua chuyên chế xuất hiện để kết thúc sự hỗn loạn, kết cục cũng là như vậy, đế quốc La Mã xuất hiện, sau đó tất cả mọi người tin vào Kitô Giáo, từ khi đó mỗi người đều chỉ tiếp nhận một hiện thực, đó là hiện thực mà thượng đế đưa ra và được ghi chép trong Kinh Thánh, tất cả hiện thực khác mà người ta nói, nếu không phù hợp với Kinh Thánh, đều là hiện thực giả tạo và mê tín dị đoan.
Cuối cùng tất cả nhận thức hiện thực của mỗi người, đều phải bị thống nhất theo giáo lý Kitô Giáo, phải chờ 1000 năm nữa, vì kỹ thuật máy in xuất hiện, nhận thức hiện thực trong đầu óc của người ta mới bị thử thách.
 
(3. Pamphlet là truyền thông đại chúng đầu tiên)
Vào năm 1440, Gutenberg phát minh ra máy in, đó tạo điều kiện cho công nghiệp in ấn xuất hiện.
Người ta sử dụng máy in in ấn nhiều Kinh Thánh, Kinh Thánh được phiên dịch thành nhiều phiên bản phương ngôn, vì vậy không phải chỉ có những thầy tu thông thạo Tiếng Latin có thể đọc Kinh Thánh rồi, có nhiều người tuy không thông thạo Tiếng Latin, nhưng có biết chữ của Tiếng mẹ đẻ của mình, cũng có thể đọc Kinh Thánh rồi.
Những người đọc phiên bản phương ngôn của Kinh Thánh, thông qua Tiếng mẹ đẻ của họ, ít hay nhiều, họ sẽ nhìn thấy một thượng đế khác biệt với trong phiên bản Tiếng Latin, nếu họ tin rằng, thượng đế mà họ tự nhìn thấy là chân thực hơn trong sự truyền đạo của thầy tu Công Giáo, thì có nghĩa là họ có nhận thức một hiện thực mới.
Vì vậy sự thống nhất của nhận thức hiện thực trong Công Giáo bị phá vỡ, đó tạo cơ hội cho cuộc cải cách Đạo Tin Lành xuất hiện, sau đó người ta cũng không chỉ sử dụng máy in để in ấn cuốn sách, cũng có in ấn pamphlet.
Có lẽ trong tiếng Việt, pamphlet có thể được phiên dịch thành sách nhỏ, nhưng mà nhắc đến sách nhỏ, mình tin rằng đa số người sẽ liên tưởng đến hình dạng như vậy, thì đó không phải là pamphlet, cho nên xin để mình trực tiếp sử dụng từ ngữ pamphlet.
Pamphlet là một tờ giấy có thể được gấp lại thành nhiều trang, trong cuộc đấu tranh giữa giáo hội Công Giáo và giáo hội Đạo Tin Lành, người ta bắt đầu sử dụng pamphlet để tuyên truyền quan điểm và công kích với nhau, vì pamphlet chỉ có một tờ giấy, cho nên dễ in ấn và lưu thông, cho nên có thể nói rằng, pamphlet là truyền thông đại chúng đầu tiên của nhân loại.
Nhưng mà khi pamphlet vừa mới ra mắt vào thế kỷ 16, có nhiều người phàn nàn rằng, những nội dung trên pamphlet đều là nội dung xàm, đều là vì thỏa mãn những sự ham muốn dung tục và phiến kiện của đại chúng, một người có kiến thức nên đi đọc sách, không nên coi pamphlet, bài văn trên pamphlet đều rất ngắn, không có trình bày biện chứng đầy đủ, nếu nói một người thích coi pamphlet, thì có nghĩa là làm nhục người đó. Chúng ta có thể phát hiện, trong thời gian tiếp theo, mỗi khi có công cụ truyền thông mới xuất hiện, người ta đều sẽ phàn nàn về tính dung tục của nó, nhưng cuối cùng ai ai đều phải sử dụng, tại vì tính lưu thông của công cụ mới thất sự rất tốt, không thể không dùng.
Đó là vì sao, địa vị của pamphlet càng ngày càng quan trọng, tại vì mỗi khi có xung đột chính trị hay tôn giáo xảy ra, người ta nhất định phải sử dụng pamphlet để thu hút quần chúng, cho nên xuất hiện nhiều lần “chiến tranh pamphlet”, người trí thức bị bắt buộc sử dụng pamphlet để truyền đạt lý thuyết và quan điểm, vì vậy nội dung trên pamphlet càng ngày càng dài, khi bắt đầu một pamphlet chỉ có một trang, sau đó có thể dài đến phải gấp thành 96 trang, và nội dụng trên nó cũng dài đến có thể trình bày biện chứng đầy đủ.
Cũng có xuất hiện một số tác phẩm sâu sắc, ví dụ “Lẽ Thông Thường” của Thomas Paine, chính là một pamphlet.
Sau đó pamphlet phát triển thành báo chí.
 
(4. Báo Chí)
Từ pamphlet phát triển thành báo chí, đó có thể nói là một sự nâng cấp của truyền thông đại chúng, tại vì tác giả của pamphlet chỉ có một người, và nội dung cũng chỉ là ý kiến cá nhân của tác giả thôi.
Còn báo chí là có nhiều tác giả trình bày ý kiến, và có nhà báo chuyên môn đi sưu tập các loại thông tin, nói đơn giản là, báo chí là chuyện nghiệp hơn pamphlet, cũng là đáng tin cậy hơn, nhưng mà đó không có nghĩa là báo chí sẽ không bị người ta lạm dụng.
Vào thế kỷ 17, ở nước Anh, quốc hội và nhà vua Charles I triển khai cuộc đấu tranh với nhau, những người ủng hộ nhà vua có một báo chí gọi là Marcus Aulicus, những người ủng hộ quốc hội có một báo chí gọi là Marcus Britannicus, hai bên công kích với nhau, làm dư luận bối rối.
Sau đó nước Anh xảy ra nội chiến, phe quốc hội thắng lợi, Cromwell xây dựng độc tài quân sự, sau đó Charles II làm nhà vua, bắt đầu từ năm 1662, nước Anh thi hành một pháp luật kiểm soát báo chí.
Đó là “Luật Giấy Phép”, mang mục đích “ngăn chặn các lạm dụng thường xảy ra trong việc in sách và pamphlet gây rối, phản bội quốc gia và không được cấp phép và cho quy định về sự in ấn và báo chí.”
Theo pháp luật này, chỉ có những báo chí được chính phủ cung cấp giấy phép mới có thể xuất bản, sau đó nước Anh xảy ra “Cách Mạng Vĩnh Quang”, xác định rằng, địa vị quốc hội là cao hơn nhà vua, tình huống của đấu tranh chính trị có được giảm bớt.
Vì vậy bắt đầu từ năm 1695, có một số nhà chính trị nước Anh muốn thúc đẩy quốc hội loại bỏ Luật Giấy Phép, họ thấy chính phủ không cần lo sợ khủng hoảng truyền thông nữa, nhưng mà cũng có một số nhà chính trị khác kiên trị rằng, chính phủ phải hạn chế tự do ngôn luận.
Dù sao cuối cùng vào năm 1710, có một pháp luật mới thay thế Luật Giấy Phép, đó là Luật Bản Quyền, nó quy định rằng, nhà xuất bản phải lấy được sự đồng ý của tác giả mới có thể xuất bản tác phẩm của tác giả, đó là bản quyền của tác giả.
Nếu các bạn thấy mục đích của bản quyền là bảo hộ lợi ích của tác giả, đó tất nhiên là không có sai, nhưng mà khi những nhà chính trị nước Anh đưa ra pháp luật bản quyền, mục đích chủ yếu thực ra là hạn chế thế lực của nhà xuất bản.
Cụ thể là vì nhà xuất bản phải lấy được sự đồng ý của tác giả, cho nên chắc chắn phải trả tiền cho tác giả, vì vậy nhà xuất bản không thể in ấn cuốn sách và báo chí một cách giá rẻ nữa.
Vào ngày xưa, sở dĩ pamphlet và báo chí có thể bị người ta lạm dụng, chính là chi phí in ấn pamphlet và báo chí rất rẻ, cho nên chính phủ nước Anh là sử dụng bản quyền để nâng cao chi phí in ấn của nhà xuất bản, làm họ không dám xuất bản một cách tùy tiện, làm họ phải lo ngại chi phí xuất bản, hạn chế thế lực của họ.
Dù sao, bây giờ chúng ta biết rằng, chính phủ có thể sử dụng giấy phép và cách nâng cao chi phí xuất bản để kiểm soát tổn hại của truyền thông, thế sau đó có thành công không?
Khó nói.
Vào thế kỷ 18, vì có kiểm soát của chính phủ, cho nên không phải là mỗi người đều có thể xuất bản tác phẩm và ảnh hưởng dư luận nữa, nhưng mà sản nghiệp báo chí vẫn phát triển rất mạnh mẽ, tại vì tỷ lệ biết chữ càng ngày càng cao.
Đến thế kỷ 19, tư bản tập trung vào mấy báo chí, có xuất hiện mấy báo chí lớn có thể phát hành ở toàn quốc, có sức ảnh hưởng dư luận rất lớn, và có nhiều nhà chính trị phải cấu kết với nhà báo để thu hút sự ủng hộ trong cuộc bầu cử.
Cuối cùng báo chí cũng biến thành một công cụ đưa ra hiện thực nhân tạo để thuyết phục người ta, thế có khác biệt gì với những Sophist trong cổ Hy-Lạp?
Có lẽ vào hiện đại, có một chút khác biệt, tại vì nhân loại có nhận thức rằng, phải có ý thức khoan dung những ý kiến trái chiều.
 
(5. Chủ nghĩa kinh nghiệm)
Vào năm 1692, nhà triết học nước Anh John Locke viết ra một bài văn gọi là “Một lá thư liên quan đến sự khoan dung”.
Ông ấy nói rằng, điều mà một người tin vào trong đầu óc, nó sẽ không bị thay đổi bởi cưỡng chế vật lý, cho nên dù là giáo hội và chính phủ, đều không có năng lực thay đổi được tín ngưỡng và ý kiến của người dân, bằng cách bạo lực, chúng ta nên khoan dung và tiếp nhận một điều là, mỗi người đều sẽ có ý kiến và tín ngưỡng của riêng mình.
Mời bạn chú ý, khoan dung người ta có ý kiến và tín ngưỡng khác biệt, đó không phải là thiên tính của con người, John Locke là nhìn thấy rằng, sau khi máy in được phát minh ra, Châu Âu đã trải qua nhiều năm sự bối rối dư luận, cuối cùng mới khuyên nhủ người ta khoan dung với nhau.
Thiên tính của con người là muốn duy trì một thế giới quan nhất quán, cụ thể là khi còn trẻ có được truyền đặt một tư tưởng nào đó trong đầu óc, thì sau khi trưởng thành sẽ thiên về sử dụng tư tưởng đó để giải thích cuộc sống của chính mình.
Ví dụ khi còn trẻ, có được giáo dục rằng, thượng đế và thiên đường có tồn tại, sau khi trưởng thành, nếu nhìn thấy có một người nào đó phản đối giáo hoàng, thì sẽ tự nhiên nghĩ rằng.
“Chắc là bạn nói sai, tôi luôn luôn được giáo dục rằng
giáo hoàng là thần thánh, nếu giáo hoàng không thần thánh, thì tại sao người ta luôn luôn báo cho tôi là vậy?”
Đúng rồi đó, đối với người đó, giáo hoàng là thần thánh, đó là một nhận thức hiện thực được hình thành trong đầu óc từ khi còn nhỏ, cho nên khi nhìn thấy ý kiến trái chiều, sẽ tự nhiên cảm thấy nhận thức hiện thực của mình bị thử thách, và mục đích của John Locke, chính là nhắc nhở người ta rằng.
Trong một thời đại có truyền thông đại chúng, người ta sẽ luôn luôn tiếp xúc nhiều thông tin trái chiều với nhận thức hiện thực của chính mình, cho nên người ta nên làm quen với nhận thức của mình luôn luôn bị thử thách.
John Locke cũng có viết ra một bài văn có tên là “Một tiểu luận liên quan đến sự hiểu biết của con người.”
Đó đưa ra một chủ nghĩa kinh nghiệm rằng, tâm trí của con người vốn là giống như một giấy trắng.
Nội dung trên nó là được quyết định thông qua con người có cảm giác gì bằng giác quan, cái mà được cảm giác gọi là dữ liệu giác quan/ sense data, sau đó tư duy của con người sẽ sắp xếp lại những dữ liệu giác quan thành nhận thức/perception.
Nói đơn giản là, giác quan có cảm giác như thế nào, thì đầu óc sẽ có nhận thức như thế nấy, cho nên nhận thức hiện thực của chúng ta, sẽ bị hạn chế.
Một người có thể có kinh nghiệm như thế nào, đó là bị hạn chế bởi hoàn cảnh cuộc sống, hoàn cảnh cuộc sống của mỗi người không nhất định giống nhau, gia đình khác biệt, quốc gia khác biệt, lịch sử cũng khác biệt, vì vậy có nhận thức hiện thức khác biệt cũng là điều bình thường.
Vì vậy John Locke đưa ra một kết luận là, “kiến thức của một người không vượt qua kinh nghiệm của chính mình.”, hay là sâu sắc hơn nữa, “kiến thức mà bạn nói, chỉ là sự nhận thức về sự đồng ý hoặc không đồng ý của các ý tưởng của riêng mình, nhưng mà ai biết được những ý tưởng đó có thể là gì.”
Đó có nghĩa là bạn nghĩ bạn có biết là một chuyện, cái mà bạn nghĩ bạn có biết có phù hợp với thực tế hay không, đó là một chuyện khác, tôn trọng kinh nghiệm, mà không bị dắt mũi bởi nhận thức hiện thực trong đầu óc mình, và không bị dắt mũi bởi hiện thực nhân tạo trong truyền thông, đó chính là tinh thần của chủ nghĩa kinh nghiệm.
 
(6. Ưu điểm của chủ nghĩa kinh nghiệm)
Trên giới học thuật, có một định kiến cho rằng, truyền thống kiến thức của nước Anh và nước Mỹ là thiên về chủ nghĩa kinh nghiệm/Empiricism, còn ở đại lục Châu Âu là thiên về chủ nghĩa lý tính/Rationalism.
Và người Anh cũng luôn luôn tự hào rằng, chính là vì họ kiên trì chủ nghĩa kinh nghiệm, cho nên nước Anh không có xảy ra cách mạng khốc liệt như đại lục Châu Âu.
Chủ nghĩa lý tính chủ trương rằng, lý tính mới là tiêu chuẩn để cấu trúc nhận thức, và đôi khi con người sẽ bị lừa đảo bởi giác quan của chính mình, cho nên phải sử dụng lý tính để phán đoán hư thật.
Ví dụ nói về “hình tròn”, trong đầu óc của mỗi người, đều có một khái niệm hình tròn giống nhau, không thể nói rằng vì kinh nhiệm khác biệt, cho nên có khái niệm hình tròn khác biệt, ví dụ nếu một người nói bóng đá không phải hình tròn, thì chúng ta chỉ có thể nói người đó không biết khái niệm hình tròn, không thể nói rằng, kinh nghiệm về hình tròn của người đó rất độc đáo.
Thực ra trên góc nhìn triết học, cả chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa lý tính đều có lý, khó nói ai đúng ai sai, nhưng mà trên mặt chính trị, chủ nghĩa kinh nghiệm thì ít rủi ro hơn.
Tại vì chủ nghĩa kinh nghiệm có thể chấp nhận rằng, kinh nghiệm của con người có hạn, cho nên nhận thức của con người cũng có hạn, vì vậy trên mặt chính trị, thì sẽ thiên về chủ nghĩa bảo thủ, rất cẩn thận với những thứ mà chưa được trải nghiệm, không dám có cải cách lớn hay cách mạng.
Còn chủ nghĩa lý tính thì có tự tin với lý tính, cho nên nếu lý tính đã suy nghĩ đầy đủ về một kế hoạch nào đó rồi, thì ngay cả thiếu dữ liệu kinh nghiệm, cũng có thể không ngại đi thực hiện, đáng tiếc là, lịch sử Cách mạng Pháp đã báo cho chúng ta rồi, hiện thực rất thảm khốc, kế hoạch luôn luôn bị thực tế cản trở.
Nói đơn giản là, trên mặt chính trị, chủ nghĩa kinh nghiệm là vững chắc hơn, tại vì có cẩn thận với một điều, nhận thức hiện thực của chúng ta có lẽ sẽ không phù hợp với thực tế, đặc biệt là nhân loại càng ngày càng khéo léo sử dụng nhiều công cụ để đưa ra hiện thực nhân tạo tinh tế hơn.
 
(7. tín hiệu vô tuyến điện)
Vào năm 1844, tín hiệu vô tuyến ra mắt, người ta không cần truyền đạt thông tin bằng cách gửi lá thư nữa, có thể trực tiếp phát tín hiệu, mặc kệ khoảng cách vật lý, miễn là có thiết lập trạm điện báo, thì có thể liên kết với toàn thế giới, báo chí có thể cung cấp tin tức cập nhật và từ chỗ xa xưa, vì vậy hiện thức được trình bày trên báo chí thì trông đáng tin cậy hơn nữa, tại vì khi người ta coi báo chí sẽ nghĩ rằng.
“Hóa ra đó chính là thế giới!”
Trước khi có tín hiệu vô tuyến, người ta chỉ có thể nhìn thấy tin tức về quốc gia hay địa phương của mình trên báo chí, bây giờ người ta có thể coi được toàn thế giới trên báo chí rồi, vì vậy cũng sẽ làm báo chí có một năng lực không thua với Kinh Thánh.
Đó chính là xây dựng thế giới quan của độc giả, tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân tộc, hay bất cứ vận động ý thức hệ chính trị xuất hiện.
Các bạn có biết sách “Những Cộng Động Tưởng Tượng” của tác giả Benedict Anderson không?
Trong đó có một khái niệm là, dân tộc là một cộng động tưởng tượng, và sở dĩ người ta có thể tưởng tượng, là vì báo chí có thể cung cấp tin tức cập nhật cho mỗi người, khi mỗi người đồng thời cùng nhau theo dõi một câu chuyện, những tin tức và bình luận trên báo chí của mỗi ngày, có thể đưa ra một hiện thực nhân tạo cho độc giả, khiến họ nghĩ rằng, đó đại diện một thế giới chân chính ở bên ngoài.
Và nếu họ không tiếp nhận thế giới trên báo chí này, thì họ sẽ đi đâu tìm thế giới khác?
Nếu họ không theo dõi và không hiểu biết tin tức trên báo chí, thì sẽ bằng với bị thế giới bỏ rơi, chỉ có báo chí có thể báo cho họ thế giới đang xảy ra cái gì và đi hướng nào, vì vậy có thể cấu trúc thế giới quan của họ.
Đó chính là vì sao, dừa vào báo chí, quốc gia có thể động viên người dân, người dân có thể tạo áp lực tập thể cho người ta, và mình cũng giải thích tại sao áp lực tập thể sẽ xuất hiện trong video hồi trước rồi, và đó có tạo nên bi kịch trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau đó nhân loại cũng có phát minh ra máy ảnh, bộ phim và máy tivi, tăng thêm sức thuyết phục của truyền thông, có thể trình bày hiện thực nhân tạo giống thật hơn, nhưng vì sự khốc liệt của chiến tranh, người ta cũng phát triển ra trí thức luận mà có thể tiếp nhận “hiện thực đa dạng.”
 
(8. Chỉ nghĩa hiện sinh)
Thưa quý vị, có một khán giả hy vọng mình có thể nói về “chủ nghĩa hiện sinh”/existentialism, xin để mình nhận tiện nói về nó ở đây.
Tại vì nếu vẹn vẻn giới thiệu chủ nghĩa hiện sinh trong một video, thì phải chỉ tập trung nói về triết lý của nó, mình tin rằng, đó sẽ làm đa số khán giả cảm thấy nhàm chán, nhưng mà nếu bỏ vào nó trong một ngữ cạnh thực tế hơn, ví dụ “tổn hại của truyền thông” của video hôm nay, thì sẽ dễ hiểu và giản dị hơn.
Theo mình, chúng ta có thể thấy chủ nghĩa hiện sinh là tương tự với chủ nghĩa kinh nghiệm, đó là một phản ứng với khủng hoảng truyền thông, và một hoài nghi cho nhận thức hiện thực của chính mình.
Chủ nghĩa hiện sinh là được phổ biến sau khi chiến tranh thế giới thứ hai, đó là vì người ta nhìn thấy bộ máy nhà nước có thể tận dụng truyền thông, đưa ra một hiện thực nhân tạo để thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khiến người ta hoàn toàn tin vào đó và kết quả là chịu tổn hại rất lớn, sự kết thúc của chiến tranh là bằng với sự phá vỡ của ảo tưởng hiện thực.
Chủ nghĩa hiện sinh chủ trường rằng, nhận thức hiện thức của chúng ta, là được quyết định bởi cái mài đang có trong cuộc sống, không có một bản chất mãi mãi cố định bất biến, và cũng không có một mục đích nhất định, tại sao một người nghĩ vậy và muốn vậy, đều là được tạo nên bởi những cái mà đáng có trong cuộc sống của người đó, không hạn là yếu tố ngoài đời, cũng bao gồm phiến kiện trong nội tâm, vì vậy khi những chủ nghĩa dân tộc cực đoan kêu gọi rằng.
“Chúng ta là một dân tộc, dân tộc ta có một bản chất, dân tộc ta phải hoàn thiện một sứ mệnh lịch sử.”
Theo chủ nghĩa hiện sinh, đó là ảo tưởng, sở dĩ những người kêu gọi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thưc ra đều không phải có một dân tộc thật sự tổn tại trước, mà là vì những điều kiện trong cuộc sống của họ, khiến họ muốn thuộc về một dân tộc, và muốn làm ra một cái gì nào đó, cho nên phát minh dân tộc.
Ví dụ sở dĩ người Đức thấy người Do Thái là dân tộc tồi tệ, thực ra có nhiều phẩn là vì họ không thể chấp nhận mình bị đánh bại trong chiến tranh thế giới thứ nhất, cho nên phải đổ lỗi cho người ta, và người Do Thái chỉ là tình cơ bị đổ lỗi thôi.
Có thể nói rằng, so sánh với chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa hiện sinh có đưa ra một thái độ cẩn thận hơn.
Chủ nghĩa kinh nghiệm tuy có nói rằng, nhận thức hiện thực của con người sẽ bị hạn chế bởi kinh nghiệm, nhưng nếu có kinh nghiệm đầy đủ, thì vẫn có thể xém xét nhận thức hiện thực của chính mình là đúng hay sai.
Ví dụ tôi nhận định một người là người xấu, nếu sau đó người đó thật sự có ăn cướp tài sản của người ta, thì tôi có thể tự tin nói rằng, kinh nghiệm đã chứng minh nhận định của tôi là đúng.
Còn chủ nghĩa hiện sinh thì không đơn giản thế, họ sẽ nghi ngờ rằng, tôi thấy người đó có ăn cướp tài sản cho nên là người xấu, có lẽ đó chỉ là phiến kiện của tôi thôi, có lẽ trong điều kiện cuộc sống của người đó, người đó ăn cướp tài sản có lý do bất đắc dĩ, vẹn vẻn hành vi của người đó không thể chứng minh người đó là người xấu, chúng ta phải xem xét cuộc sống của người đó một cách toàn diện, mới có thể xác định, có lẽ người đó ăn cướp tài sản là vì muốn có tiền trả chi phí y tế cho con gái.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa hiện sinh là một thái độ chấp nhận rằng, mỗi người vì chịu điều kiện cuộc sống, sẽ tự cấu trúc một nhận thức hiện thực trong đầu óc của chính mình, trong đó khó nói ai đúng ai sai, ai thật ai giả, nhưng mà nếu mình đã có ý thức vấn đề này rồi, thì sẽ phải tiếp nhận rằng, trên thế giới này có nhiều phiên bản hiện thực trong đầu óc của người ta, không chỉ là vậy, cũng phải xem xét nhận thức hiện thực trong đầu óc của chính mình là hình thành như thế nào, nhưng mà đáng tiếc là, hình như người ta thiếu ý thức này trong khủng hoảng truyền thông của bây giờ.
 
(9. Khủng hoảng truyền thông mạng xã hội)
Bây giờ ở phương Tây, có nhiều người trí thức thấy rằng, Donald Trump có thể làm tổng thống, đó là một triệu chứng là truyền thông đã bị lạm dụng, tại vì trước khi Donald Trump tuyên bố tham gia bầu cử, ông ấy hoàn toàn không có kinh nghiệm trong hoạt động chính trị.
Nhưng mà ông ấy được đề cử đại diện Đảng Cộng Hòa tham gia cuộc bầu cử tổng thống, và sau đó có thể đánh bại Hillary.
Chồng của Hillary từng có làm tổng thống, Hillary từng có làm nguyên lão thượng viện 8 năm, làm bộ trưởng ngoại giao 4 năm, ba ầy có mạng lưới quan hệ trong vọng chính trị nhiều hơn hẳn Trump.
Cho nên Trump được trúng cử, tất nhiên là vì ông ấy thông thạo sử dụng truyền thông tạo hình dạng cá nhân, thu hút nhiều người ủng hộ, mà không phải là ở lừng sau có nhiều ông chủ chính trị ủng hộ.
Tất nhiên trong khi bắt đầu, có nhiều người thấy sự thắng lợi của Trump, có thể đại diện dân chủ đại chúng chiến thắng chính quyền ngầm của người tinh hoa thiểu số, nhưng mà sau đó người ta phát hiện, khi Trump sử dụng truyền thông mạng xã hội tạo quan hệ thân mật với quần chúng, ví dụ sử dụng Twitter, ông ấy có xúc phạm tình cảm của nhiều người, và cũng làm xã hội phân cực, cuối cùng thậm chí bị tố cáo rằng, có sử dụng Twitter xúi giục bạo động ở quốc hội.
Có một điều trớ trêu là, thực ra trước khi Trump, Obama mới là tổng thống đầu tiên sử dụng truyền thông mạng xã hội đánh bại Hillary.
Trước khi Obama tuyến bỏ tham gia bầu cử tổng thống, ông ấy cũng chỉ có làm 4 năm nguyên lão thượng viện, mạng lưới chính trị cũng thua hơn hẳn Hillary, nhưng cũng đánh bại Hillary, được Đảng Dân Chủ đề cử, người ta bảo là ekip của Obama thông thạo sử dụng mạng xã hội, đưa ra khẩu hiệu ngắn gọn và dễ nhớ, “Yes we can!”
Cũng là bắt đầu từ thời đại Obama, nước Mỹ bước vào thời đại chính trị căn tính/Identity Politics, nói nôm na là người ta tin rằng, bản sắc chủng tộc, giới tính hay tôn giáo sẽ quyết định ý kiến và chính sách của một nhà chính trị.
Từ ngữ “Chính trị căn tính” là bắt đầu xuất hiện vào những năm 1970, nhưng mà khi đó nó chỉ là một khái niệm cho sự phân tích ý kiến chính trị của những nhóm người thiểu số, ví dụ phụ nữ da đen hay bê đê.
Là vì mạng xã hội xuất hiện, chính trị căn tính mới biến thành yếu tố quan trọng, tại vì mạng xã hội tạo điều kiện cho người ta vượt qua rào cản không gian, kết bạn trên mạng.
Trước khi mạng xã hội xuất hiện, khi một người nghĩ đến bản sắc chủng tộc hay giới tính của chính mình, thông thường chỉ sẽ liên tưởng đến cuộc sống riêng tư của chính mình, ví dụ vì tôi là một người da đen, cho nên bị người ta kỳ thị, tôi bị kỳ thị, đó là một kinh nghiệm riêng tư.
Sau khi mạng xã hội xuất hiện rồi, khi tôi chia sẻ kinh nghiệm bị kỳ thị trên mạng, nếu người ta nhìn thấy và cũng chia sẻ kinh nghiệm tương tự, sau đó có nhiều người bàn luận, thì kinh nghiệm đó sẽ không hạn là thuộc về cuộc sống riêng tư, mà là một vấn đề xã hội.
Nói đơn giản là, chính trị căn tính là hình thành trong một tình huống là, mạng xã hội có thể phóng đại kinh nghiệm riêng tư thành vấn đề xã hội, vì vậy khiến người ta muốn yêu cầu chính phủ giải quyết, và tin rằng chỉ có nhà chính trị có bản sắc hay xuất thân tương tự, mới sẽ đi giải quyết vấn đề tương ứng.
Ví dụ Obama là người da đen, cho nên người ta tin rằng, ông ấy chắc sẽ đi giải quyết vấn đề về người da đen.
Trump là người da trắng, cho nên người ta tin rằng, ông ấy chắc sẽ đi giải quyết vấn đề về người da trắng.
Cho nên chúng ta có thể nhìn thấy nội các đa dạng của tổng thống Biden.
Nhưng mà đó có phải là hiện thực chân chính không?
Một người bị kỳ thị, liệu rằng thật sự là vì bản sắc chủng tộc, tôn giáo hay giới tính của người đó, hay chỉ là người đó khó tính thôi?
Có nhiều người bản sắc giống nhau đều bị kỳ thị, liệu rằng thật sự là một vấn đề xã hội, hay chỉ là tình cơ có nhiều người bình luận trong một trang web giống nhau thôi?
Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy, nước Mỹ bắt đầu đưa ra một số chương trình có mời nhiều nhân vật có bối cạnh khác biệt để giao lưu, đó chính là một biện pháp giải quyết thông qua sự trình bày nhận thức hiện thực của mỗi bên, và hy vọng có thể thúc đẩy sự thông cảm của mỗi bên.
Bây giờ chúng ta không chắc biện pháp này sẽ thành công hay không, có lẽ đó sẽ phóng đại sự phân cực nhiều hơn, cuối cùng người dân hy vọng có thể thống nhất các nhận thức hiện thực vào một ý thức hệ, giống như Kitô Giáo thống nhất tư tưởng vào 2000 năm trước.
FB

Tùng Tùng Soong

 

Có thể bạn quan tâm

Top