Cảnh báo lừa đảo‼️ Vạch trần các chiêu thức PHÁ HOẠI NỀN GIÁO DỤC trên khắp thế giới của tà đạo congsan

2.5 Các thủ đoạn thâm nhập giáo dục

2.5.1 Khống chế giáo dục trung học và tiểu học ở Mỹ
Trong thời gian dài sau khi thành lập nước Mỹ, chính phủ liên bang không hề kiểm soát giáo dục; giáo dục là việc của giáo hội và chính quyền các bang. Năm 1979, chính phủ liên bang thành lập Bộ Giáo dục. Kể từ đó, quyền lực của Bộ Giáo dục ngày càng mở rộng. Đến ngày nay, quyền lực của Bộ Giáo dục trong việc thao túng chính sách giáo dục, phân bổ kinh phí giáo dục… đã vượt xa trước đây. Các phụ huynh, nhà trường, chính quyền tiểu bang đã từng có tiếng nói rất lớn đối với giáo dục, nay càng phải nghe theo lời của các quan chức chính phủ liên bang. Nói cách khác, phụ huynh và nhà trường đã dần dần mất đi quyền quyết định dạy cái gì và dạy như thế nào.

Cần phải chỉ ra rằng bản thân quyền lực là trung lập, người có quyền lực có thể sử dụng quyền lực làm việc xấu, cũng có thể sử dụng quyền lực làm việc tốt. Tập trung quyền lực đơn thuần không nhất định là việc xấu, còn cần xét xem con người và cơ quan có quyền lực ấy sử dụng quyền lực như thế nào hoặc sử dụng quyền lực để đạt được mục tiêu gì. Sở dĩ việc tập trung quyền lực giáo dục ở Mỹ có vấn đề là vì chủ nghĩa Marx đã dùng trăm phương nghìn kế để thâm nhập vào các cấp chính phủ, đặc biệt là các cấp cao trong chính phủ. Trong tình huống này, một khi đưa ra quyết định sai lầm thì sẽ gây ảnh hưởng trên diện rộng, mà số ít những người tỉnh táo sẽ rất khó chống cự lại.

Một hậu quả mà tập trung hóa giáo dục gây ra là các quan chức quản lý giáo dục trong một thời gian ngắn sẽ không thể thấy được quá trình phát triển của chính sách giáo dục cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó. Rất nhiều người có trình độ nghiệp vụ hạn chế, cho dù một số sự việc khiến họ nghi ngờ, nhưng đa phần họ đều không có đủ thời gian, sức lực, tài nguyên và dũng khí để tìm ra căn nguyên. Cho dù một số người thể hiện sự nghi ngờ, chất vấn đối với chính sách, nhưng trong tay họ lại không có đủ những mảnh ghép của một bức tranh tổng thể, khi bị cấp trên gây áp lực về thời gian, họ chỉ có thể than phiền, phê phán chứ rất khó quyết định được gì. Mỗi cá nhân đều trở thành một bộ phận của một cỗ máy khổng lồ, không dễ để họ nhận ra quyết sách hoặc hành vi của mình sẽ gây cho học sinh hoặc xã hội hậu quả gì, họ dần dần coi nhẹ đạo đức nghề nghiệp của mình. Lúc đó, chủ nghĩa ******** sẽ thừa cơ lợi dụng yếu điểm của hệ thống này và mặc sức phá hoại sự phòng ngự của xã hội, hết mặt này đến mặt khác.

Bên cạnh đó, trường đại học sư phạm, nhà xuất bản, cơ quan chứng nhận giáo dục, cơ quan chứng nhận giáo viên cũng có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với giáo dục, do vậy cũng trở thành mục tiêu thâm nhập.

2.5.2 Vai trò của công đoàn giáo viên
Trong các phần trước chúng ta đã biết việc chủ nghĩa ******** lợi dụng và thao túng đối với công đoàn. Công đoàn giáo viên Mỹ cũng trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thất bại của giáo dục. Điều công đoàn giáo viên hướng tới không phải là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học, không kết hợp thành tích của học sinh với thành tích dạy học của giáo viên, mà đã trở thành tổ chức nghề nghiệp khuyến khích những giáo viên thất bại và bảo vệ cho những giáo viên không xứng đáng, khiến cho rất nhiều giáo viên muốn cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và thực sự tâm huyết với học sinh trở thành vật hy sinh.

Năm 1993, Tracey Bailey, một giáo viên môn khoa học của một trường trung học phổ thông ở Florida được trao giải thưởng Giáo viên của Năm. Bấy giờ, chủ tịch Hội Liên hiệp Giáo viên Mỹ nói rằng ông ta rất vui mừng vì thành viên công đoàn của ông ta nhận được vinh dự này. Tuy nhiên, sự thật là Bailey đã ra khỏi công đoàn. Bailey tin rằng công đoàn giáo viên chính là nguyên nhân mấu chốt gây ra sự thất bại của nền giáo dục công của Mỹ; chính công đoàn mới là vấn đề chứ không phải là giải pháp. Ông cho rằng công đoàn chỉ là tập đoàn bảo vệ lợi cho chính nó, là trụ cột của một hệ thống chỉ khuyến khích những kẻ xoàng xĩnh, tầm thường và bất tài.

Các công đoàn giáo viên lớn ở Mỹ có nguồn tiền dồi dào, có sức ảnh hưởng lớn, có địa vị quan trọng thuộc hàng bậc nhất trong các nhóm vận động chính trị. Công đoàn giáo viên trở thành trở ngại chính cho việc cải cách trong nội bộ hệ thống giáo dục. Lấy ví dụ, Hiệp hội Giáo viên California (CTA) thuộc Hiệp hội Giáo dục Mỹ (AFT) có rất nhiều tiền do các thành viên gây quỹ để dùng để tác động vào việc lập pháp và các khoản quyên góp chính trị nhằm thực hiện chủ trương của nó. Năm 1991, California muốn đưa Đề xuất 174 vào hiến pháp của bang để cho phép các gia đình sử dụng phiếu voucher trường học do chính quyền bang cung cấp để có thể lựa chọn trường học tốt nhất cho con em mình. Song, CTA lại ra sức cản trở đề xuất này, thậm chí còn ép một trường hủy hợp đồng kinh tế với một chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh hamburger đã quyên góp 25.000 USD cho đề xuất này.

2.5.3 Xóa bỏ ảnh hưởng của gia đình trong quá trình giáo dục
Một mục tiêu then chốt nữa của chủ nghĩa ******** là tách trẻ em khỏi cha mẹ ngay từ khi mới sinh ra, để cho công xã hoặc nhà nước nuôi dưỡng. Thực hiện được điều này không hề dễ dàng, nhưng ma quỷ đã dùng rất nhiều biện pháp linh hoạt, âm thầm lèo lái mọi việc theo hướng này.

Ở các quốc gia ********, học sinh con nhà “tư sản” được khuyến khích đoạn tuyệt quan hệ với cha mẹ. Ngoài ra, nền giáo dục mang định hướng thi cử khiến trẻ em phải dành nhiều thời gian học hành, từ đó làm giảm ảnh hưởng của cha mẹ đối với trẻ em. Ở các quốc gia phương Tây, có nhiều phương thức khác nhau để loại bỏ ảnh hưởng của gia đình trong việc giáo dục con cái, chẳng hạn như kéo dài tối đa thời lượng học ở trường, hạ thấp tuổi nhập học của học sinh, không cho học sinh mang sách giáo khoa và tài liệu học tập về nhà, không khuyến khích học sinh hỏi ý kiến cha mẹ về các chủ đề có tính tranh luận được học trên lớp.

Những khóa học “Làm rõ giá trị quan” đã chia cách quan hệ giữa học sinh và gia đình. Ví dụ như một phụ huynh học sinh tham gia khóa học “Tìm hiểu” (Quest) phản ánh lại như sau: “Có vẻ như phụ huynh luôn bị khắc họa bằng những hình ảnh tiêu cực. Câu chuyện kể về quan hệ cha con, thì người cha luôn áp đặt, quá nghiêm khắc, luôn không công bằng”. Câu từ thường dùng trong những khóa học này là: “Cha mẹ bạn không hiểu được bạn, chúng tôi mới là người hiểu bạn”.

Có trường hợp pháp luật quy định học sinh muốn tham gia hoạt động nào đó, trước tiên phải được phụ huynh đồng ý. Lúc đó, trường học thường dùng những từ ngữ nước đôi, mơ hồ và sai lệch khiến phụ huynh không hiểu rõ là họ đồng ý với điều gì. Nếu phụ huynh phàn nàn, lãnh đạo nhà trường hoặc học khu sẽ có một loạt các biện pháp ứng phó như trì hoãn, đùn đẩy trách nhiệm, giải thích qua loa, ví dụ như nói phụ huynh không có kiến thức chuyên môn về giáo dục, các học khu khác đều làm như thế, rằng chỉ có mỗi gia đình anh/chị là phàn nàn...

Thông thường, hầu hết phụ huynh đều không có thời gian và nguồn lực để tranh luận mãi với nhà trường hoặc học khu. Hơn nữa, học sinh sau mấy năm cũng sẽ ra trường. Phụ huynh thường sẽ chọn cách im lặng cho qua. Huống hồ, trẻ em gần như bị giữ như con tin ở trường nên phụ huynh không dám phản ứng quá gay gắt, làm mất lòng ban giám hiệu nhà trường. Họ đành phải nén giận mà không giải quyết được gì. Khi phụ huynh phản đối cách làm của nhà trường, thì ban giám hiệu nhà trường sẽ dán nhãn cho phụ huynh là phần tử “cực đoan”, “gây rối”, “mê tín”, “cuồng tín”, “phần tử phát-xít”... Khi làm vậy, nhà trường đã làm những phụ huynh khác thoái chí không dám lên tiếng phản đối nữa.
 
MỞ ĐẦU

Giáo dục có vai trò quan trọng đối với lợi ích và sự phát triển của cá nhân, duy trì sự ổn định của xã hội, đảm bảo tương lai dân tộc cũng như sự bảo tồn, kế tục nền văn minh. Không có nền văn minh vĩ đại nào trong lịch sử nhân loại mà không coi trọng giáo dục.

Sứ mệnh quan trọng nhất của giáo dục chính là giúp nhân loại gìn giữ đạo đức cao thượng, đồng thời bảo tồn văn hóa mà Thần truyền cấp cho con người, để chờ đợi Thần quay trở lại. Đồng thời giáo dục cũng có vai trò không thể thiếu đối với xã hội trong việc truyền bá tri thức, bồi dưỡng kỹ năng, đoàn kết toàn dân tộc.

Từ xưa đến nay, một người được giáo dục tốt sẽ kính trời tín Thần, theo đuổi những phẩm chất tốt đẹp, có khả năng phổ truyền tri thức về văn hóa truyền thống của nhân loại, nắm vững những kỹ năng cao siêu về một hoặc nhiều phương diện, chuyên cần làm việc và hòa hợp với mọi người. Họ là trụ cột của tầng lớp trung lưu trong xã hội, là tinh anh của dân tộc, là người bảo vệ nền văn minh, phẩm hạnh cao quý của họ nhất định sẽ được Thần thừa nhận.

Tà linh ******** muốn hủy diệt nhân loại thì phải cắt đứt mối liên hệ giữa con người và Thần, trong đó, bước quan trọng nhất chính là phá hoại giáo dục truyền thống. Nó đã dùng những sách lược khác nhau ở phương Đông và phương Tây.

Ở các quốc gia phương Đông có nền văn hóa Thần truyền thâm sâu, nếu sử dụng phương thức lừa gạt sẽ rất dễ bị vạch trần. Thế nên tà linh ******** bèn tàn sát những tinh anh văn hóa, gây ra sự đứt đoạn trong quá trình truyền thừa văn hóa, đồng thời sử dụng các thủ đoạn lừa gạt như tuyên truyền giáo dục.

Còn văn hóa lịch sử của các quốc gia phương Tây không thâm sâu bằng, vì thế tà linh có thể dùng phương pháp xâm nhập, thẩm thấu và làm biến dị. Trên thực tế, tà linh ******** đã lợi dụng giáo dục để thâm nhập vào phương Tây, sự biến dị của thế hệ trẻ của phương Tây còn nghiêm trọng hơn nhiều so với sự biến dị của thế hệ trẻ Trung Quốc. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, do chịu ảnh hưởng bởi những tuyên truyền của các kênh thông tin chủ lưu thời gian dài nói xấu ứng cử viên của phái truyền thống (phái bảo thủ) và dự đoán sai lệch cái gọi là cuộc thăm dò ý kiến người dân, rất nhiều người – đặc biệt là thanh niên, sinh viên – đã bị sốc khi có kết quả của cuộc bầu cử.

Sau chiến thắng của Donald Trump, các trường đại học Mỹ xuất hiện những cảnh dở khóc dở cười. Một số sinh viên thấy “sợ hãi, mệt mỏi và tổn thương” đến nỗi phải yêu cầu giáo viên hủy buổi học hay hoãn thi. Để giảm bớt cảm giác căng thẳng, buồn bã cho sinh viên, một số trường học danh tiếng đã tổ chức nhiều hoạt động như nặn đất sét, tô màu, chơi xếp hình khối và thổi bong bóng xà phòng, thậm chí còn cho học sinh chơi thú cưng như chó, mèo. Nhiều trường đại học còn cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý, các nhóm hỗ trợ, dịch vụ “phục hồi tâm lý sau bầu cử” và “các nguồn lực và hỗ trợ sau bầu cử” cho sinh viên.

Chưa nói đến sự hoang đường khi thấy hậu quả của một cuộc bầu cử bình thường lại đáng sợ hơn cả vụ thiên tai hay một cuộc tấn công khủng bố, chỉ riêng việc sinh viên đại học, đáng lẽ phải là người đã có suy nghĩ chín chắn, lý tính và có khả năng chịu áp lực trước sự thay đổi thì lại bỗng nhiên trở thành những người cố chấp, yếu đuối như vậy. Có thể nói đây là một thất bại lớn của nền giáo dục Mỹ.

Nhưng thất bại của giáo dục Mỹ lại chính là “thành công” của tà linh ******** trong việc làm bại hoại giáo dục Mỹ. Những thay đổi đau lòng nhất trong xã hội Mỹ trong mấy chục năm qua chính là sự thất bại toàn diện của hệ thống giáo dục công lập. Đây là kết quả của sự thâm nhập và lật đổ của ma quỷ.

Sự thâm nhập của tà linh ******** vào nền giáo dục Mỹ thể hiện ít nhất ở năm phương diện sau:

Thứ nhất là, trực tiếp nhồi nhét hình thái ý thức của chủ nghĩa ******** vào thế hệ trẻ.Trong quá trình hình thái ý thức ******** thâm nhập vào các trường đại học phương Tây, một mặt nó tạo ra những môn học mới theo định hướng hình thái ý thức của nó, mặt khác thâm nhập vào các môn học truyền thống quan trọng, bao gồm văn học, lịch sử, triết học, chính trị học, kinh tế học, xã hội học, nhân chủng học, pháp luật, truyền thông đại chúng v.v.. Các loại chủ nghĩa Marx biến tướng đã trở thành tư tưởng chỉ đạo của một số môn học; “phải đạo chính trị” trở thành kim chỉ nam để các trường đại học kiềm chế tư tưởng của sinh viên.

Thứ hai, cố ý không cho thế hệ trẻ tiếp xúc với với văn hóa truyền thống,vì thế mà văn hóa truyền thống, tư tưởng chính thống, lịch sử chân thực và các tác phẩm văn học kinh điển đã bị bôi nhọ, bị gạt ra ngoài lề bằng nhiều phương thức.

Thứ ba, hạ thấp tiêu chuẩn giáo dục từ bậc mầm non, tiểu học,khiến năng lực toán học, đọc và viết của thế hệ trẻ kém đi, năng lực tư duy và mức độ nhận thức bị suy giảm nghiêm trọng, khó có thể suy xét một cách có lý trí các vấn đề trọng đại liên quan đến nhân sinh và xã hội, lại càng khó có thể nhìn thấu các loại quỷ kế vô cùng giảo hoạt của ma quỷ.

Thứ tư, nhồi nhét các loại quan niệm biến dị cho học sinh từ nhỏ,khiến cho các em sau khi trưởng thành thì những quan niệm ấy sẽ trở nên thâm căn cố đế, gần như không thể nhận ra và chỉnh sửa lại.

Thứ năm, nuôi dưỡng tính ích kỷ, tham lam, phóng túng dục vọng của sinh viên,nuôi dưỡng khuynh hướng chống lại chính quyền, đi ngược lại truyền thống, phóng đại quan niệm tự do, luôn coi mình là trung tâm, giảm khả năng nhẫn nại và năng lực lý giải của sinh viên đối với những ý kiến bất đồng, đồng thời cũng giảm năng lực chịu đựng những cú sốc về tâm lý.

Nhìn sâu vào giáo dục nước Mỹ, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng chủ nghĩa ******** gần như đã thực hiện được năm mục tiêu nêu trên. Hình thái ý thức cánh tả đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo trong các trường đại học Mỹ. Những học giả có khuynh hướng tư tưởng bất đồng sẽ không được vào giảng dạy tại trường đại học hoặc không được phát biểu những quan điểm truyền thống của mình.

Trải qua bốn năm nhồi nhét cường độ cao, rất nhiều sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp đều có xu hướng thiên về chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ, tiếp thu thuyết vô Thần, thuyết tiến hóa, chủ nghĩa duy vật một cách tự nhiên không cần suy xét, trở thành những người theo chủ nghĩa hưởng thụ, thiếu kiến thức phổ thông và ý thức trách nhiệm, trở thành những “bông tuyết” (snowflakes) mong manh dễ vỡ. Trong số những người bị tổn hại nghiêm trọng nhất, trừ một số người theo tư tưởng giáo điều của phái tự do, thì những người tri thức nông cạn, tầm nhìn hạn hẹp, hiểu biết nửa vời, thậm chí không biết chút gì về lịch sử thế giới cũng như lịch sử nước Mỹ, đã trở thành những nhóm người chủ yếu bị ma quỷ lừa dối.

Trong mắt của người dân thế giới, nước Mỹ vẫn luôn là cường quốc về giáo dục, điều này tất nhiên có nguyên nhân của nó. Suốt một thế kỷ nay, nước Mỹ là cường quốc về quân sự, kinh tế, chính trị hết sức quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới, kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học và giáo dục của Mỹ vượt xa hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, chế độ dân chủ tự do và điều kiện sống sung túc của Mỹ đã thu hút những nhân tài ưu tú trên toàn thế giới. Mỹ đến nay vẫn đứng đầu thế giới về đào tạo nghiên cứu sinh và đào tạo chuyên ngành trong ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ, toán học (STEM).

Nhưng đằng sau sự thịnh vượng còn ẩn chứa những nguy cơ lớn. Tỷ lệ du học sinh của các chương trình STEM vượt xa số sinh viên Mỹ học ngành này, và khoảng cách này vẫn tăng lên hàng năm. Điều này cho thấy giáo dục tiểu học, trung học, đại học trên khắp Mỹ đã bị xói mòn nghiêm trọng, bắt đầu xuất hiện hiện tượng cố tình làm hư hỏng sinh viên và làm thui chột kiến thức của sinh viên. Hậu quả tệ hại đã hiển hiện sơ bộ, hậu quả xấu hơn nữa cũng sẽ bộc lộ ra.

Trong các phần trước đã đề cập đến việc Yuri Bezmenov, cựu điệp viên KGB của Liên Xô trong những năm 1980 tiết lộ rằng chủ nghĩa ******** sắp hoàn thành việc thâm nhập vào hệ tư tưởng của nước Mỹ: “Cho dù có bắt đầu giáo dục một thế hệ người Mỹ mới ngay bây giờ thì vẫn cần 15 đến 20 năm nữa mới có thể đảo ngược xu thế này, thay đổi nhận thức về hình thái ý thức của con người đối với hiện thực, khiến con người nhận thức trở lại trạng thái bình thường”.

Đã qua một phần ba thế kỷ kể từ khi Bezmenov đưa ra những lời nhận xét này. Trong hơn 30 năm qua, cho dù chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của Liên Xô và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa ******** đã buông lơi tiến trình thâm nhập làm biến dị xã hội phương Tây. Các phần tử ******** ở phương Tây coi giáo dục là một trong những mục tiêu thâm nhập hàng đầu. Họ tiếp quản các cơ sở giáo dục các cấp, truyền bá những lý luận méo mó của họ về giáo dục, sư phạm, và dạy dỗ con cái.

Cần phải nhấn mạnh rằng, hiện nay hầu như tất cả mọi người trên thế giới, nhất là những người vào đại học sau những năm 1960, ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng ******** chủ nghĩa, đặc biệt những sinh viên chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn là chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Tuy nhiên, họ hầu hết đều bị ma quỷ tẩy não trong vô thức, những người có chủ ý thức truyền bá tư tưởng ******** thì rất ít thấy. Ở đây chúng ta sẽ đi vào việc vạch trần mục đích của chủ nghĩa ******** để mọi người có thể nhận thức rõ nó, rời xa nó và đừng bị hủy hoại theo nó.
TLDR
 
2.5.4 Thuật ngữ giáo dục mập mờ, khó hiểu
Phần đầu cuốn sách “Cố ý làm suy yếu dân trí nước Mỹ” của Charlotte Thomson Iserbyt nêu trên đã chỉ ra một số vấn đề:
“Người Mỹ không hiểu cuộc chiến này là vì nó được tiến hành trong bí mật – ở ngay trường học của quốc gia chúng ta, nhắm vào con em chúng ta vốn bị giữ ở lớp học. Những kẻ tạo nên cuộc chiến này đang sử dụng những công cụ rất tinh vi và hữu hiệu:
  • Phép biện chứng của Hegel (nền tảng chung, sự đồng thuận, và thỏa hiệp)
  • Chủ nghĩa tiệm tiến (lùi một bước để tiến hai bước);
  • Lừa mị bằng ngôn từ (định nghĩa lại các thuật ngữ để lừa gạt đối phương, khiến đối phương hồ đồ đồng ý trong khi không hiểu).”
Phillis Schlafly cũng đã phát hiện ra hiện tượng này. Trong cuốn sách “Lạm dụng trẻ em trong lớp học” (Child Abuse in the Classroom), cô nói, khóa học theo mô thức trị liệu tâm lý dùng những thuật ngữ đặc biệt để phụ huynh không lý giải được phương pháp và mục đích thật sự của khóa học. Những thuật ngữ như: điều chỉnh hành vi, phương thức tư duy phản biện cao cấp, suy lý đạo đức...

Mấy chục năm nay, những người làm công tác giáo dục ở Mỹ đã chế ra rất nhiều thuật ngữ khiến người ta hoa mắt, kiểu như “chủ nghĩa kiến tạo”, “học tập theo phương thức hợp tác”, “học tập theo phương thức trải nghiệm”, “hiểu sâu”, “giải quyết vấn đề”, “giáo dục bằng phương thức tìm tòi, “giáo dục lấy thành tích làm cơ sở”, “học tập theo phong cách cá nhân”, “hiểu khái niệm”, “kỹ năng trình tự”, “học tập suốt đời”, “dạy học theo phương pháp tương tác giữa giáo viên và học sinh”,... và còn nhiều nữa. Mặt khác, một số khái niệm xem ra có vẻ hợp lý, nhưng khi đào sâu vào bối cảnh sử dụng những thuật ngữ này ý nghĩa mà nó muốn diễn đạt thì sẽ phát hiện ra mục đích thực sự đằng sau những thuật ngữ này là bôi nhọ giáo dục truyền thống, và làm cho chất lượng giáo dục ngày càng xuống dốc. Do đó, về bản chất, chúng đều thuộc về cái gọi là “ngôn ngữ Aesop” và “ngôn ngữ Orwell”, ngôn ngữ bề mặt và ý nghĩa khác xa nhau. Bí quyết để hiểu loại ngôn ngữ này là suy luận ngược lại với nó”.

2.5.5 Đổi mới môn học và sách giáo khoa trên quy mô lớn
Cuốn sách “Không dám gọi đó là làm phản” (None Dare Call It Treason) xuất bản vào những năm 1960 đã phân tích một lần cải cách sách giáo khoa vào những năm 1930. Lần cải cách đó đã tổng hợp nội dung của các môn học khác nhau như lịch sử, địa lý, xã hội học, kinh tế học, khoa học chính trị thành một bộ sách giáo khoa. Bộ sách này đã xóa bỏ nội dung, hệ giá trị và phương thức biên soạn sách giáo khoa truyền thống. “Cái mà nó truyền đạt là định kiến bài tôn giáo; cái mà nó công khai là tuyên truyền cho việc kiểm soát đời sống người dân theo mô thức xã hội chủ nghĩa”, đã hạ thấp anh hùng nước Mỹ và Hiến pháp nước Mỹ.

Bộ sách giáo khoa này quá đồ sộ, hơn nữa nó không thuộc phạm vi của bất kỳ môn học truyền thống nào nên các chuyên gia giáo dục của các ngành học không chú ý đến nó. Rất nhiều năm sau đó, khi công chúng nhận thức được vấn đề và bắt đầu phản đối bộ sách giáo khoa này thì đã có 5 triệu học sinh đã học nó rồi. Hiện tại, ở các trường trung học và tiểu học ở Mỹ, các môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân… thuộc ngành “nghiên cứu xã hội”, mà ý tưởng đằng sau nó đều như nhau.

Nếu cứ phân tách các môn học như trước đây, thì bất cứ nội dung sửa đổi nào trong sách giáo khoa cũng dễ bị nhận ra, và tất nhiên sẽ vấp phải sự chất vấn và cản trở của các chuyên gia và các bậc phụ huynh. Trộn lẫn một số môn học truyền thống với nhau, từ đó biên soạn ra một tài liệu giáo khoa mới mà không thuộc bất kỳ môn học truyền thống nào, làm như vậy các chuyên gia khó có thể vượt khỏi nội dung chuyên môn của mình để đánh giá, khiến cho rất nhiều sách giáo khoa sau khi được xét duyệt đã được xã hội và các trường học tiếp nhận tương đối dễ dàng.

Mười, hai mươi năm sau, có thể sẽ có người phát hiện ra âm mưu đằng sau bộ sách giáo khoa này. Tuy nhiên, khi họ bắt đầu phát ngôn về vấn đề này thì học sinh đã trưởng thành, các giáo viên đã quen với tài liệu và phương pháp giảng dạy mới. Lúc đó, muốn quay trở lại như trước cũng không thể được. Cho dù có một số ít người nhận thức được sự khiếm khuyết nghiêm trọng của bộ sách giáo khoa này thì tiếng nói của họ cũng rất khó thu hút sự chú ý của quần chúng, chứ chưa nói đến việc tác động đến quá trình ra quyết sách trong giáo dục. Nếu tiếng nói phản đối lớn hơn thì nó lại trở thành cơ hội phát động một cuộc cải cách nữa, loại bỏ tiếp những nội dung truyền thống, thay vào đó là quan niệm của phái cánh tả. Qua vài lần cải cách thì thế hệ học sinh mới đã cách rất xa truyền thống, không thể quay trở về như trước nữa.

Tốc độ đổi mới sách giáo khoa ở Mỹ rất nhanh. Có người nói là do tốc độ phát triển của tri thức tăng nhanh, nhưng sự thực là kiến thức căn bản ở cấp trung học và tiểu học không có nhiều thay đổi lớn. Vậy tại sao vẫn cần biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau đến vậy, trong khi sách giáo khoa cũ vẫn không ngừng được tái bản? Nguyên nhân bề mặt là các nhà xuất bản cạnh tranh với nhau vì lợi nhuận, các nhà xuất bản sẽ không kiếm được tiền nếu để học sinh sử dụng lại một bộ sách giáo khoa giống nhau trong nhiều năm, nhưng sâu xa hơn, cũng tương tự như việc cơ cấu lại các môn học mới, quá trình cải cách sách giáo khoa cũng nhằm làm biến dị tài liệu giảng dạy cho thế hệ tiếp theo.

2.5.6 Cải cách giáo dục: Một cuộc đấu tranh theo phép biện chứng lùi một bước để tiến hai bước
Từ những năm 1950 và 1960 đến nay, giáo dục Mỹ giống như chiếc đèn kéo quân, đưa ra một loạt các cải cách, nhưng chưa từng giúp cho giáo dục nâng cao chất lượng như kỳ vọng. Năm 1981, điểm thi SAT của học sinh Mỹ ở mức thấp nhất trong lịch sử. Tình hình này được báo cáo lại trong cuốn “Dân tộc đang gặp nguy cơ” (A Nation at Risk), cũng dẫn đến phong trào “quay trở về với cơ bản” (back to basics) trong giáo dục. Để cải biến tình thế đáng hổ thẹn của giáo dục Mỹ, sau những năm 1990, chính phủ đã vài lần liên tiếp tiến hành cải cách giáo dục trên quy mô lớn, nhưng hiệu quả đạt được không đáng kể, thậm chí không có hiệu quả, lại còn đổ thêm dầu vào lửa, không những không thể cứu vãn mà còn mang đến nhiều vấn đề nan giải hơn.

Chúng tôi tin rằng đa số những người tham gia cải cách giáo dục đều chân thành muốn làm điều tốt cho học sinh và xã hội, nhưng do chịu ảnh hưởng của các loại tư tưởng sai lầm nên kết quả thường không như mong muốn. Nhiều cuộc cải cách như vậy rốt cuộc đều đi đến việc thúc đẩy kế hoạch của chủ nghĩa ********. Giống như các lĩnh vực khác, cải cách giáo dục bị chủ nghĩa ******** thâm nhập cũng không kỳ vọng “đánh một trận là thắng”. Cải cách thành công cũng không phải là mục tiêu của nó. Kỳ thực, mỗi lần cải cách ngay từ lúc thiết kế đã cầm chắc thất bại để lấy cớ tiếp tục đề xuất một cuộc cải cách mới. Mỗi lần cải cách là một lần làm tăng thêm mức biến dị, đẩy con người rời xa truyền thống thêm một bước. Đó chính là “phép biện chứng của cuộc đấu tranh – lùi một bước để tiến hai bước”. Theo cách này, đừng nghĩ rằng người ta sẽ tiếc nuối vì truyền thống đã sụp đổ, mà họ còn thấy đó là một kỳ tích, lúc đó, họ sẽ thờ ơ mà nói: “Truyền thống ư – nó có nghĩa gì chứ?”

(Còn tiếp)
 
Tiếp tục với phần in hoa nay lên muộn chút để né bớt các vệ tinh do thám căn bản phần này cũng có kha khá nội dung hơi mẫn cảm
:))
 
3. Tiến trình phá hoại giáo dục ở cả phương Đông lẫn phương Tây của tà đạo ********

Với mục tiêu phá hoại giáo dục ở phương Tây, chủ nghĩa ********, thông qua giáo dục cấp tiến, kiên nhẫn chờ đợi cả trăm năm, thay đổi vài thế hệ để dần đạt được mục đích. Trung Quốc tuy rằng có bề dày 5.000 năm văn hóa truyền thống nhưng lợi dụng điều kiện lịch sử đặc thù khi chủ nghĩa ******** lên nắm quyền, nó đã tạo cho người Trung Quốc lúc bấy giờ mang tâm lý chỉ vì cái lợi trước mắt, dụ dỗ họ sử dụng các thủ đoạn cấp tiến, chỉ trong mấy chục năm đã khiến con người nhanh chóng cắt đứt với truyền thống, khiến con người vứt bỏ giá trị truyền thống. Theo đó, chủ nghĩa ******** đã đạt được mục đích làm bại hoại giáo dục, làm bại hoại nhân loại ở Trung Quốc.

Đầu thế kỷ 20, không lâu sau khi giáo dục cấp tiến của Dewey bắt đầu thâm nhập nước Mỹ, các học trò người Trung Quốc của ông ta cũng lần lượt học xong và trở về nước, họ trở thành người tiên phong của giáo dục cận đại Trung Quốc. Lúc bấy giờ, lợi dụng lòng tự tôn của người Trung Quốc sau khi bị chiến hạm Anh đánh bại và nguyện vọng tốt đẹp của những người trí thức muốn mau chóng đưa dân tộc trở nên hùng mạnh, chủ nghĩa ******** đã dẫn dụ người Trung Quốc dấy khởi một cuộc vận động mạnh mẽ phủ nhận truyền thống gọi là “Cuộc Vận động Văn hóa Mới ”.

Thực chất, đây là một cuộc vận động phá hoại văn hóa, là sự chuẩn bị cho cuộc Đại Cách mạng Văn hóa những năm 1960. “Cuộc Vận động Văn hóa Mới ” có ba nhân vật đại diện chủ yếu là Hồ Thích – học trò của Dewey, Trần Độc Tú – một trong những người sáng lập ĐCSTQ sau này, và Lỗ Tấn – người sau này được Mao Trạch Đông ca ngợi là “tổng tư lệnh của Cách mạng Văn hóa Trung Quốc”. Lý Đại Chiêu – một người sáng lập khác của ĐCSTQ sau này – cũng trở thành một nhân vật chủ chốt của cuộc vận động văn hóa này.

Cuộc Vận động Văn hóa Mới nhằm vào những mặt trái trong quá trình phát triển của xã hội truyền thống Trung Quốc, nó đổ lỗi cho “tam cương ngũ thường, đạo đức chuẩn mực của Nho giáo” là nguyên nhân gây ra sự suy yếu của xã hội Trung Quốc 100 năm qua, hô hào khẩu hiệu “đả đảo Khổng gia điếm”, coi văn hóa truyền thống là “văn hóa cũ”, coi tất cả các thứ của văn hóa phương Tây là “văn hóa mới”, dùng khẩu hiệu “khoa học” và “dân chủ” để phê phán tín ngưỡng truyền thống. Cuộc vận động này đã mở đường cho cuộc vận động “Ngũ Tứ” khốc liệt hơn sau đó, dấy lên làn sóng đầu tiên lật đổ hoàn toàn giá trị và luân lý truyền thống, đồng thời cũng tạo điều kiện cho chủ nghĩa Marx của phương Tây xâm nhập vào Trung Quốc, đâm chồi nảy lộc và đặt cơ sở vững chắc ở đây.

Trong giới giáo dục, một trong những tác hại lớn nhất mà cuộc Vận động Văn hóa Mới gây ra là cuộc vận động “văn bạch thoại”. Theo đề xuất của Hồ Thích, giáo dục quốc văn tiểu học hoàn toàn biến thành văn bạch thoại. Như vậy, sau một thế hệ, đa số người Trung Quốc hầu như không hiểu được văn cổ, các kinh điển truyền thống như “Chu Dịch”, “Xuân Thu”, “Đạo Đức Kinh”, “Hoàng Đế Nội Kinh” v.v., chỉ là nội dung nghiên cứu của các học giả chuyên nghiệp, không liên quan tới học sinh phổ thông, 5.000 năm văn minh huy hoàng của Trung Quốc đã trở thành thứ đồ trang trí.

Trong quá trình phát triển văn hóa Trung Quốc, Thần đã an bài tách biệt ngôn ngữ văn viết và văn nói phát triển khác nhau. Trong lịch sử, Trung Quốc đã trải qua nhiều lần dung hợp các dân tộc lớn cũng như nhiều lần dịch chuyển vị trí địa lý của các trung tâm văn hóa, từ đó khiến ngôn ngữ văn nói liên tục thay đổi. Nhưng do sự tách biệt giữa ngôn ngữ văn viết và văn nói, nên về tổng thể, nó vẫn duy trì được tính liên tục không thay đổi. Học sinh thời nhà Thanh vẫn có thể đọc hiểu được sách vở của thời nhà Tống, nhà Đường thậm chí là thời Tiên Tần. Điều này khiến cho văn hóa truyền thống Trung Quốc thông qua chữ viết mà được truyền lại hàng nghìn năm không gián đoạn.

Tuy nhiên, chủ nghĩa ******** lừa gạt người Trung Quốc, thông qua việc thay đổi chữ viết mà cắt đứt gốc rễ văn hóa của mình. Đồng thời, việc hợp nhất văn viết với văn nói cũng khiến văn viết dễ bị lai tạp, biến dị thêm một bước nữa, đẩy người Trung Quốc rời xa truyền thống hơn.

Trước và sau khi ĐCSTQ thành lập, giáo dục “xóa mù chữ” và giáo dục tiểu học phổ cập văn hóa đã trực tiếp nhồi nhét, tẩy não học sinh một cách trắng trợn. Những câu đầu tiên mà học sinh lớp xóa mù chữ và học sinh lớp 1 bậc tiểu học được học mang đầy lập trường giai cấp “yêu ghét rõ ràng”: “Mao Chủ tịch vạn tuế”, “xã hội cũ có vạn điều xấu”, “chủ nghĩa đế quốc Mỹ có vạn điều xấu”… những thứ này cùng với chủ nghĩa cấp tiến đã tiêm nhiễm những tư tưởng biến dị như “Heather có hai bà mẹ” vào các sách báo mà trẻ em đọc, mặc dù có sự tương phản rõ rệt về phương thức thực hiện, nhưng về bản chất đều là nhồi nhét hình thái ý thức. Những trẻ em được giáo dục bằng phương pháp này khi lớn lên sẽ chủ động bảo vệ cho bạo lực chính trị của ĐCSTQ. Những người vẫn thường thóa mạ, công kích, bình luận về những giá trị phổ quát truyền thống trên mạng internet; những đứa trẻ sống trong môi trường giáo dục như vậy khi lớn lên sẽ lấy lý do “kỳ thị” để không cho phép người ta nói về những quan niệm truyền thống.

Không lâu sau khi thành lập chính quyền, ĐCSTQ lại bắt đầu cuộc “vận động cải tạo tư tưởng phần tử trí thức”, trọng điểm là các trường đại học và trung học. Mục đích chủ yếu của nó là cải tạo quan niệm nhân sinh của phần tử trí thức, cưỡng ép họ vứt bỏ chuẩn mực đạo đức truyền thống, vứt bỏ quan niệm nhân sinh tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, lựa chọn sử dụng phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Marx, đứng trên lập trường “giai cấp vô sản” mà nhìn nhận thế giới và con người. Đặc biệt là các giáo sư được đào tạo trong “thời đại cũ”, cần phải đánh giá nhiều lần và thẳng thắn, phải tiếp nhận sự phê phán và tố cáo của học sinh và đồng nghiệp, ngay cả “tư tưởng phản động” ẩn sâu trong tiềm ý thức cũng phải thanh trừ, đây không còn là “công kích vi mô” nữa mà là “điên cuồng công kích” giai cấp vô sản. Đương nhiên việc này còn kịch liệt hơn cả “đào tạo về các vấn đề nhạy cảm” ở phương Tây ngày nay, thậm chí một số người không nhẫn chịu được sự sỉ nhục và áp lực này nên đã tự sát.

Tiếp sau đó, ĐCSTQ triển khai “điều chỉnh lại các khoa viện” trong các trường đại học, cắt giảm, sáp nhập, xóa bỏ rất nhiều khoa nhân văn trong các trường đại học như triết học, xã hội học…, rất nhiều trường đại học tổng hợp chỉ còn lại ngành khoa học tự nhiên theo mô hình Liên Xô. Nếu duy trì các môn khoa học nhân văn như mô hình đào tạo tự do trong thời kỳ Trung Hoa Dân quốc thì chắc chắn sẽ dạy cho học sinh có quan điểm tư tưởng độc lập đối với các vấn đề chính trị và xã hội. Điều này là sự “uy hiếp” mà chính quyền bạo lực ĐCSTQ không thể chịu được. Thay vào đó, triết học và chính trị chủ nghĩa Marx trở thành môn học bắt buộc của tất cả học sinh. Toàn bộ quá trình này phải hoàn thành trong 2-3 năm. Ở phương Tây, chủ nghĩa ******** dùng cả một thế hệ người để tạo ra những môn học mới nhằm mục đích nhồi nhét hình thái ý thức và tiêm nhiễm tư tưởng chủ nghĩa Marx vào các trường đại học. Về hành động là trái ngược nhau, thời gian thực hiện cũng khác nhau rất lớn giữa phương Đông và phương Tây, nhưng kết quả đạt được thì gần như nhau.

Năm 1958, ĐCSTQ bắt đầu công cuộc “cải cách giáo dục”, đặc điểm nổi bật của nó là: Trước tiên, nhấn mạnh giáo dục để phục vụ giai cấp vô sản, “phá trừ tư tưởng mê tín của các chuyên gia thuộc giai cấp tư sản”, dưới sự lãnh đạo của đảng ủy, tổ chức sinh viên đã biên tập lại đại cương và tài liệu giảng dạy. Trong thời gian vỏn vẹn 30 ngày, 60 sinh viên khoa tiếng Trung của Đại học Bắc Kinh đã biên tập một bộ “Lịch sử Văn học Trung Quốc” dài tới 700.000 chữ.

Điều này đã thể hiện rõ quan điểm lấy “người học làm trung tâm”, “học tập theo phương thức tìm tòi”, “học tập theo phương thức hợp tác” mà giáo dục cấp tiến nhấn mạnh – nghĩa là, học cái gì, học thế nào đều do học sinh tự quyết định. Mục đích rất rõ ràng: chính là phá bỏ sự “mê tín” đối với những nhân vật có quyền uy (thực chất là nhồi nhét quan niệm phản truyền thống), phóng đại chủ nghĩa lấy bản thân làm trung tâm của học sinh, đặt nền móng cho bước “tạo phản” tiếp theo trong cuộc Cách mạng Văn hóa.

Thứ nữa là việc nhấn mạnh kết hợp giáo dục và lao động sản xuất. Các trường học đều trở thành công xưởng, trong thời kỳ đỉnh cao của cuộc Đại nhảy vọt, giáo viên và học sinh đã luyện thép và làm việc trong trang trại. Ngay cả một trường đại học xã hội thuần túy như Đại học Nhân dân cũng có tới 108 công xưởng. Về danh nghĩa là để học sinh “học tập bằng thực tiễn” (learning by doing), kỳ thực là khiến học sinh chẳng học được gì.

Trong cuộc “Đại Cách mạng Văn hóa”, học sinh bị huy động đập nát tất cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến văn hóa truyền thống (đã được đề cập trong những phần trước đây). Điều này rất ăn khớp với phong trào phản văn hóa ở phương Tây. Sau khi Đại Cách mạng Văn hóa bùng phát, Mao Trạch Đông tuyên bố “hiện tượng phần tử trí thức giai cấp tư sản thống trị trong các trường học của chúng ta không thể tiếp tục diễn ra nữa”. Ngày 13/06/1966, ĐCSTQ ra thông báo cải cách phương thức tuyển sinh đại học, thực thi “hành động sửa chữa”: xóa bỏ kỳ thi tuyển sinh đầu vào đại học, thu nhận một lượng lớn học sinh thuộc đội ngũ “công nông binh”.

Bộ phim “Quyết liệt” trong Đại Cách mạng Văn hóa đã đưa ra lý do cải cách tuyển sinh như sau: “Một người thanh niên xuất thân bần nông, văn hóa thấp, nhưng nhờ vào đôi bàn tay chai sần do làm nông mà đủ tư cách nhập học. Hiệu trưởng cho rằng “Văn hóa thấp, có thể trách chúng ta được không? Không thể! Món nợ này chỉ có thể tính lên Quốc Dân đảng, địa chủ, giai cấp tư sản [kẻ áp bức]!”

Ở phương Tây lúc bấy giờ, có một giáo sư đăng bài luận tuyên bố rằng kỳ thi toán học sẽ dẫn đến kỳ thị chủng tộc (vì học sinh của một số dân tộc thiểu số có điểm toán học thấp hơn học sinh da trắng). Cũng có giáo sư xuất bản bài luận nói rằng việc đem trình độ toán học cao của học sinh nam để áp cho tất cả các học sinh đã gây nên sự kỳ thị giới tính đối với học sinh nữ. Quy định bàn tay chai sần mà lên đại học và việc quy kết điểm toán học thấp của học sinh là do kỳ thị chủng tộc và giới tính đều là thủ đoạn mà chủ nghĩa ******** dùng để làm học sinh kém phát triển trí tuệ.

Sau Đại Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc khôi phục lại kỳ thi đại học. Từ đó, “thi đại học” trở thành cây gậy chỉ huy cho giáo dục, giáo dục trung học và tiểu học; thi đại học trở thành mục đích cuối cùng. Dưới chế độ giáo dục chú trọng kết quả và lợi ích này, một lô lớn học sinh trở thành cỗ máy thi cử, không có năng lực tư duy độc lập, cũng không có năng lực phân biệt đúng sai. Đồng thời, triết học và kinh tế chính trị chủ nghĩa Marx trở thành môn học bắt buộc, không thể bỏ qua.

Trong quá trình tẩy não khiến học sinh đoạn tuyệt với truyền thống, tiêu chuẩn thiện ác, đúng sai đều được nhận định theo quan điểm của chủ nghĩa ********. Vì thế, rất nhiều học sinh, sinh viên sau cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9 còn vui mừng; học sinh tiểu học tuyên bố “lớn lên muốn trở thành quan tham nhũng”; sinh viên đại học làm nghề mại dâm; và mang thai hộ để kiếm tiền trở thành trào lưu ở các trường đại học. Chủ nghĩa ******** đã thao túng mất thế hệ sau của chúng ta rồi.
 
KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ: Quay về giáo dục truyền thống là giải pháp căn cơ để cải tổ nền giáo dục bị tà đạo ******** phá hoại

Giáo dục là phương tiện để truyền thừa nền văn minh của một quốc gia, dân tộc và nhân loại cho thế hệ tương lai, là kế sách lớn cho trăm nghìn năm. Nhìn lại 100 năm qua, nền giáo dục Mỹ, dưới ảnh hưởng và thâm nhập của chủ nghĩa ********, đã phải hứng chịu trăm ngàn vết thương. Phụ huynh và giáo viên bị bó buộc đến mức không thể mang đến cho học sinh, sinh viên sự giáo dục tốt. Trường học, vốn là nơi để cho học sinh, sinh viên rèn luyện thành tài, lại trở thành nơi phóng túng, dẫn dắt các em lạc lối. Sự khiếm khuyết về đạo đức, kỹ năng kém cỏi, suy giảm sức chịu đựng tâm lý cùng các thói hư tật xấu, dâm loạn, phản truyền thống, phản xã hội của học sinh, sinh viên khiến toàn xã hội lo lắng. Chủ nghĩa ******** đang nuốt chửng thế hệ sau và tương lai của nhân loại.

Trong cuốn sách kinh “Người ******** trần trụi” (The Naked Communist) xuất bản năm 1958, đã nêu ra những mục tiêu liên quan đến giáo dục trong 45 mục tiêu của đảng ******** là: “Khống chế trường học. Biến trường học thành vành đai trung gian cho chủ nghĩa xã hội và tuyên truyền chủ nghĩa ******** hiện tại. Giảm độ khó của giáo trình học. Khống chế hiệp hội giáo viên. Đưa cương lĩnh của đảng vào sách giáo khoa.”

Nhìn vào giáo dục của nước Mỹ, có thể thấy những mục tiêu này không những đã đạt được, mà thực trạng còn nghiêm trọng hơn. Do thực lực kinh tế chính trị lớn mạnh của nước Mỹ, văn hóa Mỹ cũng là đối tượng để các quốc gia khác trên khắp thế giới ngưỡng mộ và học tập. Đại bộ phận các quốc gia đều noi theo Mỹ để cải cách giáo dục. Quan niệm giảng dạy, tài liệu giáo dục, phương pháp giảng dạy và quản lý giáo dục của Mỹ đã ảnh hưởng tới rất nhiều quốc gia. Vì thế, ở một mức độ nhất định, cải biến giáo dục Mỹ đồng nghĩa với cải biến giáo dục toàn thế giới.

Từ khi thuở đầu của Tạo hóa và khi nền văn minh nhân loại trở nên bại hoại, đều có các Giác giả hay Thánh nhân xuất thế. Những Giác giả hay Thánh nhân này chính là những người mà người ta gọi là “Thầy”. Chẳng hạn như, Socrates, người đặt nền móng cho văn minh Hy Lạp cổ đại là một nhà giáo dục; trong sách Phúc âm, Jesus cũng tự xưng là thầy; Phật Thích Ca Mâu Ni có 10 danh xưng, trong đó cũng có một danh xưng là “Thiên nhân chi sư” (thầy của người trời); Khổng Tử là một nhà giáo dục, còn Lão Tử lại là thầy của Khổng Tử. Họ dạy con người cách làm người căn bản, kính Thần thế nào, đối nhân xử thế ra sao, làm sao để đề cao đạo đức.

Những Giác giả và Thánh nhân được gọi là “Thầy” này là những nhà giáo dục vĩ đại nhất của nhân loại, lời dạy của họ đã bồi đắp nên hình thái của các nền văn minh lớn, trở thành kinh điển căn bản nhất của các nền văn minh lớn. Phương pháp đề cao đạo đức và giá trị quan mà họ truyền thụ mới là Đại Đạo giúp mỗi cá nhân đạt đến tinh thần lành mạnh, mà mỗi cá nhân có tinh thần lành mạnh mới có thể bảo đảm cho các yếu tố căn bản của một xã hội thịnh vượng. Không lạ gì khi những nhà giáo dục vĩ đại nhất này đều đưa ra một kết luận như nhau: Giáo dục là để bồi dưỡng phẩm cách lương thiện.

Giáo dục cổ điển phương Đông và phương Tây đã từng trải qua thực tiễn hàng nghìn năm, kế thừa văn hóa mà Thần truyền cho con người, lưu giữ rất nhiều tài nguyên và kinh nghiệm quý giá. Theo tinh thần của giáo dục cổ điển, đức tài toàn vẹn là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá giáo dục có thành công hay không. Trong quá trình nhân loại tìm kiếm con đường trở về với giáo dục truyền thống, kho tàng giáo dục cổ điển xứng đáng để chúng ta kiên trì nghiên cứu và học hỏi.

Người có đạo đức cao thượng có khả năng chế ngự, kiểm soát bản thân. Đây là hình thái xã hội mà những người thành lập nước Mỹ hằng kỳ vọng. Người có đạo đức cao thượng sẽ được Thần ban phúc, dựa vào cần cù lao động và trí tuệ mà có được vật chất đầy đủ và tinh thần sung mãn. Quan trọng hơn, người có đạo đức cao thượng mới có thể giúp xã hội phồn vinh, trường tồn, không ngừng phát triển. Đây là khải thị của những Thánh nhân và Giác giả hay những nhà giáo dục vĩ đại nhất của nhân loại về việc đưa con người quay về với truyền thống.
 
Đẩy lên để báo động về việc sắp ra mắt một nội dung mới toanh có liên quan mật thiết tới nội dung này
 

Có thể bạn quan tâm

Top