ham Học Hỏi..
Con Chym bản Đôn
Bàn về căn nguyên của các làn sóng lên tiếng phản đối sinh con khi vẫn còn quá nghèo hoặc thiếu sự chuẩn bị
Ảnh: Karry
Vài năm gần đây, chúng ta được chứng kiến một loạt hiện tượng xã hội của những người trẻ liên quan đến vấn đề sinh và nuôi con: Từ trào lưu DINK (Double income, no kids – kết hôn nhưng không sinh con), cho đến những lần dậy sóng về việc cha mẹ đẻ con mà không biết dạy (vụ quán cà phê ở Đà Nẵng từ chối trẻ em, hoặc vụ hai bé trai cố ý giẫm chết mèo, chẳng hạn), và lần dậy sóng mới đây nhất là phát ngôn trên fanpage của MC Đức Bảo “Nếu đứa con sinh ra để kế thừa sự vất vả, nghèo khó của bạn, vậy không sinh con cũng chính là một loại lương thiện” được khá nhiều người trẻ tán thành.
Bất chấp những tranh cãi, mọi thứ đều cho thấy rõ ràng xã hội Việt Nam đang đến giai đoạn hứng chịu sức bật của môt lò xo đang bị đè nén quá lâu: Đó là sự vùng dậy của người trẻ trước nền văn hoá kìm kẹp của đạo hiếu, của làm con là phải sinh đẻ thì mới tròn chữ hiếu (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại – Tội bất hiếu có ba, không có con là tội nặng nhất), đặc biệt trong xã hội mà người dân không giàu có, người trẻ dường như đang bị kìm kẹp cả về giáo điều lẫn kinh tế.
Thái độ của tôi trước hiện tượng này thường có hai: Thứ nhất là cảm giác hi vọng khi thấy các bạn trẻ đã ít nhiều có lí trí hơn và dũng cảm hơn để chống lại giáo điều hàng trăm năm. Thứ hai là cảm giác ngưỡng mộ tầm nhìn xa đi trước thời đại mười nghìn ki lô mét của chính mình khi mà cách đây năm năm, 2019, tôi đã viết một bài lên án đạo hiếu rồi. [1] Hồi ấy dĩ nhiên là không có đủ nhiều người dũng cảm và trí tuệ để lên tiếng như bây giờ, nên sau khi đăng bài ấy tôi bất đắc dĩ phải chơi môn thể thao mạo hiểm có nội dung phối hợp là né bầy chó cắn và tránh đàn bò húc, càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, sau năm năm học hành không ngừng nghỉ, tôi thấy mình vẫn có thể viết tốt hơn nữa về chủ đề này. Vậy nên bài viết này ra đời nhằm làm rõ những gì mà bài Đạo hiếu của năm năm trước chưa làm được.
Thực vậy, lòng hiếu thảo không chỉ tồn tại ở phương Đông – mà cụ thể là Trung Quốc nơi nó trở nên khét tiếng – chúng ta sẽ được thấy lòng hiếu thảo với các cấp độ khác nhau ở khắp thế giới Do Thái giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo, và cả các tôn giáo ít người biết ở châu Phi.
Ảnh: Taravat Niki
Trong thế giới Do Thái và Ki-tô giáo, lòng hiếu thảo được ghi ở rất nhiều đoạn trong Kinh Thánh. Điển hình là một trong Mười điều răn tuyên bố: “Hãy thảo kính cha mẹ.” (Exodus 20:12, Ephesians 6:2, Deuteronomy 5:16). Và giáo dân thường gọi Thiên Chúa là cha cho thấy cha mẹ-con cái là mối quan hệ rất quan trọng và thiêng liêng. Ngoài ra cũng nên lưu ý đến câu chuyện cha con Abraham-Issac (Genesis 22) nơi Abraham có toàn quyền hiến tế sinh mạng con trai Issac của mình, cho thấy có tồn tại sự sở hữu của cha đối với con, và sự tuân phục của con đối với cha, ngay cả khi vấn đề liên quan đến sinh mạng người con.
Trong thế giới Hồi giáo, có nhiều câu Kinh Koran nhắc đến lòng hiếu thảo, chẳng hạn: “Chúng ta lệnh cho mọi người phải tôn kính cha mẹ của họ.” (Surah Luqman 14), “Chúng ta khen ngợi những người đối tốt với cha mẹ họ.” (Surah al-Ahqaf 46), “Không thờ phượng ai ngoài Allah, và hãy đối tốt với cha mẹ.” (Surah al-Baqarah 83). Ở Brunei – một đất nước Hồi giáo – thậm chí không có viện dưỡng lão dành cho người Hồi giáo, bởi theo đạo Hồi việc chăm sóc người già luôn được giao cho con cái và người thân. Những viện dưỡng lão ở Brunei chỉ dành cho người không theo đạo Hồi. (Low & Ang, 2013, tr.1138.)
Ở châu Phi, hành động thờ cúng tổ tiên – một hình thức của lòng hiếu thảo – phổ biến khắp châu Phi và đôi khi được thực hiện cùng với các tôn giáo được chấp nhận sau này như Ki-tô giáo (chẳng hạn ở Nigeria trong cộng đồng người Igbo) và như Hồi giáo (trong các tộc người Mandé và Bamum). Các tổ tiên của họ trở thành các vị thần nhỏ. (Low & Ang, 2013, tr.1138.) Hình thức này của lòng hiếu thảo khá giống với các thực hành thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Và cuối cùng không thể không kể đến Nho giáo ở Trung Quốc với khái niệm đạo hiếu rất nổi tiếng của nó. Theo Nho giáo, hiếu thảo là cái gốc của đức nhân, hiếu thảo được nhắc đến trong rất nhiều sách: Tứ thư Ngũ kinh, Hiếu kinh, Nhị thập tứ hiếu. Và bởi năm năm trước tôi đã viết kĩ về nó rồi, ở bài này chỉ nói ngắn gọn rằng hiếu thảo trong Nho giáo là thứ vô cùng cực đoan, nó sẵn sàng dung dưỡng cho hành động mẹ kế mưu giết con chồng, và người con được khuyến khích là hãy cứ nhẫn nhục chịu đựng. Chi tiết mời đọc thêm ở bài Đạo hiếu dưới chú thích.
Đến đây ta có thể kết luận rằng việc người xưa sử dụng lòng hiếu thảo làm một cấu trúc xã hội để áp đặt quyền lực của người già lên người trẻ là việc phổ quát trong mọi nền văn hoá trên thế giới. Điều này thật ra là hiển nhiên. Hãy nghĩ về một xã hội nơi chưa có các hình thức phúc lợi cho người già từ chính quyền, vậy thì dĩ nhiên theo chiến lược sinh tồn, những người già sẽ phải tìm cách để tự cứu mình khi họ bước vào những năm cuối đời đầy yếu ớt và dễ tổn thương.
Trong hoàn cảnh ấy, con cái chính xác là “quỹ hưu trí” duy nhất mà họ có. Biết rằng toàn bộ xã hội ấy cùng những đứa trẻ của xã hội ấy đều được người lớn xây dựng và nuôi dưỡng, vậy nên sẽ là hiển nhiên khi người lớn muốn được đền đáp công lao khi họ về già, trở thành những người bất lực và lệ thuộc. Và sẽ càng khôn ngoan hơn khi họ không chỉ dựa dẫm vào lương tâm của người trẻ, mà thay vào đó xây dựng một hệ tư tưởng để điều khiển và thao túng người trẻ.
Nhưng từ đâu mà những cái hiển nhiên như vậy dần dần trở thành cái có vấn đề? Câu trả lời nằm ở quãng thời gian vẫn được cho là vĩ đại nhất và đáng tự hào nhất của loài người: Thời kì Khai sáng.
Thế kỉ thứ mười bảy cũng chính là quãng thời gian bắt đầu Thời kì Khai sáng, một tác gia nổi tiếng của thời đại ấy, Jean Jacques Rousseau, đã tạo ra các thái độ lãng mạn dành cho tuổi thơ trong chuyên luận giáo dục ra mắt năm 1762, Émile, ou De l’éducation. Và dựa trên một loạt các ý tưởng của những tác gia lừng danh trong thời Khai sáng và Lãng mạn, tuổi thơ trong quãng thế kỉ 17-19 đã khoác lớp áo mới bằng những tính chất như ngây thơ, tinh khiết, yếu thế, và là quãng thời gian trú ẩn ngắn ngủi trước khi bước vào thế giới người lớn đầy hiểm nguy.
Cuối thế kỉ thứ mười tám, Cách mạng Công nghiệp nổ ra mạnh mẽ ở Anh, trước tình trạng có quá nhiều trẻ em phải làm việc trong các công xưởng với thời gian dài và điều kiện tệ hại, các nhà hoạt động xã hội đã làm dấy lên làn sóng can thiệp bằng pháp lí để bảo vệ trẻ em. Đầu tiên là yêu cầu giảm giờ làm cho trẻ em, tiếp đến là tăng độ tuổi lao động của trẻ em, những điều này cứ thế phát triển dần dần từ thế kỉ 19-20. Và đây là nền tảng đầu tiên cho việc hình thành quyền trẻ em trong pháp luật.
Ảnh: Rahma Cartoons
Ảnh: Karry
Vài năm gần đây, chúng ta được chứng kiến một loạt hiện tượng xã hội của những người trẻ liên quan đến vấn đề sinh và nuôi con: Từ trào lưu DINK (Double income, no kids – kết hôn nhưng không sinh con), cho đến những lần dậy sóng về việc cha mẹ đẻ con mà không biết dạy (vụ quán cà phê ở Đà Nẵng từ chối trẻ em, hoặc vụ hai bé trai cố ý giẫm chết mèo, chẳng hạn), và lần dậy sóng mới đây nhất là phát ngôn trên fanpage của MC Đức Bảo “Nếu đứa con sinh ra để kế thừa sự vất vả, nghèo khó của bạn, vậy không sinh con cũng chính là một loại lương thiện” được khá nhiều người trẻ tán thành.
Bất chấp những tranh cãi, mọi thứ đều cho thấy rõ ràng xã hội Việt Nam đang đến giai đoạn hứng chịu sức bật của môt lò xo đang bị đè nén quá lâu: Đó là sự vùng dậy của người trẻ trước nền văn hoá kìm kẹp của đạo hiếu, của làm con là phải sinh đẻ thì mới tròn chữ hiếu (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại – Tội bất hiếu có ba, không có con là tội nặng nhất), đặc biệt trong xã hội mà người dân không giàu có, người trẻ dường như đang bị kìm kẹp cả về giáo điều lẫn kinh tế.
Thái độ của tôi trước hiện tượng này thường có hai: Thứ nhất là cảm giác hi vọng khi thấy các bạn trẻ đã ít nhiều có lí trí hơn và dũng cảm hơn để chống lại giáo điều hàng trăm năm. Thứ hai là cảm giác ngưỡng mộ tầm nhìn xa đi trước thời đại mười nghìn ki lô mét của chính mình khi mà cách đây năm năm, 2019, tôi đã viết một bài lên án đạo hiếu rồi. [1] Hồi ấy dĩ nhiên là không có đủ nhiều người dũng cảm và trí tuệ để lên tiếng như bây giờ, nên sau khi đăng bài ấy tôi bất đắc dĩ phải chơi môn thể thao mạo hiểm có nội dung phối hợp là né bầy chó cắn và tránh đàn bò húc, càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, sau năm năm học hành không ngừng nghỉ, tôi thấy mình vẫn có thể viết tốt hơn nữa về chủ đề này. Vậy nên bài viết này ra đời nhằm làm rõ những gì mà bài Đạo hiếu của năm năm trước chưa làm được.
I. MỐI QUAN HỆ CHA MẸ-CON CÁI TRONG LỊCH SỬ
Phần đầu tiên, tôi muốn bày tỏ góc nhìn cảm thông về lòng hiếu thảo trước đã. Sẽ công bằng hơn nếu ta thấu hiểu căn nguyên của một tư tưởng mà ta vẫn thường nghĩ xấu về, đặc biệt là tư tưởng mà theo nghiên cứu của Low & Ang thì “Lòng hiếu thảo là một trong những đức tính cơ bản nhất được tìm thấy một cách phổ quát ở nhiều nền văn hóa khác nhau trong suốt lịch sử loài người.” (Low & Ang, 2013, tr.1135.) [2]Thực vậy, lòng hiếu thảo không chỉ tồn tại ở phương Đông – mà cụ thể là Trung Quốc nơi nó trở nên khét tiếng – chúng ta sẽ được thấy lòng hiếu thảo với các cấp độ khác nhau ở khắp thế giới Do Thái giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo, và cả các tôn giáo ít người biết ở châu Phi.
Ảnh: Taravat Niki
Trong thế giới Do Thái và Ki-tô giáo, lòng hiếu thảo được ghi ở rất nhiều đoạn trong Kinh Thánh. Điển hình là một trong Mười điều răn tuyên bố: “Hãy thảo kính cha mẹ.” (Exodus 20:12, Ephesians 6:2, Deuteronomy 5:16). Và giáo dân thường gọi Thiên Chúa là cha cho thấy cha mẹ-con cái là mối quan hệ rất quan trọng và thiêng liêng. Ngoài ra cũng nên lưu ý đến câu chuyện cha con Abraham-Issac (Genesis 22) nơi Abraham có toàn quyền hiến tế sinh mạng con trai Issac của mình, cho thấy có tồn tại sự sở hữu của cha đối với con, và sự tuân phục của con đối với cha, ngay cả khi vấn đề liên quan đến sinh mạng người con.
Trong thế giới Hồi giáo, có nhiều câu Kinh Koran nhắc đến lòng hiếu thảo, chẳng hạn: “Chúng ta lệnh cho mọi người phải tôn kính cha mẹ của họ.” (Surah Luqman 14), “Chúng ta khen ngợi những người đối tốt với cha mẹ họ.” (Surah al-Ahqaf 46), “Không thờ phượng ai ngoài Allah, và hãy đối tốt với cha mẹ.” (Surah al-Baqarah 83). Ở Brunei – một đất nước Hồi giáo – thậm chí không có viện dưỡng lão dành cho người Hồi giáo, bởi theo đạo Hồi việc chăm sóc người già luôn được giao cho con cái và người thân. Những viện dưỡng lão ở Brunei chỉ dành cho người không theo đạo Hồi. (Low & Ang, 2013, tr.1138.)
Ở châu Phi, hành động thờ cúng tổ tiên – một hình thức của lòng hiếu thảo – phổ biến khắp châu Phi và đôi khi được thực hiện cùng với các tôn giáo được chấp nhận sau này như Ki-tô giáo (chẳng hạn ở Nigeria trong cộng đồng người Igbo) và như Hồi giáo (trong các tộc người Mandé và Bamum). Các tổ tiên của họ trở thành các vị thần nhỏ. (Low & Ang, 2013, tr.1138.) Hình thức này của lòng hiếu thảo khá giống với các thực hành thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Và cuối cùng không thể không kể đến Nho giáo ở Trung Quốc với khái niệm đạo hiếu rất nổi tiếng của nó. Theo Nho giáo, hiếu thảo là cái gốc của đức nhân, hiếu thảo được nhắc đến trong rất nhiều sách: Tứ thư Ngũ kinh, Hiếu kinh, Nhị thập tứ hiếu. Và bởi năm năm trước tôi đã viết kĩ về nó rồi, ở bài này chỉ nói ngắn gọn rằng hiếu thảo trong Nho giáo là thứ vô cùng cực đoan, nó sẵn sàng dung dưỡng cho hành động mẹ kế mưu giết con chồng, và người con được khuyến khích là hãy cứ nhẫn nhục chịu đựng. Chi tiết mời đọc thêm ở bài Đạo hiếu dưới chú thích.
Đến đây ta có thể kết luận rằng việc người xưa sử dụng lòng hiếu thảo làm một cấu trúc xã hội để áp đặt quyền lực của người già lên người trẻ là việc phổ quát trong mọi nền văn hoá trên thế giới. Điều này thật ra là hiển nhiên. Hãy nghĩ về một xã hội nơi chưa có các hình thức phúc lợi cho người già từ chính quyền, vậy thì dĩ nhiên theo chiến lược sinh tồn, những người già sẽ phải tìm cách để tự cứu mình khi họ bước vào những năm cuối đời đầy yếu ớt và dễ tổn thương.
Trong hoàn cảnh ấy, con cái chính xác là “quỹ hưu trí” duy nhất mà họ có. Biết rằng toàn bộ xã hội ấy cùng những đứa trẻ của xã hội ấy đều được người lớn xây dựng và nuôi dưỡng, vậy nên sẽ là hiển nhiên khi người lớn muốn được đền đáp công lao khi họ về già, trở thành những người bất lực và lệ thuộc. Và sẽ càng khôn ngoan hơn khi họ không chỉ dựa dẫm vào lương tâm của người trẻ, mà thay vào đó xây dựng một hệ tư tưởng để điều khiển và thao túng người trẻ.
Nhưng từ đâu mà những cái hiển nhiên như vậy dần dần trở thành cái có vấn đề? Câu trả lời nằm ở quãng thời gian vẫn được cho là vĩ đại nhất và đáng tự hào nhất của loài người: Thời kì Khai sáng.
II. MỐI QUAN HỆ CHA MẸ-CON CÁI Ở HIỆN TẠI
Trong quyển sách năm 1960, L'enfant et la vie familiale sous l'ancien régime, nhà sử học Philippe Ariès đã đưa ra một phát hiện nổi tiếng: Khái niệm “thời thơ ấu” là một phát minh hiện đại, nó chỉ bắt đầu hình thành và phát triển từ sau thế kỉ thứ mười bảy. Còn trước đó, trong thời kì trước khi nổ ra Cách mạng Công nghiệp, trẻ em đơn giản được coi là một người lớn thu nhỏ (adulte-miniature). Vậy nên hồi đó người ta cư xử với trẻ em cũng gần như với người lớn vậy, dĩ nhiên là trừ những việc quá khả năng của chúng, việc trẻ em phải làm việc ngay khi có thể – mà thời đó là làm nông và những việc vặt ở nhà – là chuyện dĩ nhiên, khái niệm bóc lột trẻ em hay trẻ em là tuổi để ăn ngủ học chơi là thứ chưa tồn tại.Thế kỉ thứ mười bảy cũng chính là quãng thời gian bắt đầu Thời kì Khai sáng, một tác gia nổi tiếng của thời đại ấy, Jean Jacques Rousseau, đã tạo ra các thái độ lãng mạn dành cho tuổi thơ trong chuyên luận giáo dục ra mắt năm 1762, Émile, ou De l’éducation. Và dựa trên một loạt các ý tưởng của những tác gia lừng danh trong thời Khai sáng và Lãng mạn, tuổi thơ trong quãng thế kỉ 17-19 đã khoác lớp áo mới bằng những tính chất như ngây thơ, tinh khiết, yếu thế, và là quãng thời gian trú ẩn ngắn ngủi trước khi bước vào thế giới người lớn đầy hiểm nguy.
Cuối thế kỉ thứ mười tám, Cách mạng Công nghiệp nổ ra mạnh mẽ ở Anh, trước tình trạng có quá nhiều trẻ em phải làm việc trong các công xưởng với thời gian dài và điều kiện tệ hại, các nhà hoạt động xã hội đã làm dấy lên làn sóng can thiệp bằng pháp lí để bảo vệ trẻ em. Đầu tiên là yêu cầu giảm giờ làm cho trẻ em, tiếp đến là tăng độ tuổi lao động của trẻ em, những điều này cứ thế phát triển dần dần từ thế kỉ 19-20. Và đây là nền tảng đầu tiên cho việc hình thành quyền trẻ em trong pháp luật.
Ảnh: Rahma Cartoons