Suýt tí tẹo nữa là bọn Champa có bài hát "Hận Thăng Long" để hát

maxresdefault.jpg
Hận Đồ Bàn: của nhạc sĩ Xuân Tiên – Một trang sử bi hùng của vương quốc Champa​


Về hoàn cảnh sáng tác của ca khúc này, nhạc sĩ Xuân Tiên chia sẻ rằng thời trẻ ông đã nghiên cứu về âm điệu của các miền đất nước, trong đó có vùng Qui Nhơn, Bình Định.

Nghệ nhân Ưu tú Phú Văn Lương truyền dạy biểu diễn trống ghi năng cho thanh niên làng Chăm Như Ngọc xã Phước Thái, Ninh Phước.


Sau này khi đã vào Sài Gòn, công tác trong đài phát thanh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và sau này là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà , ông muốn sáng tác 1 ca khúc với chủ đề khác với chủ đề tình yêu đôi lứa của các nhạc sĩ khác nên mới tìm hiểu lại lịch sử của vùng đất Bình Định, về dân tộc Chăm và lịch sử vương quốc Champa mấy trăm năm trước đó để sáng tác thành ca khúc Hận Đồ Bàn, nói thay lời của người dân nước Chiêm bị “vong quốc” năm xưa.Trở lại với trận Đồ Bàn, đó được xem là một trong những thất bại lớn nhất lịch sử quân sự của các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy, trận này cũng được xem là chιến công hiển hách nhất của quân dân người Chiêm.

Champa là một quốc gia cổ, từng tồn tại suốt 17 thế kỷ, từ năm 192 đến 1832 trong công nguyên, độc lập với Đại Việt ở phía Bắc và đế quốc Khmer ở phía Tây. Thời cực thịnh, vương quốc Champa mở rộng từ Quảng Bình cho đến Bình Thuận ngày nay. Vào thời kỳ đó, lãnh thổ của Đại Việt chỉ từ Quảng Bình trở lên, còn từ Bình Thuận trở vào phía Nam là lãnh thổ của người Khmer (Phù Nam, Chân Lạp, Khmer).

map.jpg


Champa là tên gọi chung các triều đại của người Chăm với các quốc hiệu là Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành. Trong phạm vi ca khúc Hận Đồ Bàn, nhạc sĩ Xuân Tiên chỉ nhắc đến riêng thời kỳ mà Champa mang quốc hiệu Chiêm Thành, với các ca từ như: Chiêm thuyền, người dân nước Chiêm. Vương triều Chiêm Thành tồn tại từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15, với vị vua nổi tiếng nhất là Chế Bồng Nga đã từng làm cho vua tôi nhà Trần của nước Đại Việt nhiều phen kinh hồn.

Rừng hoang vu vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
Vạc kêu sương buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
Đàn đóm vương như bóng ai trong lúc đêm trường về

Rừng trầm cô tịch, đèo cao thác sâu
Đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo
Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân
Âm thầm hoà bài hận vong quốc ca

Người xưa đâu?
Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…

Một nửa đầu bài hát, ca từ và giai điệu rất thê lương, buồn nhắc về thời oanh liệt của một vương quốc đã không còn nữa. Chứng tích còn lại cho đến ngày nay chỉ là những tháp nghiêng rêu phong, hoang phế và tịch liêu. Những lầu các xưa, nơi từng là cung điện xa hoa thể hiện quyền lực của đế vương, với muôn vạn quân reo, cùng những tiệc liên hoan xa hoa mừng công, dạ yến tưng bừng, nay chỉ còn là một màu xanh ngát của rừng bạt ngàn.

1420_quan-doi-cham-ba.jpg

Kinh đô Đồ Bàn năm xưa ngựa voi như nước
thap2.jpg

Nay chỉ lả cái đền nát phế tích

Đứng trước những phế tích nhuốm màu thời gian, với tiếng gọi từ ngàn năm vọng về cùng hồn thiêng của các bậc quân vương xưa, người du khách – cũng là người nhạc sĩ Xuân Tiên – đã không tránh khỏi những cảm xúc sầu thương hoang hoải.


Chiêm thuyền Chế Bồng Nga vượt khơi cập biển Nghệ An đánh lên Thăng Long
Ở đoạn sau đó, giai điệu bài hát trở nên nhanh hơn, ca từ đầy tính bi hùng:

Đồ bàn miền Trung đường về đây
Máu như loang thắm chưa phai dấu
Xương trắng sâu vùi khí hờn căm khó tan

Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai
Nhấp nhô trên sóng xa xa tắp
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga vượt khơi
Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù…

Triền sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm…




Ngược lại, có lẽ không người dân Việt nào cảm thấy tự hào khi nhắc về trận Đồ Bàn. Đó cũng là lý do mà cho đến ngày nay, hơn 60 năm sau khi Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên ra đời, thì ca khúc này vẫn còn nhận được nhiều ý kiến trái chiều.


Van%20hoa%20Cham%2010.jpg


Người ta có lý do khi cho rằng ca khúc này không nên được phổ biến rộng rãi, bởi vì nhắc đến “hận” Đồ Bàn, nhắc về nỗi niềm vong quốc của người Chiêm năm xưa, cũng có thể là nhắc lại những hận thù rất xưa cũ giữa 2 dân tộc Chiêm và Việt mà ngày nay đã về một mái nhà chung, sau khi vua Minh Mạng đã xóa sổ vương quốc Champa từ đầu thế kỷ 19.

chebongnga3a_w.png


Đồ Bàn – trong nhiều thế kỷ – chính là kinh đô của Chiêm quốc, gắn liền với tên tuổi vị vua nổi tiếng nhất của dân tộc Chăm là Chế Bồng Nga (Po Binasuor)

Sau khi lên ngôi được một thời gian, Chế Bồng Nga nhận thấy quân đội nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nên có ý muốn đưa quân Bắc phạt. Năm 1361, Chế Bồng Nga đem quân đi theo đường biển tiến đánh cửa biển Dĩ Lý (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay) khiến quan quân Đại Việt phải bỏ chạy. Quân Chiêm cướp phá và tàn sát dân chúng rồi quay trở ra biển. Vua Trần Dụ Tông lập tức ra lệnh cho phòng thủ. Đến năm sau, người Chăm lại sang quấy phá Hóa châu, đốt cháy nhiều nhà cửa. Vua Trần sai Đỗ Tử Bình đem binh chống giữ, củng cố và tái tổ chức các binh đội vùng Thuận Hóa.

Vào năm 1365, nhân dịp nam nữ vui chơi ngày xuân Ất Tị, người Chăm đã phục kích sẵn ở các vùng đồi núi chung quanh bất ngờ xông ra bắt cóc đám thanh niên này rồi chạy mất. Một năm sau, người Chăm tiếp tục sử dụng chiêu thức cũ nhưng tướng Trần Phạm A Song đã dự phòng trước nên phản công đánh đuổi được. Tháng giêng năm 1368, Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi bình Chiêm Thành. Tháng 4 ÂL năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (vùng Quảng Nam). Quân Chiêm đặt phục binh, quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước. Nhận thấy binh lực nhà Trần ngày càng sa sút, Chế Bồng Nga mới sai Mục Bà Ma đi sứ sang đòi lại đất Hóa châu nhưng không thành.

chebongnga4_w.jpg

Chế Bồng Nga, một thời oanh liệt vàng son
Xưng thần với nhà Minh

Cũng trong năm đó, bên Trung Hoa, Chu Nguyên Chương đánh đuổi được người Mông Cổ lập nên nhà Minh, xưng đế niên hiệu Hồng Vũ, đặt kinh đô ở Nam Kinh. Chế Bồng Nga sai sứ là Hổ Đô Man sang mừng đem voi, hổ và các sản vật tiến cống. Vua Minh sai Ngô Dụng, Nhan Tông Lỗ, Dương Tải đưa tiễn sứ thần Chiêm về nước, phong Chế Bồng Nga làm Chiêm Thành quốc vương, ban ấn tín, một quyển lịch Đại Thống và 50 tấm lụa thêu vàng. Trong sắc thư gửi Chiêm vương có viết:

Ngày mồng bốn tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương, Trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ Đô Man chưa tới, Sứ giả của Trẫm cũng sẵn sàng trên đường đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của Trẫm đến để báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ [Nguyên Mông] trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ Trung quốc phong hóa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Quốc, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết, nên sai Sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ Sứ giả nước của Vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến; sai người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo [thờ nước lớn], Vương nên phụng thờ coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu; trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy tùng cũng được ban lụa là, lụa ỷ hoa văn, có phân biệt."

Từ đó người Chăm hàng năm mang cống phẩm sang Trung Quốc, được vua nhà Minh cho người sang tế sơn xuyên và giám khảo các kỳ thi. Cũng vào thời đó, biển Đông có rất nhiều hải khấu hoành hành ở biển Đông, sử Minh gọi là "Nuỵ khấu" hay "Uy khấu" (Giặc Nuỵ). Minh thực lục có ghi lại: Chế Bồng Nga đem binh thuyền ra đánh chìm và cướp về hai mươi thuyền chở 31 tấn gỗ quí, liền cho người đưa sang tiến cống nhà Minh khiến vua Minh rất hài lòng, ban thưởng hậu hĩ.
 
Sửa lần cuối:
champa-vs-khmer1.jpg
Ngày 12 tháng 1 năm Hồng Vũ thứ 6. Quốc vương Chiêm Thành A Đáp A Giả sai bọn bầy tôi Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán dâng biểu, cống phương vật. Lại tâu rằng bọn giặc bể Trương Nhữ Hậu, Lâm Phúc tự xưng là Nguyên soái cướp phá trên biển, bị Quốc vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu bị chết trôi. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ đem đến hiến. Thiên tử vui lòng, mệnh ban cho Vương nước này 40 tấm lụa là, văn ỷ; cho Sứ giả 2 tấm lụa là, 4 tấm văn ỷ, 1 bộ y phục, 1 vạn 2 ngàn đồng tiền; những người đi theo được ban thưởng có phân biệt.

chebongnga3a_w.png


Hình 3. Chân dung Chế Bồng Nga (1360-1390) là vị vua Hồi giáo (Islam). Khi lên ngôi vua Chế Bồng Nga lấy niên hiệu là Sultan Zainal Abidin và cưới công chúa Siti Zubaidah Kelantan-Malaysia. Ảnh VTV1.

Chiếm Thăng Long lần 1 (1371)

Năm 1371, triều đình nhà Trần xảy ra nội loạn, hoàng tử Trần Phủ (tức sau này là vua Trần NGhệ Tông) lật đổ được Dương Nhật Lễ và giành lại ngôi báu. Mẹ của Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xin Chế Bồng Nga đánh Đại Việt trả thù và báo cáo tình hình biên giới và sự suy yếu của nhà Trần. Được dịp, vào tháng 3 năm 1371 ÂL, Chế Bồng Nga tập trung chiến thuyền tiến vào cửa Đại An tấn công Đại Việt. Quân Chiêm vào đến Thái Tô, huyện THọ Xương. Quân Trần chống cự không nổi. Theo sử thuật lại, ông đi thẳng vào Thăng Long "như đi vào chỗ không người", không nơi nào có quân chống giữ. Vua Nghệ Tông bỏ chạy khỏi kinh đô khiến quân Chiêm vào Thăng Long lấy hết vàng bạc châu báu, bắt cả đàn bà trẻ con rồi đốt sạch cung điện, sách vở. Tháng 3 nhuận năm 1371, Chế Bồng Nga mang quân ra đánh. Quân Chiêm vượt biển đánh vào cửa Đại An, tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long. Ngày 27 tháng 3 ÂL, quân Chiêm tiến vào Thăng Long, cướp phá cung điện, bắt phụ nữ, lấy của cải ngọc lụa mang về.

Năm sau, vua Chiêm dâng biểu viết trên vàng lá, dài hơn 1 xích, bề ngang 5 thốn, lên vua Minh đế kể tội Đại Việt, trong đó có câu:

...Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin Bệ Hạ giúp cho chúng tôi vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của Bệ Hạ mà không quấy nhiễu nữa.

Tuy nhiên, theo sử Việt, đây là một sự vu cáo, vì nhà Trần không hề động binh trong thời kỳ này, và chủ đích của Chế Bồng Nga là cốt sao nhà Minh để yên cho người Chiêm Thành cứ ngang nhiên lộng hành cướp bóc. Chu Nguyên Chương sau đó đã xuống chiếu bắt hai nước không được gây sự chiến tranh và đồng ý cho người Chăm được sang "du học" về quân sự tại Phúc Kiến.

Đánh bại nhà Trần, giết Trần Duệ Tông
an_xua_tich_laso_136anh_2_BEEE.jpg

Năm 1376, Chế Bồng Nga lại một lần nữa mang quân bắc tiến. Vua Trần là Trần Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình dẫn quân đi đánh. Chế Bồng Nga sai người sang xin dâng 10 mâm vàng xin giảng hòa. Nhưng Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Vua Trần nổi giận, mới chuẩn bị quân mã để nam tiến. Tháng 1 ÂL năm 1377, quân Trần dẫn quân đi dọc theo bờ biển, tiến đến Cầu Đá ở cửa Thị Nại (Quy Nhơn), đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Đồ Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng, nói với Trần Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã bỏ thành trốn. Vua Trần mắc mưu, liền thúc quân tiến vào thành. Quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh, chia cắt quân Trần ra từng đoạn khiền quân Trần đại bại, mười phần chết đến bảy, tám phần. Vua Trần bị hãm trong vòng vây, bị trúng phải tên mà chết. Một hoàng thân nhà Trần là Ngự Câu vương Trần Húc đã ra đầu hàng quân Chiêm.
Chiếm Thăng Long lần 2 và 3 (1378)

Chế Bồng Nga thừa thế thắng, đem quân đánh đuổi đến tận Thanh Nghệ, đánh tan quân nhà Trần rồi vào kinh đô cướp phá suốt một ngày. Đến khi ra khơi quay về nhà, chiến thuyền của Chiêm Thành bị bão đắm mất nhiều nhưng những đồ cướp được cũng đủ để tiến cống nhà Minh trong năm đó. Chế Bồng Nga lại gả con gái cho Ngự Câu vương Trần Húc rồi tháng 5 năm 1378 đưa y về Nghệ An phong làm trấn thủ và tiếm xưng vương hiệu. Đến tháng 6, Chế Bồng Nga lại đem binh vượt sông Đại Hoàng đánh tan quân của Đỗ Tử Bình, chiếm lấy kinh đô Thăng Long hạ nhục quân Bắc bằng cách bắt quan kinh doãn là Lê Giốc phải sụp lạy nhưng Lê Giốc không chịu nên ông đã cho người giết chết. Lần này quân Chiêm lại cướp bóc được rất nhiều. Vua Nghệ Tông chỉ còn nước đem các vàng bạc châu báu giấu trong núi Thiên Kiến và động Khả Lăng.

chebongnga8_w.jpg


Hình 5. Chế Bồng Nga, chinh phạt bắc Việt. Ảnh: Sưu tầm.

Chinh phạt Nghệ An - Thanh Hóa

Lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của Chế Bồng Nga năm 1380

Năm 1380, Chế Bồng Nga lại một lần nữa đem quân bắc phạt, ông cho tuyển binh ngay tại vùng Tân Bình và Thuận Hóa, rồi sau đó đã đánh chiếm Nghệ An vào tháng 3, chiếm Thanh Hóa vào tháng 4. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly, Đỗ Tử Bình đem quân đón đánh quân Chiêm khiến Chế Bồng Nga phải rút quân về. Tuy Chế Bồng Nga bị thua nhưng ở thời kỳ này các châu Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình vẫn thuộc về người Chăm, còn quan quân nhà Trần thì sợ người Chiêm, đến bài vị, thần tượng của các bậc tiên vương ở các lăng Quắc Hương, Thái Đường, Long Hưng, Kiến Xương cũng phải đem giấu đi vì sợ bị phá.

Chiếm Thăng Long lần 4 (1383)

Giữa năm 1383, Chế Bồng Nga lại đích thân dẫn quân Bắc phạt. Lê Quý Đôn mô tả:..."vua ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng". Chế Bồng Nga chiếm giữ Thăng Long, đến năm 1383. Chế Bồng Nga trước đó đã tiến cống hậu hĩ hàng năm cho nhà Minh, nên vua Minh làm ngơ, không can thiệp. Đến năm 1386, Minh Thái Tổ hạ chiếu viết thư cho Trần Nghệ Tông cho hay sắp đem quân bình định Chiêm Thành và ra lệnh cho Đại Việt sửa soạn 100 thớt voi cùng các trạm lương thực suốt từ Vân Nam tới Nghệ An. Nhà Trần không lấy gì làm phấn khởi trước đề nghị này, lại sợ quân Minh có ý đồ xâm chiếm Đại Việt nên vội vàng thoái thác. Cùng năm đó, vua Minh cho sứ giả đưa con trai Chế Bồng Nga sau khi ông này sang tiến cống 54 thớt voi về nước. Năm sau người Chăm lại đem cống 51 con voi, trầm hương và sừng tê và được tiếp đãi rất trọng thể.

chebongnga5_w.jpg


Hình 6. Quân Champa tấn công Thăng Long. (Tranh từ Pháp Luật VN).

Bắc phạt lần 5

Năm 1389, Chế Bồng Nga lại đưa quân sang đánh Đại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly cầm quân chống giặc. Lê Quý Ly nghênh địch hơn 20 ngày, kéo hết thuyền lên bờ để đợi. Chế Bồng Nga đóng ở thượng nguồn sông Lương, cho đắp đập ngăn sông ở phía thượng lưu và đóng cọc dày đặc để chống cự. Sau đó, ông bố trí tượng binh và bộ binh mai phục, rồi giả vờ bỏ đi, Lê Quý Ly mắc mưu đem quân truy kích không ngờ bị trúng kế. Chế Bồng Nga hạ lệnh cho phá đập nước, cho voi trận xông ra đánh. Quân Trần bị thiệt hại nặng nề, tướng chỉ huy quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí bị bắt sống, nhiều tướng chết trận. Lê Quý Ly để tuỳ tướng Phạm Khả Vĩnh ở lại cầm cự cùng với Nguyễn Đa Phương chỉ huy quân Thánh Dực còn mình thì trốn về kinh đô. Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh biết thế yếu không chống cự nổi cũng rút quân về. Chế Bồng Nga đuổi theo đến Hoàng giang, Nghệ Tông sai đô tướng là Trần Khát Chân đem binh chống giữ. Vua tôi nhà Trần ôm nhau khóc mà từ biệt đủ biết là họ đã khiếp sợ đến chừng nào. Trần Khát Chân kéo quân đến Hoàng giang, thấy nơi đây không thể bố trận, mới đem quân đóng ở sông Hải Triều.
 
Sửa lần cuối:
04-9.jpg

Đến tháng 1 năm 1390, Chế Bồng Nga đem hơn 100 chiến thuyền đến thị sát trên sông Hải Triều. Hoàng đệ là Trần Nguyên Diệu đem quân bản bộ ra hàng vua Chiêm với hy vọng được người Chăm đưa lên làm vua. Cùng lúc đó, một nhà sư là Phạm Sư Ôn nổi lên đánh chiếm kinh đô, thượng hoàng và vua phải bỏ kinh đô mà chạy, cho triệu tướng Hoàng Thế Phương đang đóng ở Hoàng giang ra cứu. Không may cho Chế Bồng Nga, một tiểu tướng của ông tên là Bỉ Lậu Kê vì sợ tội đã ra hàng quân Trần, báo cho Trần Khát Chân biết là thuyền ngự của vua Chiêm sơn màu xanh lục. Khi mấy trăm chiến thuyền của Chế Bồng Nga và Nguyên Diệu kéo tới, Khát Chân cho tập trung súng bắn xối xả vào chiếc thuyền ngự, Chế Bồng Nga bị trúng đạn chết. Trần Nguyên Diệu liền chặt thủ cấp vua Chiêm rồi chèo thuyền trở về bên quân Trần. Quân Chiêm thấy chủ tướng đã tử trận vội vàng chạy về Hoàng giang hợp với phó tướng của Chế Bồng Nga là La Ngai. Viên đại đội phó trong đội quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc và người đầu ngũ là Dương Ngang giết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp Bồng Nga đem dâng nộp. Trần Khát Chân sai bỏ vào hòm, cho phi ngựa đem đến hành tại Bình Than, tâu việc đánh được giặc. Sử kể rằng khi đầu Chế Bồng Nga được phó tướng Phạm Như Lạt đem vào trình giữa canh ba, thượng hoàng Nghệ Tông hoảng hốt nhỏm dậy tưởng mình đã bị vây bắt. Đến khi nghe được tin thắng trận, Nghệ Tông liền cho gọi các quan đến để xem cho kĩ. Các quan mặc triều phục, đến và hô "Vạn tuế !". Nghệ Tông nói:

Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Sở Bá Vương, thiên hạ yên rồi!
oncotritan-1714922088576-1714922089143902667668.jpg


Hậu Chế Bồng Nga

Bị đánh bại năm 1390, tướng La Ngai chiếm được xác Chế Bồng Nga đem đi hỏa táng, rồi thu quân về nước.La Ngai thu thập tàn quân rút về nước đi bộ men theo đường núi không dám rút bằng đường thủy. Sau khi quay trở về Đồ Bàn, La Ngai tiếm xưng vương hiệu và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Ngai sai sứ sang xin nhà Minh thừa nhận nhưng Minh Thái Tổ nói với các quan bộ Lễ rằng: "Đây do viên quan soán nghịch! Đồ tiến cống đừng nhận. Trước đây viên quan Chiêm Thành là Các Thắng giết Vương nước này tự lập, nên cự tuyệt."

Chính sách cai trị khắt khe của La Ngai gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Ngai thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu.Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Hồ Quý Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Chiêm Thành. Năm 1400, La Ngai mất, con là Ba Đích Lại lên ngôi. Mãi đến năm 1413, Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.

Các vùng đất dưới ảnh hưởng Chiêm Thành đều được Hồ Quý Ly thu hồi sau cái chết của Chế Bồng Nga. Lê Quý Ly đã tấn công vào vùng đất Cổ Lũy, Quảng Ngãi, ngày nay. Theo Biên Niên Sử Hoàng gia Chăm (1835), Thủ đô Bal Angwei đã thất thủ vào năm 1397 và dân tị nạn đổ vào Bal Panrang. Sau trận chiến năm 1400 một bộ phận nhà nước Chiêm Thành được khôi phục (vương triều Vijaya). Sau khi Lê Lợi đuổi quân Minh ra khỏi, vương triều Panrang (Panduranga) cũng được khôi phục năm 1433. Sau khi thành Đồ Bàn thất thủ, vương triều Panrang đã thừa kế vương quốc Chiêm Thành cho đến năm 1832.

chebongnga4c_w.jpg


Hình 8. Toàn cảnh thành Đồ Bàn chụp từ trên cao. Ảnh: Sưu tầm.
 
Lão chế bồng nga này đánh cướp phá rồi rút nên ko thể toàn thắng đc ĐV nhỉ
Ko như nhà thanh nó truy tới tận cùng
 
Champa thời mạnh thì lại theo Hindu nên chỉ thích cướp phá rồi rút k chú trọng chiếm đất dành dân. Đến lúc Champa theo hồi giáo thì quốc lực lại yếu quá r.
Mà tộc an nam phải nói chiến tranh chinh phạt kém cỏi vl đánh Champa cả ngàn năm mới diệt đc
cơ bản cũng đéo có lực cả cái đồng bằng sông hồng vét được 100k nam đinh khoẻ mạnh đi lính đã là kì tích r, toàn chiếm kiểu tằm ăn dâu.
 
cơ bản cũng đéo có lực cả cái đồng bằng sông hồng vét được 100k nam đinh khoẻ mạnh đi lính đã là kì tích r, toàn chiếm kiểu tằm ăn dâu.
Lần nào đánh nhau với Champa cũng vét đc 10 vạn lính mà. An Nam thuộc dạng dân số đông đảo từ thời tách khỏi tàu rồi.
Xưa thằng Miến nó cầm 10 vạn quân đánh từ tàu sang Assam, chiếm Lào Lan Na, Xiêm.
Cùng 10 vạn quân mà chinh phạt nó khác hẳn. Miến nó mà có dân số đông đảo bằng tộc vịt chắc nó chiếm sạch cái đông dương
 
Lần nào đánh nhau với Champa cũng vét đc 10 vạn lính mà. An Nam thuộc dạng dân số đông đảo từ thời tách khỏi tàu rồi.
Xưa thằng Miến nó cầm 10 vạn quân đánh từ tàu sang Assam, chiếm Lào Lan Na, Xiêm.
Cùng 10 vạn quân mà chinh phạt nó khác hẳn. Miến nó mà có dân số đông đảo bằng tộc vịt chắc nó chiếm sạch cái đông dương
Ngày trước chiến tranh dài ngày thì phải dùng chiến tranh nuôi chiến tranh mà đánh xuống Chăm thì có mẹ lương thực để cướp đâu.
 
Lần nào đánh nhau với Champa cũng vét đc 10 vạn lính mà. An Nam thuộc dạng dân số đông đảo từ thời tách khỏi tàu rồi.
Xưa thằng Miến nó cầm 10 vạn quân đánh từ tàu sang Assam, chiếm Lào Lan Na, Xiêm.
Cùng 10 vạn quân mà chinh phạt nó khác hẳn. Miến nó mà có dân số đông đảo bằng tộc vịt chắc nó chiếm sạch cái đông dương
Bọn Kinh lộ đánh đấm trốn lính có ra gì đâu.
Sau này mộ binh chánh quy ở Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Quảng Trị đi đánh mới tan đổ Chiêm Thành đấy chứ :vozvn (22):
 
Bọn này đánh vào Thăng Long vua trần dứt áo nhảy lên thuyền chạy sang Vĩnh Phúc trốn. Tướng nào trước khi ra trận đánh với nó là như truy điệu sống luôn
Cơ mà dân ít (chưa chắc) không lấn được và tư duy của bọn cướp nên chỉ cướp đồ chứ đéo ăn đất. Đại Việt lại chủ yếu ăn đất chứ đéo thèm cướp đồ (cống thì lấy). Nên mới có bài hận đồ bàn chứ đéo phải hận thăng long.
Từng ngang ngửa với Đại Vịt giờ dân còn 1/300 so với dân Vịt. Kể cũng nhục gần bằng dân Mãn từng ỉa lên đầu dân Hán giờ đéo còn chưa đến 70 người biết nói tiếng Mãn
 
bọn champa này gốc ở đâu nhỉ
Quận Nhật Nam thuộc Hán, vốn là lũ mọi gốc Indo nổi dậy độc lập. Việt được Hán địt bọp truyền gene cho nên mới khôn hơn và nhìn mặt mũi sáng láng hơn mọi Chăm

Bọn này đánh vào Thăng Long vua trần dứt áo nhảy lên thuyền chạy sang Vĩnh Phúc trốn. Tướng nào trước khi ra trận đánh với nó là như truy điệu sống luôn
Cơ mà dân ít (chưa chắc) không lấn được và tư duy của bọn cướp nên chỉ cướp đồ chứ đéo ăn đất. Đại Việt lại chủ yếu ăn đất chứ đéo thèm cướp đồ (cống thì lấy). Nên mới có bài hận đồ bàn chứ đéo phải hận thăng long.
Từng ngang ngửa với Đại Vịt giờ dân còn 1/300 so với dân Vịt. Kể cũng nhục gần bằng dân Mãn từng ỉa lên đầu dân Hán giờ đéo còn chưa đến 70 người biết nói tiếng Mãn
Hòa huyết rồi, mấy thằng mắt hí là gốc ngoài Trường Thành
 
Lần nào đánh nhau với Champa cũng vét đc 10 vạn lính mà. An Nam thuộc dạng dân số đông đảo từ thời tách khỏi tàu rồi.
Xưa thằng Miến nó cầm 10 vạn quân đánh từ tàu sang Assam, chiếm Lào Lan Na, Xiêm.
Cùng 10 vạn quân mà chinh phạt nó khác hẳn. Miến nó mà có dân số đông đảo bằng tộc vịt chắc nó chiếm sạch cái đông dương
Dính Trường Sơn thôi chứ đéo biết ai ăn ai. Càng xuống dưới càng gặp mọi ngu
 

Có thể bạn quan tâm

Top