Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Hận Đồ Bàn: của nhạc sĩ Xuân Tiên – Một trang sử bi hùng của vương quốc Champa

Về hoàn cảnh sáng tác của ca khúc này, nhạc sĩ Xuân Tiên chia sẻ rằng thời trẻ ông đã nghiên cứu về âm điệu của các miền đất nước, trong đó có vùng Qui Nhơn, Bình Định.

Sau này khi đã vào Sài Gòn, công tác trong đài phát thanh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và sau này là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà , ông muốn sáng tác 1 ca khúc với chủ đề khác với chủ đề tình yêu đôi lứa của các nhạc sĩ khác nên mới tìm hiểu lại lịch sử của vùng đất Bình Định, về dân tộc Chăm và lịch sử vương quốc Champa mấy trăm năm trước đó để sáng tác thành ca khúc Hận Đồ Bàn, nói thay lời của người dân nước Chiêm bị “vong quốc” năm xưa.Trở lại với trận Đồ Bàn, đó được xem là một trong những thất bại lớn nhất lịch sử quân sự của các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy, trận này cũng được xem là chιến công hiển hách nhất của quân dân người Chiêm.
Champa là một quốc gia cổ, từng tồn tại suốt 17 thế kỷ, từ năm 192 đến 1832 trong công nguyên, độc lập với Đại Việt ở phía Bắc và đế quốc Khmer ở phía Tây. Thời cực thịnh, vương quốc Champa mở rộng từ Quảng Bình cho đến Bình Thuận ngày nay. Vào thời kỳ đó, lãnh thổ của Đại Việt chỉ từ Quảng Bình trở lên, còn từ Bình Thuận trở vào phía Nam là lãnh thổ của người Khmer (Phù Nam, Chân Lạp, Khmer).

Champa là tên gọi chung các triều đại của người Chăm với các quốc hiệu là Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành. Trong phạm vi ca khúc Hận Đồ Bàn, nhạc sĩ Xuân Tiên chỉ nhắc đến riêng thời kỳ mà Champa mang quốc hiệu Chiêm Thành, với các ca từ như: Chiêm thuyền, người dân nước Chiêm. Vương triều Chiêm Thành tồn tại từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15, với vị vua nổi tiếng nhất là Chế Bồng Nga đã từng làm cho vua tôi nhà Trần của nước Đại Việt nhiều phen kinh hồn.
Rừng hoang vu vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
Vạc kêu sương buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
Đàn đóm vương như bóng ai trong lúc đêm trường về
Rừng trầm cô tịch, đèo cao thác sâu
Đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo
Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân
Âm thầm hoà bài hận vong quốc ca
Người xưa đâu?
Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…
Một nửa đầu bài hát, ca từ và giai điệu rất thê lương, buồn nhắc về thời oanh liệt của một vương quốc đã không còn nữa. Chứng tích còn lại cho đến ngày nay chỉ là những tháp nghiêng rêu phong, hoang phế và tịch liêu. Những lầu các xưa, nơi từng là cung điện xa hoa thể hiện quyền lực của đế vương, với muôn vạn quân reo, cùng những tiệc liên hoan xa hoa mừng công, dạ yến tưng bừng, nay chỉ còn là một màu xanh ngát của rừng bạt ngàn.


Nay chỉ lả cái đền nát phế tích
Đứng trước những phế tích nhuốm màu thời gian, với tiếng gọi từ ngàn năm vọng về cùng hồn thiêng của các bậc quân vương xưa, người du khách – cũng là người nhạc sĩ Xuân Tiên – đã không tránh khỏi những cảm xúc sầu thương hoang hoải.

Chiêm thuyền Chế Bồng Nga vượt khơi cập biển Nghệ An đánh lên Thăng Long
Ở đoạn sau đó, giai điệu bài hát trở nên nhanh hơn, ca từ đầy tính bi hùng:
Đồ bàn miền Trung đường về đây
Máu như loang thắm chưa phai dấu
Xương trắng sâu vùi khí hờn căm khó tan
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai
Nhấp nhô trên sóng xa xa tắp
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga vượt khơi
Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù…
Triền sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm…
Ngược lại, có lẽ không người dân Việt nào cảm thấy tự hào khi nhắc về trận Đồ Bàn. Đó cũng là lý do mà cho đến ngày nay, hơn 60 năm sau khi Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên ra đời, thì ca khúc này vẫn còn nhận được nhiều ý kiến trái chiều.

Người ta có lý do khi cho rằng ca khúc này không nên được phổ biến rộng rãi, bởi vì nhắc đến “hận” Đồ Bàn, nhắc về nỗi niềm vong quốc của người Chiêm năm xưa, cũng có thể là nhắc lại những hận thù rất xưa cũ giữa 2 dân tộc Chiêm và Việt mà ngày nay đã về một mái nhà chung, sau khi vua Minh Mạng đã xóa sổ vương quốc Champa từ đầu thế kỷ 19.

Đồ Bàn – trong nhiều thế kỷ – chính là kinh đô của Chiêm quốc, gắn liền với tên tuổi vị vua nổi tiếng nhất của dân tộc Chăm là Chế Bồng Nga (Po Binasuor)
Sau khi lên ngôi được một thời gian, Chế Bồng Nga nhận thấy quân đội nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nên có ý muốn đưa quân Bắc phạt. Năm 1361, Chế Bồng Nga đem quân đi theo đường biển tiến đánh cửa biển Dĩ Lý (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay) khiến quan quân Đại Việt phải bỏ chạy. Quân Chiêm cướp phá và tàn sát dân chúng rồi quay trở ra biển. Vua Trần Dụ Tông lập tức ra lệnh cho phòng thủ. Đến năm sau, người Chăm lại sang quấy phá Hóa châu, đốt cháy nhiều nhà cửa. Vua Trần sai Đỗ Tử Bình đem binh chống giữ, củng cố và tái tổ chức các binh đội vùng Thuận Hóa.
Vào năm 1365, nhân dịp nam nữ vui chơi ngày xuân Ất Tị, người Chăm đã phục kích sẵn ở các vùng đồi núi chung quanh bất ngờ xông ra bắt cóc đám thanh niên này rồi chạy mất. Một năm sau, người Chăm tiếp tục sử dụng chiêu thức cũ nhưng tướng Trần Phạm A Song đã dự phòng trước nên phản công đánh đuổi được. Tháng giêng năm 1368, Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi bình Chiêm Thành. Tháng 4 ÂL năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (vùng Quảng Nam). Quân Chiêm đặt phục binh, quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước. Nhận thấy binh lực nhà Trần ngày càng sa sút, Chế Bồng Nga mới sai Mục Bà Ma đi sứ sang đòi lại đất Hóa châu nhưng không thành.

Chế Bồng Nga, một thời oanh liệt vàng son
Xưng thần với nhà Minh
Cũng trong năm đó, bên Trung Hoa, Chu Nguyên Chương đánh đuổi được người Mông Cổ lập nên nhà Minh, xưng đế niên hiệu Hồng Vũ, đặt kinh đô ở Nam Kinh. Chế Bồng Nga sai sứ là Hổ Đô Man sang mừng đem voi, hổ và các sản vật tiến cống. Vua Minh sai Ngô Dụng, Nhan Tông Lỗ, Dương Tải đưa tiễn sứ thần Chiêm về nước, phong Chế Bồng Nga làm Chiêm Thành quốc vương, ban ấn tín, một quyển lịch Đại Thống và 50 tấm lụa thêu vàng. Trong sắc thư gửi Chiêm vương có viết:
Ngày mồng bốn tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương, Trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ Đô Man chưa tới, Sứ giả của Trẫm cũng sẵn sàng trên đường đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của Trẫm đến để báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ [Nguyên Mông] trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ Trung quốc phong hóa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Quốc, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết, nên sai Sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ Sứ giả nước của Vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến; sai người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo [thờ nước lớn], Vương nên phụng thờ coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu; trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy tùng cũng được ban lụa là, lụa ỷ hoa văn, có phân biệt."
Từ đó người Chăm hàng năm mang cống phẩm sang Trung Quốc, được vua nhà Minh cho người sang tế sơn xuyên và giám khảo các kỳ thi. Cũng vào thời đó, biển Đông có rất nhiều hải khấu hoành hành ở biển Đông, sử Minh gọi là "Nuỵ khấu" hay "Uy khấu" (Giặc Nuỵ). Minh thực lục có ghi lại: Chế Bồng Nga đem binh thuyền ra đánh chìm và cướp về hai mươi thuyền chở 31 tấn gỗ quí, liền cho người đưa sang tiến cống nhà Minh khiến vua Minh rất hài lòng, ban thưởng hậu hĩ.
Sửa lần cuối: