Nguồn gốc tụi Pháp luân công đâyt ghi nhận PLC là môn tu tập, thiền tịnh có nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Tuy nhiên, phải hiểu rõ bản chất tư tưởng của PLC chỉ là pha trộn của Phật Giáo và Đạo Giáo.
T chả theo Phật, cũng chả theo Chúa. Nhưng PLC ko cho thờ cúng tổ tiên là xàm l, th giáo chủ LHC tự phong mình còn hơn cả Phật, hơn cả Thánhảo tưởng vcc.
PLC bị cấm ở rất nhiều nơi, cũng vì rất nhiều tư tưởng truyền bá trái ngược với văn hóa, thuần phong mĩ tục của cả TQ và VN.
Tu tập là tốt, nhưng mà đầu óc hãy tỉnh táo, chớ có u mê, luôn cho mình là đúng cũng là 1 dạng chấp mê bất ngộ.
Ở Trung Hoa, nếu bảo Thiếu Lâm là cội nguồn võ học thì còn có kẻ hoài nghi, nhưng nếu nói Bạch Liên giáo là căn nguyên các bang hội giang hồ thì ai cũng phải thừa nhận. Đó là một giáo phái thần bí, thoạt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tịnh Độ tông, hình thành ở Giang Tây vào giữa thế kỷ XII đời Tống. Môn đồ Bạch Liên tuân thủ lời Phật dạy: không sát sinh, không cờ bạc rượu chè, ăn chay trường, nhưng lại được phép cưới vợ lấy chồng. Đây là dị biệt không thể chấp nhận đối với giới điều của Phật giáo Trung Hoa nên Bạch Liên bị xem là tà giáo. “Tà giáo” này tuy vậy lại phù hợp với dân tình và thủy thổ Giang Tây nên ngày càng phát triển, tạo ảnh hưởng sâu rộng suốt một giải Trường giang.
Và khi vó ngựa Mông Cổ tràn sang thì chính bọn bàng môn tả đạo hiền lành, thường ngày chỉ biết ăn chay niệm Phật, không nỡ giết con sâu cái kiến này, lại là những trang nghĩa dũng hăng hái tuốt kiếm giương cung sẵn sàng xông ra đền nợ nước. Không đánh tan được giặc mạnh, cũng cứ lăn thân vào vó ngựa, dẫu chỉ để làm chậm vài nhịp bước của quân thù thì hy sinh cũng đáng. Thế của Bạch Liên từ giờ trở thành không đội trời chung với giặc Mông, nghĩa khí lòa mây đó được người người ngưỡng vọng.
Kịp khi Mông Cổ diệt xong nước của Tống để lập triều Nguyên thì Bạch Liên cũng đã hấp thụ thêm tư tưởng Di Lặc giáo[3] và kết nối với thế lực Minh giáo[4], trở thành mối đe dọa trực tiếp đến tồn vong của vương triều mới dựng.
Suốt gần trăm năm thống trị Trung Hoa, chẳng năm nào quân Nguyên được yên ổn với Bạch Liên giáo. Dù bị triều đình trấn áp liên tục nhưng Bạch Liên vẫn không ngừng phát triển. Sau này, vì nhiều lý do, Bạch Liên phải hóa thân thành nhiều bang phái khác nhau[5], Bát Quái giáo là một trong số ấy.
Bát Quái giáo do một nhân vật từng tham gia Bạch Liên là Lưu Tá Thần sáng lập vào niên hiệu Khang Hy (1662) đời Thanh. Từ Sơn Đông, Bát Quái dần mở rộng địa bàn sang các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Sơn Nam…
Tôn chỉ xiển dương là hợp nhất Nho-Thích-Đạo, nhưng giáo lý lại lấy Đạo thư làm căn bản, Bát Quái đề cao tu luyện nội đan trường sinh. Lý tưởng thực sự của Tá Thần chỉ là kiếm chác thủ lợi, y tự xưng giáo chủ và bố trí thân nhân nắm giữ các chức sắc quan trọng. Dòng họ này không từ thủ đoạn nào để lừa dối dụ dỗ dân ngu. Chúng thuyết giảng rằng nếu ai xuất tiền cho giáo phái càng nhiều thì phúc trạch người đó sẽ càng dồi dào. Từ lý thuyết ba đía đó, Bát Quái chế ra các loại tiền cõi trên để đổi lấy bạc thật của cõi thế. Nào Căn Cơ tiền (tiền dùng để vun đắp phẩm hạnh), Trát Căn tiền (tiền để kết duyên lành cho kiếp sau), Chủng Phúc tiền (tiền gieo trồng phước đức), Hiếu Kính tiền (tiền để dâng ông sơ bà cố)… Những tờ giấy lộn sau khi đóng ấn vẽ phù đã thành ra ngân phiếu để dành xài khi qua thế giới bên kia, mỗi tờ tiền cõi trên này, bọn nhà họ Lưu bắt người ta phải mua bằng hàng trăm lạng bạc thật[6].
Lưu Tá Thần ban đầu bắt chước Bạch Liên giáo, tự xưng mình là Di Lặc giáng sinh, sau đổi thành Khổng tử chuyển thế. Việc đổi nickname này mặc nhiên khiến ngôi vị giáo chủ trở thành thế tập gia truyền, nó chẳng những củng cố uy tín mà còn bảo đảm cho quyền lợi kinh tế dòng họ Lưu không phải rơi rớt, san xẻ ra ngoài.
Bát Quái giáo lộng hành nhưng vì họ chỉ chuyên tâm đong xèng, không màng chính trị, nên tạm thời được triều đình để yên đặng còn rảnh tay đối phó bọn phản động thực sự. Chừng Càn Long đại định xong xã tắc quay lại tính sổ Bát Quái thì mới lòi ra sản nghiệp của gia tộc thần thánh này lên đến mấy chục vạn kim ngân, ruộng đất điền trang phủ khắp các tỉnh thuộc địa bàn chiếm cứ. Toàn bộ cơ nghiệp đó liền bị tịch thu sung công quỹ.
Bị động chạm quyền lợi kinh tế, Lưu gia mới bớt dụ quần chúng cầu phước kiếp sau để chuyển sang hô hào khởi nghĩa giành độc lập-tự do-hạnh phúc ngay kiếp hiện tiền. Thanh triều chỉ chờ nhiêu đó, bạo động lập tức bị bẻ gãy bởi bạo lực, kết quả là Bát Quái gia truyền 5 đời tu hành chánh quả bị tru lục toàn môn chẳng còn lại quái nào.
Bát Quái bị diệt, nhưng những trò buôn thần bán thánh bịp bợm do chúng bày ra vẫn còn lưu trú trong tâm thức u mê của đám đông nông dân ngu muội. Và Nghĩa Hòa đoàn xuất hiện đã thừa hưởng di sản tinh thần này của Bát Quái.

“Thần quyền” Nghĩa Hòa đoàn
Sử gia đại lục luôn mô tả Nghĩa Hòa đoàn như một tổ chức cách mạng tượng trưng chính nghĩa, có công bảo quốc an dân, nhưng thực ra đây lại là một bang hội ngu muội mê tín và tàn ác.…
