Cao thủ đây rồi. Mày đọc kĩ đấy.
Đĩ mẹ sáng giờ đi đéo đâu cũng gặp mấy thằng trẻ trâu phát nản.
Lần đầu Ngột Lương Hợp Thai sang tao đoán tỉ lệ lính ngon hơn. Vì bọn Mông Cổ hậu cần nó tiện hơn Tàu rất nhiều, do đặc thù tổ chức quân đội của nó. Nếu ko nhầm sử chép 3 vạn thì phải.
Lần 2 thì khả năng vác phu đi nhiều, vừa ăn được Tống tội đéo gì không tận dụng. Với đánh lần 1 thấy Đại Việt ko đủ cỏ cho ngựa nên tính bài hậu cần phải cẩn thận hơn.
Sử liệu thì khả năng cũng có bị nói quá lên. Cái này không kiểm chứng được, chỉ có thể so sánh tương quan giữa các chiến dịch khác xem số có sai quá không thôi.
Tàu thì hay dùng tỉ lệ 6-1. Công một thành có vạn quân thì dùng quân số 6 vạn. Nhưng thành quách chưa bao giờ là điểm mạnh của Đại Việt, nên con số có thể ko đến tỉ lệ đó.
À tao có một thắc mắc muốn hỏi mày. Nếu đã biết Kiện, Lộng có lý lịch gia đình như thế, sao vua Trần còn giao cho trấn thủ chỗ xung yếu như vậy?
Đây là cuộc chiến giữa Tống Lý thời Lý Nhân Tông
Đoạn đối thoại giữa vua Tống và Quách Quỳ
Bọn mày đọc kỹ xem nhé và tỷ lệ binh phu lính đầy đủ đó.
Đến lúc Quách Quì xin đem hết quân-sĩ mình cai quản ở Phu-Diên theo xuống miền nam (20 tháng 2), vua bằng lòng ngay, và hỏi :”Quân, cần chừng bao nhiêu ?” Quì tâu : “Cần nhiều, miễn sao cho đủ dùng, chứ nói ra không hết”. (TL và TB 273/11b).
Cho nên, ở các lộ gần miền nam đều phải mộ quân : Quảng-tây, Quảng-đông, Giang-tây, Phúc-kiến (TB 273/14b). Trong khi mộ quân, vua Tống sợ quân ta lẩn vào làm gián-điệp. Ngày mồng 5 tháng 3, có chiếu dặn các lộ ở ven bể, như Quảng-đông, Giang-tây, Phúc-kiến phải coi chừng sự ấy. Vua lại nói :”Tại Quảng-đông ít người khỏe mạnh, phải chọn người Quảng-châu. Họp 500 người thành một chỉ-huy, đặt tên là tân-đằng-hải như ở Quảng-tây” (TB 273/14b).
Ngoài các quân tuyển mộ còn có các tướng tự ý tình nguyện đem quân mình theo để lập công. Đổng Việt xin mộ 1000 quân nghĩa dũng ở các châu Thi và Kiềm; Lưu Vĩnh-An có tội xin tòng quân chuộc tội.
Theo lời Quách Quì chép, Bộ-binh có mười vạn người và một vạn ngựa (CN và TB 274/1a). Quân miền bắc đưa xuống có chín tướng. Mỗi tướng quản chừng 5.000 quân. Vậy có 45 nghìn quân chính-thức; còn dư là quân tuyển-mộ ở miền nam, động-đinh và quân tình-nguyện.
Từ ngày mồng 1 tháng hai, ti chuyển-vận Quảng-tây đã bắt phu rất nhiều. Tại chín huyện thuộc Quế-châu, bắt 8.500 bảo-đinh, 91.200 các hạng khác. Bảo-đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo-đinh có thể dùng làm chiến binh. (Đ. Ho, DL 8-3; TB 273/1a)
Chừng ấy cũng không đủ, viên chuyển-vận-sứ Lý Bình-Nhất tính cần có 40 vạn phu cả thảy. Ngày mồng 1 tháng 4 (B. Tu, DL 6-5), vua Tống sai Quách Quì xét lại, và dặn nên làm cho khỏi náo-động nhân-tâm. Quì nói :”Theo Bình-Nhất, lương-khẩu cần cho 10 vạn quân và một vạn ngựa ăn trong một tháng phải có 40 vạn phu chuyên-chở. Một tháng đã vậy; huống chi, từ nay đến lúc tới sào-huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà thôi. Nay tính cho rộng-rãi, trừ phần quân và ngựa tự chở lấy, trừ phần có thể lấy ở các địa-phương sản-xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại làm thịt trâu bò ấy cho quân ăn. Nếu ăn còn thừa, sẽ cấp cho các đồn-điền cày. Làm như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ dùng xe lừa kéo; cho đi đi, lại lại, mà chở. Nói tóm lại, ta có thể bỏ bớt số phu đi một nửa, còn 20 vạn mà thôi.” (Lời tâu vào tháng 11, CN, theo TB 274/1a).
Cũng vì thiếu phu khuân vác, mà ti An-nam chiêu-thảo đã phải xin bỏ bớt một nửa mũi tên bằng sắt, chỉ mang theo 32.400 cái mà thôi (9-2, TB 273/6b).