Live Tại sao Việt Nam không có truyền thống triết học?

  • Tạo bởi Tạo bởi TUG
  • Start date Start date

TUG

Địt mẹ đau lòng
Vatican-City
Khi ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức, Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc. Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận, và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời rõ ràng là chưa có.

Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.

Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.

Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.

Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.

Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.

Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.

Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.

Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.

Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.

Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
 
Bước vào thế kỷ20, quyền tự do tư tưởng tiếp tục bị giới hạn trong các hệ hình chính trị mới. Triết học hệ thống đòi hỏi khả năng truy vấn đến tận cùng các giả định nền tảng, kể cả những điều cấm kỵ nhất về bản thể, nhận thức, đạo đức và quyền lực. Nếu quyền tự do học thuật bị kiểm soát chặt chẽ, triết học rất khó vươn lên khỏi vai trò minh họa cho hệ tư tưởng sẵn có. Và dù muốn dù không thì thực tế là có sự kiểm soát mạnh mẽ quyền tự do học thuật ở Việt Nam trong hầu hết lịch sử thế kỷ 20.

Bên cạnh những yếu tố lịch sử và thể chế, có lẽ cần nhìn vào một khía cạnh sâu hơn từ tính cách văn hoá dân tộc: người Việt về tổng thể ít quen vận hành trong các hệ thống tư duy trừu tượng-phổ quát kéo dài, như kiểu triết học hệ thống phương Tây vốn đòi hỏi sự kiên trì xây dựng khái niệm tầng lớp, định nghĩa chuẩn xác và tranh luận logic qua nhiều thế hệ học thuật. Văn hoá tư duy Việt Nam quen với sự linh hoạt, uyển chuyển, thực dụng trong ứng xử đời sống, coi trọng "lẽ phải đời thường" hơn là khái niệm tuyệt đối, sự “du di” “chín bỏ làm mười” hơn là tính chặt chẽ và nghiêm khắc trong lý luận, logic…

Tuy vậy, ở đây lại có thể có một nghịch lý thú vị: đó là Việt Nam vẫn có thể sản sinh ra khá nhiều nhà toán học đỉnh cao nhưng lại hầu như không có ai xứng đáng được gọi là triết gia (với ngoại lệ có lẽ chỉ có Trần Đức Thảo). Điều này có lẽ là vì toán học — dù rất trừu tượng — vận hành theo bộ luật nội tại khép kín, ít phụ thuộc vào không gian công luận xã hội. Trong khi đó, triết học hệ thống lại luôn gắn chặt với điều kiện phát triển văn hoá công khai tranh luận, tự do phản biện, xây dựng luận đề xuyên thế hệ và cần không gian phản biện và tranh luận — những điều mà Việt Nam hiện chưa tích lũy được đủ lâu dài và ổn định. Vì vậy, nghịch lý "giỏi toán nhưng thiếu triết gia" thực chất phản ánh sự khác biệt sâu xa giữa loại hình năng lực cá nhân đóng kín và năng lực xây dựng cộng đồng tư duy công khai. Nói cách khác dễ hiểu hơn, các tinh hoa trí tuệ sắc sảo của Việt Nam sẽ chọn cách học Toán và tự do trong môi trường đó, chứ không phải nghiên cứu Triết học và gặp vô số những giới hạn cho khả năng phát triển của họ.

Mặc dù vậy, nếu nhìn lại bề dày lich sử thì trong dòng chảy tư tưởng Việt Nam vẫn có những tia sáng le lói phản ánh tiềm năng triết học ẩn tàng. Nguyễn Trãi ở thế kỷ 15, với triết lý nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo, đã nêu ra tư tưởng trị quốc rất đặc sắc, coi dân làm gốc, quyền lực chính trị phải thuận theo đạo lý trời đất. Đây là một dạng tư duy chính trị nhân bản sớm, dù chưa hệ thống hóa thành học thuyết chính trị trừu tượng như Hobbes hay Rousseau. Một vài nhà tư tưởng khác cũng có những đóng góp nhất định và rải rác như Chu Văn An, Lê Quý Đôn nhưng không đủ để tạo thành hệ thống hay một trường phái riêng của mình, khác với các Nho gia lớn của Trung Quốc như Chu Hy, Trình Di, Vương Dương Minh…

Sang thế kỷ 20, Linh mục Kim Định cố gắng thiết lập một triết học bản địa qua Việt Nho, Triết lý An Vi, nỗ lực phân biệt Việt Nho với Hán Nho. Ông đề xuất những hệ hình tư duy xoay quanh hài hòa âm dương, bản thể vũ trụ quân bình, trực giác tâm linh Lạc Việt. Dù công trình của ông còn gây tranh cãi về mặt sử liệu và hệ thống hóa, nhưng đây là nỗ lực hiếm hoi nhằm xây dựng hệ thống khái niệm bản địa có tính bản thể luận. Những ảnh hưởng của ông đôi khi lại thấy xuất hiện sau này trong các ý tưởng của các nhà nghiên cứu hậu sinh, nhất là trong mảng văn hóa.

Nổi bật hơn cả là trường hợp Trần Đức Thảo. Được đào tạo bài bản tại Pháp, đối thoại trực tiếp với Husserl, Sartre, Merleau-Ponty, Trần Đức Thảo nỗ lực xây dựng hệ thống triết học kết hợp hiện tượng luận, duy vật biện chứng và nghiên cứu ngôn ngữ để lý giải nguồn gốc ý thức. Tác phẩm Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng của ông từng được đánh giá cao tại Pháp. Dù sự nghiệp sau đó gặp nhiều thăng trầm, ông vẫn lặng lẽ tiếp tục các nghiên cứu triết học nền tảng, để lại những công trình độc đáo về sự chuyển hóa từ bản năng động vật sang ý thức ngôn ngữ con người.

Nhớ nhà khổ hạnh Trần Đức Thảo - Báo Công an Nhân dân điện tử

(Trần Đức Thảo- có lẽ là triết gia người VN duy nhất trong lịch sử cho tới hiện nay).



Bên cạnh các trường hợp cá nhân, cũng cần kể đến các học giả như Nguyễn Đăng Thục, Cao Xuân Huy, Lê Thành Khôi, những người đã nỗ lực nghiên cứu hệ thống tư tưởng Đông phương, cấu trúc văn hóa Việt Nam từ các góc nhìn triết học - văn hóa học. Dù các công trình này chưa hình thành hệ thống lý luận chặt chẽ, nhưng đã mở ra nhiều tọa độ tri thức quan trọng cho thế hệ học giả sau.

Phạm Công Thiện lại là một trường hợp đặc biệt. Ông có thể được xem như một triết gia tự do, nhưng không phải triết gia theo nghĩa hàn lâm Tây phương. Triết học của ông vận hành chủ yếu như một đời sống nội tâm siêu nghiệm, giàu chất trực giác thiền học và phóng khoáng tinh thần phương Đông, hấp thụ nhanh nhạy nhiều nguồn tư tưởng từ Heidegger, Nietzsche đến Thiền tông, Nagarjuna (Long Thọ), Krishnamurti. Tác phẩm nổi bật của ông như Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965) từng lay động giới trẻ miền Nam như một tuyên ngôn giải phóng tâm thức giữa thời chiến. Thế nhưng, chính vì vận hành như một tư duy siêu nghiệm cá nhân, Phạm Công Thiện không trở thành một triết gia đúng nghĩa theo cách hệ thống hóa triết học một cách chặt chẽ.

Trong các nỗ lực tư duy độc lập ở Việt Nam hậu chiến, cũng cần nhắc đến trường hợp Nguyễn Trần Bạt. Tuy không phải là triết gia hàn lâm theo nghĩa phương Tây, Nguyễn Trần Bạt lại nổi lên như một trong số hiếm hoi những cây viết có tư duy phản tỉnh sâu sắc về quyền lực, tự do, đạo đức và phát triển trong bối cảnh Việt Nam đương đại. Tuy các lập luận của Nguyễn Trần Bạt chưa tiến đến cấp độ hệ thống triết học với cấu trúc bản thể luận và nhận thức luận như các triết gia phương Tây và thiếu tính hệ thống, nhưng ông đã góp phần quan trọng trong việc mở ra không gian phản tỉnh, thúc đẩy những câu hỏi nền tảng về đạo đức chính trị và triết lý phát triển, vốn là những vấn đề mà xã hội Việt Nam còn né tránh.

Vậy, tương lai của triết học Việt Nam thế nào? Liệu chúng ta sẽ có được những người có thể được gọi một cách xứng đáng là các triết gia, chứ không phải các “nhà nghiên cứu triết học” hay các “giảng viên triết học” trong nửa đầu thế kỷ 21 hay không?

Trong thế kỷ 21, cơ hội hình thành triết học hệ thống tại Việt Nam đang mở ra những viễn cảnh khả dĩ mà các thế hệ tiền nhân chưa từng có. Người Việt hôm nay có khả năng tiếp cận đồng thời các hệ thống tư tưởng Đông – Tây – Kim – Cổ. Từ Kant, Hegel, Heidegger đến Nagarjuna, Duy Thức, Lão Tử, tất cả đều nằm trong tầm tay của người nghiên cứu. Toàn cầu hóa tri thức cho phép những cuộc hội thoại liên văn hóa sâu sắc, kết hợp nhiều truyền thống tư tưởng đa dạng. Không gian tự do học thuật cũng đã mở rộng hơn đáng kể, dù chưa tuyệt đối, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nghiên cứu triết học liên ngành, vượt hệ tư tưởng.

Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất vẫn còn đó: thiếu vắng một cộng đồng triết học đích thực. Triết học hệ thống không thể hình thành từ vài hội thảo học thuật, vài bài báo thời thượng hay những khóa học mùa hè mang tính đại trà cho công chúng. Nó đòi hỏi những thế hệ học giả dấn thân trọn đời cho công trình xây dựng hệ thống phạm trù, cho các cuộc đối thoại nội bộ dài hạn, và cho nỗ lực kiến tạo ngôn ngữ triết học mới. Việt Nam vẫn thiếu các trung tâm triết học thuần túy, phi công cụ hóa, phi chính trị hóa; thiếu các diễn đàn học thuật có sức bền nội tại; thiếu các cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các hệ hình tư tưởng cạnh tranh trong chính nội bộ.

Nếu triết học hệ thống Việt Nam có thể hình thành, rất có thể nó sẽ xuất phát từ một số trục chính. Một hướng đi khả dĩ là triết học văn hóa Việt Nam, khai thác chiều sâu của các lớp trầm tích văn hóa bản địa như Đạo Mẫu, tín ngưỡng làng xã, tâm linh nông nghiệp, kết hợp với Nho - Lão - Phật đã dung hợp từ lâu trong đời sống dân tộc. Một hướng đi khác là triết học Đông - Tây liên ngành, nơi các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, siêu hình học phương Tây hội thoại với minh triết Đông phương. Một hướng khả thể đáng lưu ý cho sự hình thành tư duy phát triển nội sinh lâu dài của Việt Nam nằm ở việc khai triển triết học Phật giáo dân tộc. Khác với nhiều nền Phật học hệ thống hóa từ Ấn Độ hay Tây Tạng, truyền thống Phật giáo Việt Nam trải qua hàng nghìn năm đã phát triển thành một dạng minh triết sinh tồn mềm dẻo, kết hợp giữa tư duy Trung quán, Duy thức và năng lực thích nghi thực tiễn với điều kiện lịch sử bất định. Và cuối cùng, trong bối cảnh nhân loại đang bước vào thế kỷ hậu nhân loại với sự trỗi dậy của AI, sinh học tổng hợp và khủng hoảng sinh thái toàn cầu, người Việt cũng có thể góp phần vào những cuộc thảo luận triết học về ý nghĩa của con người, của sự sống và của vận mệnh sinh tồn trong thời đại bất định này.

Triết học hệ thống, nếu có thể hình thành tại Việt Nam, sẽ không thể vội vàng. Nó là giấc mơ của nhiều thế hệ. Có thể cần tới năm mươi năm, thậm chí một thế kỷ tranh luận học thuật bền bỉ, kiên nhẫn xây dựng cộng đồng trí thức, và dám dấn thân vào những cuộc truy vấn cam go về nền tảng tư duy. Nhưng nếu điều đó xảy ra, triết học Việt Nam có lẽ sẽ không đơn thuần lặp lại các hệ hình cũ, mà có thể trở thành một bản thể độc đáo, như chính vị thế giao lộ phức hợp và bền bỉ sinh tồn của dân tộc Việt giữa dòng chảy văn minh nhân loại.
 
Túm cái quần lại là dân Vẹm có tính cách tự ti, thụ động, ít khi chịu khó tìm tòi và đặt câu hỏi. Hôm rồi cty tao tổ chức một buổi hội thảo, có cả chuyên gia nước ngoài sang diễn giả trực tiếp. Lúc lên chương trình, có cái mục Q&A, thằng chuyên gia nước ngoài nó để 30 phút, tao ngạc nhiên mới hỏi thằng tây đó là mày đã bao giờ làm hội thảo ở nước tao chưa, bên tao bọn nó đéo bao giờ đặt câu hỏi đâu. Nó tưởng tao đùa thế là tao đéo thèm gài câu hỏi vào chương trình luôn, đến hôm hội thảo phần Q&A cu cậu cứ đứng trên hỏi đi hỏi lại có ai có câu hỏi gì không đến 3 lần xong đéo thằng nào thèm hỏi, cu cậu tẽn tò trên bục luôn :))
 
Túm cái quần lại là dân Vẹm có tính cách tự ti, thụ động, ít khi chịu khó tìm tòi và đặt câu hỏi. Hôm rồi cty tao tổ chức một buổi hội thảo, có cả chuyên gia nước ngoài sang diễn giả trực tiếp. Lúc lên chương trình, có cái mục Q&A, thằng chuyên gia nước ngoài nó để 30 phút, tao ngạc nhiên mới hỏi thằng tây đó là mày đã bao giờ làm hội thảo ở nước tao chưa, bên tao bọn nó đéo bao giờ đặt câu hỏi đâu. Nó tưởng tao đùa thế là tao đéo thèm gài câu hỏi vào chương trình luôn, đến hôm hội thảo phần Q&A cu cậu cứ đứng trên hỏi đi hỏi lại có ai có câu hỏi gì không đến 3 lần xong đéo thằng nào thèm hỏi, cu cậu tẽn tò trên bục luôn :))
Có 8keo đó
 
Trong giới triết cho có ông Bùi Văn Nam Sơn dịch và dạy triết. Đào tạo mấy tml quỵt tiền sách người khác
 
Tại vì không biết chữ, vua quan đều thích ngu dân dễ trị. Thằng nào được ăn học tý là ra vẻ ta đây, giấu như mèo giấu cứt
 
Tau nhớ có đọc đâu đó A Thảo TĐT khi giải phóng vìa Thổ Đu, a bẩu vứi Cha a phải nhường nhà cho quan kách mệnh
Cha a bẩu sao lại có cái sự vô lý như thế thỳ a bẩu quan kách mệnh họ cần hơn nhà a hơn và cũng vìa lý do họ là bên Thắng Cuộc
Cuối đời anh thì chấc a cũng nếm trải đủ cái quả mà anh đã tạo ra tin theo thế tổ Huzhiming
Thế tổ cũng thật kỳ tài vì cũng học hành.mấy giề nhưng kêu gọi đc bitế bao đám Trí Ngủ = Nerd vìa phục vụ.chánh.quyền vứi vỏ bọc là phong trao giải phóng câc dân tọc thuộc địa
Trí thức là cục Phân
Mao Chủ Tiệm said Hồng thỳ luôn hơn Chuyên thôy
 
Tau nhớ có đọc đâu đó A Thảo TĐT khi giải phóng vìa Thổ Đu, a bẩu vứi Cha a phải nhường nhà cho quan kách mệnh
Cha a bẩu sao lại có cái sự vô lý như thế thỳ a bẩu quan kách mệnh họ cần hơn nhà a hơn và cũng vìa lý do họ là bên Thắng Cuộc
Cuối đời anh thì chấc a cũng nếm trải đủ cái quả mà anh đã tạo ra tin theo thế tổ Huzhiming
Thế tổ cũng thật kỳ tài vì cũng học hành.mấy giề nhưng kêu gọi đc bitế bao đám Trí Ngủ = Nerd vìa phục vụ.chánh.quyền vứi vỏ bọc là phong trao giải phóng câc dân tọc thuộc địa
Trí thức là cục Phân
Mao Chủ Tiệm said Hồng thỳ luôn hơn Chuyên thôy
:ops::surrender:
@Kod112 @paradise1105 ai sub hộ thầy cái được khum
 
Tau nhớ có đọc đâu đó A Thảo TĐT khi giải phóng vìa Thổ Đu, a bẩu vứi Cha a phải nhường nhà cho quan kách mệnh
Cha a bẩu sao lại có cái sự vô lý như thế thỳ a bẩu quan kách mệnh họ cần hơn nhà a hơn và cũng vìa lý do họ là bên Thắng Cuộc
Cuối đời anh thì chấc a cũng nếm trải đủ cái quả mà anh đã tạo ra tin theo thế tổ Huzhiming
Thế tổ cũng thật kỳ tài vì cũng học hành.mấy giề nhưng kêu gọi đc bitế bao đám Trí Ngủ = Nerd vìa phục vụ.chánh.quyền vứi vỏ bọc là phong trao giải phóng câc dân tọc thuộc địa
Trí thức là cục Phân
Mao Chủ Tiệm said Hồng thỳ luôn hơn Chuyên thôy
Thảo tdt là thảo nào
 
Chúng ta có lòng nồng nàn yêu nước. Có ánh sáng của Đảng soi đường, dưới chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Vậy là được rồi.
 
Trước khi nghĩ tới việc gì lớn lao thì phải no cái bụng.
Xưa bị đô hộ rồi chiến tranh, dân chúng khổ vkl thì lấy đâu thời gian nghiên cứu nghiền ngẫm triết học, ăn ngủ đụ ị còn chưa lo xong.
Hồi ông Hồ về VN rủ rê dân chúng đánh nhau thì dân ngu cu đen cũng chỉ biết nghĩ là sau đó có cái ăn thôi chứ biết bòi gì Chủ nghĩ này chủ nghĩa nọ đâu, sau đó có đợt kế cận đi học các thứ thì Đảng thanh trừng hết đứa nào theo chủ nghĩa xét lại rồi, thế là ôn lằn từ đấy.
Ăn không đủ no thì nghĩ gì triết học.
 
Khi ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức, Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc. Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận, và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời rõ ràng là chưa có.

Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.

Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.

Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.

Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.

Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.

Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.

Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.

Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.

Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.

Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
Thứ nhất thất học , vô học nhiều
Thứ hai là đến thời hiện đại thì người Giao chỉ ( việt nam ) quan tâm đến Lồn học , tình dục học , kinh tế học , lô đề số học , ... còn triết học quan tâm làm đéo gì
 
Sửa lần cuối:
Khi ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức, Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc. Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận, và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời rõ ràng là chưa có.

Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.

Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.

Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.

Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.

Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.

Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.

Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.

Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.

Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.

Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
Dài dòng quá mày , người Việt không có truyền thống triết học vì không có truyền thống đào sâu tư duy , tao có thể ví von như 1 cốc nước rất ít nước , tệ thì là đéo có tý nước nào , nhưng đấy chưa phải bi kịch nhất , cái bi kịch nhất ở đây là cốc nước đấy nghĩ nó là cốc nước đầy hoặc gần đấy , thế thì học , đào sâu vào triết học vào làm gì , bố mày là nhất rồi , ngạo nghễ rồi .
 
1. Văn hóa tiểu nông - trọng tình hơn lý
Xã hội Việt Nam truyền thống là xã hội làng xã, gắn bó bởi quan hệ họ hàng, làng xóm. Sự hòa thuận, tình nghĩa được coi trọng hơn nguyên tắc cứng nhắc. Tục ngữ có câu: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình” → phản ánh rõ tư duy cảm tính.

2. Ảnh hưởng của Nho giáo và tư tưởng Á Đông
Nho giáo đề cao trật tự, lễ nghĩa, quan hệ xã hội, khiến con người ứng xử dựa nhiều vào vị thế, tình cảm, giữ thể diện cá nhân hơn là lý luận thuần túy. Người Việt thường cân nhắc “người ta nghĩ gì” trước khi cân nhắc “điều đó có hợp lý không” (hiện tại đã thay đổi do tư tưởng nho giáo bị mai một).

3. Truyền thống giáo dục và lối mòn tư duy
Truyền thống học tập lâu nay thiên về học thuộc, ghi nhớ hơn là rèn luyện tư duy phản biện, tư duy hợp lý. Điều này khiến mọi người quen xử lý tình huống bằng trực giác, cảm xúc thay vì phân tích lý tính.
 
Tau nhớ có đọc đâu đó A Thảo TĐT khi giải phóng vìa Thổ Đu, a bẩu vứi Cha a phải nhường nhà cho quan kách mệnh
Cha a bẩu sao lại có cái sự vô lý như thế thỳ a bẩu quan kách mệnh họ cần hơn nhà a hơn và cũng vìa lý do họ là bên Thắng Cuộc
Cuối đời anh thì chấc a cũng nếm trải đủ cái quả mà anh đã tạo ra tin theo thế tổ Huzhiming
Thế tổ cũng thật kỳ tài vì cũng học hành.mấy giề nhưng kêu gọi đc bitế bao đám Trí Ngủ = Nerd vìa phục vụ.chánh.quyền vứi vỏ bọc là phong trao giải phóng câc dân tọc thuộc địa
Trí thức là cục Phân
Mao Chủ Tiệm said Hồng thỳ luôn hơn Chuyên thôy
Thái tổ bản triều khi sang pháp anh thảo đến gặp xin về cùng.
Thái tổ từ chối ngay lập tức và kêu chú ở lại pháp có ích cho cách mạng hơn
Ai ngờ anh thảo ngu dốt mấy năm sau trốn về lên việt bắc gặp thái Tổ xin đi theo
Thái Tổ ngớ người luôn vừa thương vừa bực mình cuối cùng cũng phải nhận cho đi dạy
Trong vụ nhân văn giai phẩm anh thảo cũng là đầu sỏ nhưng anh ấy đéo bị bắt giam cũng không bị mất việc
Vẫn cho đi dạy bình thường chỉ có bị cô lập
Tao đéo biết có liên quan đến thái Tổ chỉ đạo tha cho ảnh hay không nhưng việc anh thảo không bị bắt hay bị đuổi việc là rất lạ
Chắc thái tổ biết ảnh gàn và hâm dở nên ra lệnh không tuyệt tình với anh thảo
 
Sau ngày định mệnh 30/4/75 thì tất cả những sách vở mang tư tưởng khai thoáng dân trí đều là tro tàn rồi mày.giờ chỉ còn sách vở định hướng.tao nhớ thời 96-97 đi học lâu lâu cái cổ động nhiệt liệt chào mừng abcdxyz gì đấy.rồi thêm câu cảm ơn chính sách của ****...bla.bla
Về giáo dục thì như nồi lẩu thập cẩm
Tao đi học 4 năm đại học hơn.rồi thêm học ths tao nhận ra rằng cái môn triết học chủ nghĩa mác lê là là cái môn dở ng nhất ( còn 1 môn nữa nhưng tao là cũng là cén bụ quèn nên phải yêu nước và bảo vệ thần thánh)
 

Có thể bạn quan tâm

Top