TUG
Địt mẹ đau lòng
Khi ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức, Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc. Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận, và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời rõ ràng là chưa có.
Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?
Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.
Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.
Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.
Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.
Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.
Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.
Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.
Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.
Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.
Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?
Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.
Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.
Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.
Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.
Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.
Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.
Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.
Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.
Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.
Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.


