Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng
Lê Văn Duyệt (1763 - 1832) là công thần từ thời vua Gia Long đến thời vua Minh Mạng, từng theo Nguyễn Ánh sang Vọng Các (tức Bangkok, Thái Lan ngày nay) lúc dấy nghiệp chống Tây Sơn, là người có sức ảnh hưởng lớn ở triều đình Huế, là võ quan được tín nhiệm trong các công cuộc dẹp loạn, tiễu trừ Man nhân từ miền Trung ra Bắc, là cận thần mà vua Gia Long tin tưởng cho đến khi thăng hà.
|
Tuy người thấp nhỏ nhưng vốn thông minh và lanh lẹ, làm được việc nên chẳng bao lâu, Lê Văn Duyệt trở thành người chỉ huy hai đội thái giám thuộc nội phủ. Trong 2 lần Nguyễn Vương (vua Gia Long sau này) bôn tẩu qua Xiêm tị nạn để tránh sự truy lùng của Tây Sơn (năm 1784 và năm 1785), Lê Văn Duyệt đều có mặt cận kề nên về sau được kể vào hàng “Vọng Các công thần”.
Lê Văn Duyệt thật sự khởi nghiệp quân sự vào năm 1789, sau khi Nguyễn Vương làm chủ được Gia Định và giao cho ông việc mộ lính để bổ sung lực lượng. Từ đó, ông được giao nhiệm vụ cầm quân và tham gia các trận đánh. Năm 1795, bằng mưu lược và sự táo bạo, Lê Văn Duyệt đã cùng Nguyễn Đức Xuyên thành công trong việc đánh tan quân của Trần Quang Diệu, giải vây thành Diên Khánh (Nha Trang) đang do Võ Tánh trấn giữ. Năm 1801, Lê Văn Duyệt lập được công lớn trong trận phá tan thủy quân Tây Sơn tại đầm Thị Nại, một trận đánh quyết định, được nhà Nguyễn xếp vào loại “Trung hưng đệ nhất võ công” (Từ điển nhà Nguyễn).
GS K. W. Taylor viết: “Võ công oanh liệt nhất của Lê Văn Duyệt là trận thuỷ chiến ở đầm Thị Nại (Qui Nhơn). Cuối năm 1800, được hướng dẫn bởi những đồng minh thuộc các dân tộc thiểu số trên cao nguyên, Lê Văn Duyệt đem quân tiến đến phía sau quân Tây Sơn đang vây Võ Tánh trong thành Chà Bàn (về sau sẽ đổi tên thành Bình Định). Vài tuần lễ sau, vào đầu năm 1801, Lê Văn Duyệt cho các chiến thuyền có trang bị đại bác tiêu diệt thủy quân Tây Sơn ở đầm Thị Nại và chiếm cảng Qui Nhơn. Những chiến thắng này đã thay đổi về cơ bản cục diện của cuộc chiến, củng cố vị trí của Nguyễn Ánh ở Bình Định” (A History of the Vietnamese).
Sách “Đại Nam Thực lục” của triều Nguyễn chép: “Thủy quân cả phá quân giặc ở cửa Thị Nại. Trước là Tư đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền đại hiệu Định quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển, lại dựng hai bảo ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Tòa bên hữu cửa biển, đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các quân làm xong chiến cụ hỏa công, vua mật định đêm hôm 16 cất quân đánh úp. Sai Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lẻn xuống Da Áo [Vũng Dừa], chờ khi hiệu lửa ở Tiêu Cơ phát thì đánh hãm lũy giặc, đặt mai phục ở sau núi để ngăn giặc. Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vua bèn thân đem thủy quân tiến phát. Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lẻn trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo. Giặc giữ bảo cự chiến, từ giờ Dần đến giờ Ngọ, tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa. Di Nguy bị bắn chết. Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tam lui. Duyệt thề chết, vẫy quân xông lên, giờ thân vào được cửa biển, dùng đuốc hỏa chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại. Người ta khen trận này là võ công to lớn nhất”.
Sử gia Tạ Chí Đại Trường mô tả:
“Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-1801). Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ xông vào, đốt thiêu thủy đồn làm hiệu.
Và trận tấn công bắt đầu. Theo Le Labousse, quân Nguyễn chỉ dùng có 4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thủy "to họng" Võ Di Nguy đi trước.
Quân lính "thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hỏa ra". Thế rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là "tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa". Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 ("Dần tới Ngọ" của Thực lục). Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, "ta đốt hết cả thủy quân giặc, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào".
Ông thấy rằng "người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như vậy" và sử quan cũng không quên kết luận: "Người ta gọi trận này là đệ nhất võ công".
Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã, ra dụ chiêu an rồi sai người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600 người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thủy dinh và Phó Vệ úy Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách.
Phía Tây Sơn, họ "chống giữ đến chết" như Chaigneau nói, cho nên toàn bộ thủy quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thị Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thủy quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thị Nại này vậy” (Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, tr. 290, 291, 292).
Đến 4 giờ sáng hôm sau, tức ngày 16 tháng giêng, các chiến hạm của Phú Xuân đều ra tro, thuyền lớn, thuyền nhỏ đến quá trưa mới tắt lửa. Tính ra quân Nguyễn chết mất 600 người, trong số đó có tướng Võ Di Nguy, ba anh em Thư Ngọc Hầu... Quân Tây Sơn thiệt hại rất lớn. Theo sử nhà Nguyễn thì Tây Sơn mất tới 20.000 lính và hầu hết cả hải đội hùng mạnh: thuyền buồm các loại bị mất 1.800 chiếc, 600 khẩu đại bác đủ cỡ và nhiều quân nhu, vũ khí, vàng bạc của binh tướng Tây Sơn rơi xuống đáy biển hết.
