Bất ngờ với số liệu kinh tế ngầm của một số nước Đông Nam Á.

Joey bốc vác

Thôi vậy thì bỏ
Trước giờ tao cứ nghe bò đỏ ngạo nghễ VN dân giàu ngầm, bà bán bán mì đầu ngõ thu nhập tháng mấy chục củ, bà bán phở thu nhập trăm củ.
Nhưng số liệu WorldBank thống kê đàng hoàng thì tỉ lệ kinh tế không chính thức của VN thấp nhất nhì khu vực, thằng cao nhất là Thái Lan.
Mẹ chúng nó cái giống dân gì mà suốt ngày nổ xạo Lồn.



 
ma2 ko biet no tinh cong thuc the nao

a. Self-employment (Tự làm chủ)
→ Khoảng 30–35% lực lượng lao động Việt Nam là lao động tự làm (bán hàng rong, nông dân nhỏ lẻ, nghề tự do...).
Nguồn: ILOSTAT; Vietnam Labour Force Survey (GSO – Tổng cục Thống kê).

b. Informal employment (Lao động phi chính thức)
→ Năm 2022, khoảng 65% tổng số lao động Việt Nam làm việc trong khu vực phi chính thức, không có hợp đồng hoặc bảo hiểm xã hội.
Nguồn: General Statistics Office (GSO) – Báo cáo Lao động việc làm 2022.

c. Employment outside formal sector (Làm việc ngoài khu vực chính thức)
→ Khoảng 18 triệu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước hoặc doanh nghiệp đăng ký chính thức (2021).
Nguồn: GSO – Báo cáo kinh tế xã hội quý IV/2021.

d. Labor force without pension insurance (Không có bảo hiểm hưu trí)
→ Khoảng 70% lao động không đóng bảo hiểm xã hội (2020).
Nguồn: Vietnam Social Security (VSS) & World Bank Vietnam Social Protection Review.
 
Trước giờ tao cứ nghe bò đỏ ngạo nghễ VN dân giàu ngầm, bà bán bán mì đầu ngõ thu nhập tháng mấy chục củ, bà bán phở thu nhập trăm củ.
Nhưng số liệu WorldBank thống kê đàng hoàng thì tỉ lệ kinh tế không chính thức của VN thấp nhất nhì khu vực, thằng cao nhất là Thái Lan.
Mẹ chúng nó cái giống dân gì mà suốt ngày nổ xạo lồn.



Sao báo đĩ hô dân TL đang chết đói, không đủ tiền mua gạo?
 
Bake làm số liệu rất bố láo, giả dối t không tin được. Chắc 20 năm nữa Bake cũng không vượt Thái với cái OS như hiện tại.
 
Trước giờ tao cứ nghe bò đỏ ngạo nghễ VN dân giàu ngầm, bà bán bán mì đầu ngõ thu nhập tháng mấy chục củ, bà bán phở thu nhập trăm củ.
Nhưng số liệu WorldBank thống kê đàng hoàng thì tỉ lệ kinh tế không chính thức của VN thấp nhất nhì khu vực, thằng cao nhất là Thái Lan.
Mẹ chúng nó cái giống dân gì mà suốt ngày nổ xạo lồn.



Dân Vẹm đang sục kẹc sắp vượt Thái Gay @TrienChjeu
 
Mặc dù được tiếp cận và giải thích dưới nhiều góc độ nhưng có thể liệt kê một số đặc
điểm chính của kinh tế phi chính thức gồm: (1) Đây là khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ hợp
pháp nhưng không chịu sự quản lý, điều chỉnh của các cơ quan nhà nước đặc biệt là cơ quan thuế
vụ; (2) các hoạt động kinh tế này không được ghi nhận vào tài khoản quốc gia; (3) quy mô sản
xuất của khu vực này nhỏ, hẹp, năng suất lao động kém, thâm dụng nhiều lao động (Elgin &
Erturk, 2019; Loayza, 2018).

Tuy là một vấn đề quan trọng cần phải quan tâm xem xét trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội nhưng với bản chất không đồng nhất, kinh tế phi chính thức tạo ra các khó khăn trong
việc đo lường chính xác quy mô (Kanbur, 2017). Bên cạnh các phương pháp đo lường quy mô
kinh tế phi chính thức theo phương pháp trực tiếp - chủ yếu dựa vào phỏng vấn, khảo sát - hay
phương pháp gián tiếp - chủ yếu sử dụng các chỉ số kinh tế vĩ mô với những giả định - vốn có
những nhược điểm căn bản thì gần đây quy mô của khu vực này được ước lượng thông qua mô
hình kinh tế lượng. Một trong những phương pháp đó là phương pháp MIMIC (Multiple
Indicators Mulitiple Causes - Nhiều chỉ số Nhiều nguyên nhân). Dù rằng phương pháp này còn
một số khiếm khuyết, chưa hoàn hảo nhưng vẫn được áp dụng rộng rãi vì tương đối toàn diện và
tính sẵn có của dữ liệu (Kelmanson, Kirabaeva, Medina, Mircheva, & Weiss, 2019; Schneider &
Buehn, 2018
 
a. Self-employment (Tự làm chủ)
→ Khoảng 30–35% lực lượng lao động Việt Nam là lao động tự làm (bán hàng rong, nông dân nhỏ lẻ, nghề tự do...).
Nguồn: ILOSTAT; Vietnam Labour Force Survey (GSO – Tổng cục Thống kê).

b. Informal employment (Lao động phi chính thức)
→ Năm 2022, khoảng 65% tổng số lao động Việt Nam làm việc trong khu vực phi chính thức, không có hợp đồng hoặc bảo hiểm xã hội.
Nguồn: General Statistics Office (GSO) – Báo cáo Lao động việc làm 2022.

c. Employment outside formal sector (Làm việc ngoài khu vực chính thức)
→ Khoảng 18 triệu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước hoặc doanh nghiệp đăng ký chính thức (2021).
Nguồn: GSO – Báo cáo kinh tế xã hội quý IV/2021.

d. Labor force without pension insurance (Không có bảo hiểm hưu trí)
→ Khoảng 70% lao động không đóng bảo hiểm xã hội (2020).
Nguồn: Vietnam Social Security (VSS) & World Bank Vietnam Social Protection Review.
chủ yếu dựa vào phỏng vấn ,khảo sát , giả định thôi
 
Theo lý thuyết Pháp lý (Legasit), chất lượng thể chế được xem là nguyên nhân chính kích
thích hoặc kiềm chế quy mô kinh tế phi chính thức (De Soto, 1989; Maloney, 2004). Chất lượng
thể chế thể hiện mức độ về quan liêu, hiệu lực của pháp luật, hiệu quả của cơ quan nhà nước và
tham nhũng. Chất lượng thể chế thấp thể hiện trong tính chất quan liêu của bộ máy nhà nước,
tính pháp quyền yếu và nạn tham nhũng tràn lan là nhân tố chính thúc đẩy người dân, doanh
nghiệp rời bỏ khu vực chính thức để hoạt động trong khu vực phi chính thức (Williams &
Gurtoo, 2012). Chất lượng thể chế tốt cùng với nhà nước pháp quyền, hiệu quả cao của khu vực
công sẽ làm giảm các chi phí giao dịch và tăng các lợi ích của khu vực chính thức.
Không dừng lại ở đó, sự hạn chế của thể chế còn thể hiện thông qua việc thiếu minh
bạch, trách nhiệm giải trình kém và quy định pháp luật không ổn định, tin cậy. Tất cả điều này sẽ
kéo giảm sự tin tưởng của các doanh nghiệp khi muốn mở rộng đầu tư trong khu vực chính thức.
Trầm trọng hơn, rất có thể sẽ xuất hiện hiệu ứng đám đông ảnh hưởng thay đổi suy nghĩ và hành
vi của các nhà quản lý, công chức khi mà phần lớn đồng nghiệp của họ đã tham nhũng. Do vậy,
người dân có cảm giác bị lừa dối khi nạn tham nhũng thì lan tràn và tiền thuế họ nộp bị tham ô,
lãng phí thì người dân càng có động lực để tham gia vào kinh tế phi chính thức.
Sử dụng bộ dữ liệu cho 55 quốc gia trong giai đoạn từ 1990 đến 1999, Torgler và
Schneider (2009) đã tìm thấy quy mô kinh tế phi chính thức bị thu hẹp khi chất lượng thể chế
được củng cố, nâng cao. Nguyen, Schinckus, và Dinh (2021) sử dụng Bộ chỉ số Quản trị toàn cầu
nhằm phân tích mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và quy mô kinh tế phi chính thức của 112
quốc gia trong giai đoạn 2005 - 2015. Kết quả nghiên cứu xác nhận tồn tại mối quan hệ nhân quả
hai chiều giữa thể chế và quy mô khu vực phi chính thức, trong đó thể chế tốt hạn chế quy mô của
kinh tế phi chính thức. Tuy nhiên, mức độ tác động của các chiều kích của thể rất khác nhau. Nếu
như yếu tố kiểm soát tham nhũng và nhà nước pháp quyền ảnh hưởng ngược chiều trong ngắn hạn
thì ổn định chính trị lại kéo giảm kinh tế phi chính thức trong dài hạn. Các kết quả tương tự cũng
được phát hiện trong nghiên cứu của Huynh, Nguyen, Nguyen, và Nguyen (2020)
 
Kệ mẹ đời. Ngạo nghễ phát đã :vozvn (25):
RKiIFS3.gif
 
Càng ngày càng giảm chứng tỏ...
đã thu được thuế, đã thu thuế được thì ko còn ngầm nữa...số liệu đáng lo, cho thấy càng phải cải cách mạnh hơn và quyết liệt hơn khi các nguồn lực đang được tận dụng triệt để nhưng mức độ hiệu quả thì quá chán...Lãng phí, tham nhũng, đục khoét...tiền chôn chết trong BDS...
Thuế và phí/GDP của VN thuộc hàng top, cao hơn so với bình quân thế giới.
 
Thống kê mô tả các biến nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2. Theo đó, quy mô trung
bình của kinh tế phi chính thức tại Việt Nam là 14.76% GDP trong giai đoạn 2000 - 2018, thấp
nhất là 14.0% GDP vào năm 2018 và cao nhất là 15.6% GDP vào năm 2000. Như vậy, theo thời
gian quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam có xu hướng nhỏ lại. Trong khi đó, chỉ số chất lượng thể
chế của Việt Nam liên tục biến động trong khoảng từ -0.588 đến -0.325 và trung bình ở mức -
0.496. Điều này cho thấy tồn tại sự hạn chế, bất cập về thể chế, tuy nhiên một dấu hiệu lạc quan
là chỉ số này có xu hướng cải thiện dần qua các năm.
 
kết quả thực nghiệm xác nhận quy mô kinh tế ngầm sẽ nhỏ
hơn nếu như chất lượng thể chế được nâng cao. Các tác động tương tự cũng được tìm thấy cho
độ mở thương mại và lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ảnh hưởng đồng biến với quy mô
kinh tế phi chính thức. Trên cơ sở các kết quả thu được, một số hàm ý chính sách được đề xuất
như sau:
Thứ nhất, phải không ngừng cải thiện chất lượng thể chế chính thức thông qua tăng
cường sự minh bạch trong khu vực công, trách nhiệm giải trình; nâng cao chất lượng hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước thông qua việc tổ chức bộ máy tinh gọn, thông suốt, chuyên
nghiệp; xây dựng và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả, cắt giảm các thủ tục hành chính rườm
rà tạo cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ hai, phát triển, hỗ trợ, tạo việc làm mới cho người lao động nhất là những người
thuộc nhóm yếu thế. Chính sách việc làm cho người lao động phải được xem là ưu tiên hàng đầu
trong các chính sách kinh tế - xã hội nhất là nhằm phục hồi, phát triển kinh tế sau đại dịch
Covid-19. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm đến chính sách an sinh xã hội cho người lao động.
Nếu có nhiều việc làm trong khu vực chính thức, người lao động có thu nhập ổn định thì sẽ giảm
thiểu động lực làm việc trong khu vực phi chính thức.
Thứ ba, việc thu hút đầu tư, thúc đẩy hợp tác kinh tế, xúc tiến thương mại quốc tế cũng
cần được xem xét. Việc tận dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp tạo nhiều việc làm
trong khu vực chính thức, thúc đẩy kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước
có thể tận dụng các lợi ích của thương mại nhằm cải thiện năng suất, cải thiện quản trị doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng sản xuất. Những yếu tố này đều đóng góp trong việc làm giảm quy
mô khu vực phi chính thức.
Tuy đã cơ bản đạt mục tiêu đề ra nhưng nghiên cứu vẫn không tránh khỏi các hạn chế nhất
định. Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung trong giai đoạn 2000 - 2018 ở Việt Nam, các nghiên cứu
tương lai có thể mở rộng phạm vi thời gian nghiên cứu để có cái nhìn bao quát hơn. Bên cạnh đó,
việc nghiên cứu, so sánh giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ASEAN là một hướng tốt
nhằm phân tích so sánh giữa các quốc gia và làm phong phú thêm hiểu biết về tác động của chất
lượng thể chế đến kinh tế phi chính thức ở các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau.
 
Không chính xác cũng tương đối.
này có phải bài nghiên cứu đâu , bài báo đọc chơi thôi .

a. Self-employment (Tự làm chủ)
→ Khoảng 30–35% lực lượng lao động Việt Nam là lao động tự làm (bán hàng rong, nông dân nhỏ lẻ, nghề tự do...).
Nguồn: ILOSTAT; Vietnam Labour Force Survey (GSO – Tổng cục Thống kê).

b. Informal employment (Lao động phi chính thức)
→ Năm 2022, khoảng 65% tổng số lao động Việt Nam làm việc trong khu vực phi chính thức, không có hợp đồng hoặc bảo hiểm xã hội.
Nguồn: General Statistics Office (GSO) – Báo cáo Lao động việc làm 2022.

c. Employment outside formal sector (Làm việc ngoài khu vực chính thức)
→ Khoảng 18 triệu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước hoặc doanh nghiệp đăng ký chính thức (2021).
Nguồn: GSO – Báo cáo kinh tế xã hội quý IV/2021.

d. Labor force without pension insurance (Không có bảo hiểm hưu trí)
→ Khoảng 70% lao động không đóng bảo hiểm xã hội (2020).
Nguồn: Vietnam Social Security (VSS) & World Bank Vietnam Social Protection Review.
.
https://www.researchgate.net/public...en_quy_mo_kinh_te_phi_chinh_thuc_tai_Viet_Nam
bài nghiên cứu cơ bản khai mở cho tư duy xammer
 
Cần gì xem số liệu. ra đường đi một vòng thấy dân nó sống ra sao thì biết liền. Số liệu ghi lụi mấy hồi.
 
tụi mày nên tự tư duy như đang làm nghiên cứu vậy ,tất cả đều là mảnh ghép và suy nghĩ kiến thức tùy vào mày sở hữu sẽ ghép nối và cho ra một bức tranh toàn cảnh , đừng sử dụng tư duy nhồi sọ , đọc báo vẹt
 
thống kê sao được nếu chỉ sử dụng tiền mặt . tạp hóa có khi cả ngày vô 5 6tr là bình thường
 

Có thể bạn quan tâm

Top