Live DỊCH THUẬT – VIỆT NAM MẬT CHIẾN (1950–1954)

sami88

Thần điêu đại bịp
DỊCH THUẬT – VIỆT NAM MẬT CHIẾN (1950–1954)

Tác phẩm này — một công trình nghiên cứu sử học Hán ngữ mang tên 《越南密戰·1950–1954中國援越戰爭紀實》, tạm dịch là “Việt Nam Mật Chiến (1950–1954): Ký sự về các hoạt động viện trợ của Trung Quốc dành cho Bắc Việt trong cuộc chiến Đông Dương (1950–1954)” — có lẽ không xa lạ với nhiều độc giả Việt Nam quan tâm đến lịch sử hiện đại và quan hệ Việt–Trung trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, có một điều ít người biết: trái với lời khẳng định của dịch giả Nguyễn Hải Hoành, người đã giới thiệu bản dịch tiếng Việt và khẳng định rằng tác phẩm này chỉ có sáu chương, thì bản gốc tiếng Trung thực ra gồm tới bốn mươi hai chương. Sáu chương mà cụ Hoành dịch chỉ là phần mở đầu, trong khi ba mươi sáu chương còn lại mới là linh hồn của toàn bộ công trình, chứa đựng vô số tư liệu gốc, chi tiết và đặc biệt là những ghi chép cực kỳ nhạy cảm về vai trò thực tế của Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi không hiểu tại sao cụ Hoành lại khẳng định tác phẩm này chỉ có 6 chương, và tại sao cụ lại không dịch 36 chương còn lại ?

Cùng với Building Ho’s Army — tác phẩm mà tôi đã giới thiệu trước đây — Việt Nam Mật Chiến là một nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng giúp chúng ta nhìn rõ giai đoạn lệ thuộc, gian nan và đầy mâu thuẫn trong buổi đầu của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính quyền được tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 nhân danh “giải phóng dân tộc”, nhưng phải đến đầu năm 1950 — tức năm năm sau — mới được chính quyền ******** TQ công nhận và thiết lập bang giao. Trong suốt năm năm đó, Liên Xô không công nhận, các nước ******** khác không công nhận, và dĩ nhiên, thế giới phi ******** càng không. Đó là sự thật lịch sử, chứ không phải xuyên tạc.

Đến năm 1950, khi Mao Trạch Đông quyết định viện trợ cho Bắc Việt, tình thế mới bắt đầu thay đổi. Qua những tư liệu trong cuốn sách, người đọc có thể thấy rất rõ rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp cầu viện Liên Xô và Trung Quốc — không chỉ để có vũ khí, mà còn để bảo đảm sự sống còn của chính quyền mà ông lãnh đạo. Tác phẩm ghi lại chi tiết cách Bắc Việt và Trung Quốc hợp tác chặt chẽ dưới sự giám sát và quyền quyết định tối cao của Mao Trạch Đông. Trong chương viết về Chiến dịch Biên Giới 1950, tác giả nêu rõ: người chỉ huy thực tế của chiến dịch không phải là tướng lĩnh Việt Minh, mà chính là tướng Trần Canh của Trung Quốc, người trực tiếp chỉ đạo toàn bộ kế hoạch tác chiến.

Chúng ta nên nhớ rằng, Chiến dịch Biên Giới 1950 được tuyên truyền bấy lâu nay tại Việt Nam như một chiến thắng mang tính biểu tượng của Việt Minh, gắn liền với bốn câu thơ nổi tiếng của Hồ Chí Minh “Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên”, và những hình tượng anh hùng như Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, La Văn Cầu chặt tay rồi xung phong cầm bộc phá với tay còn lại. Thế nhưng, điều gần như không ai nói đến là đằng sau toàn bộ chiến dịch đó là bàn tay của cố vấn quân sự Trung Quốc, với sự phê chuẩn chiến thuật từ Bắc Kinh. Không có các cố vấn Trung Quốc, không có viện trợ của Trung Quốc, không ai dám chắc chiến dịch ấy có thể thành công. Thế nhưng cho đến nay, vai trò của các cố vấn Trung Quốc trong cuộc chiến Đông Dương (1950–1954) vẫn chưa bao giờ trở thành một chủ đề được công khai thảo luận ở Việt Nam.

Tôi đã dịch phần Chiến dịch Biên giới 1950 này trong tác phẩm Building Ho’s Army mà bạn có thể đọc lại tại đây >>

Tôi nhấn mạnh đến sự kiện Chiến dịch Biên giới 1950 này ở đây vì nó là ví dụ điển hình cho việc bóp méo lịch sử — điều mà nhiều bạn vẫn mạt sát những kẻ (như tôi) là tẩy trắng lịch sử khi chúng tôi chỉ ra những gì đã được viết và nghiên cứu mà các bạn không muốn đối diện. Bạn có bao giờ tự hỏi vì sao ta biết được chuyện Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm, rồi quân Xiêm tàn sát dân Việt không? Là vì triều Nguyễn đã trung thực ghi chép lại trong Đại Nam Thực Lục - “Vua thấy quân Xiêm tàn bạo, đến đâu là cướp bóc đấy, nhân dân ta oán rất nhiều, bảo các tướng rằng : “Muốn được nước phải được lòng dân. Nay Chu Văn Tiếp đã mất, quân Xiêm không ai chế ngự được. Nếu được Gia Định mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng làm khổ nhân dân”.

Nếu sử qua triều Nguyễn giấu đi những việc này, thì làm gì còn tư liệu để bạn phê phán? Ngược lại, những trang sử về vai trò của Trung Quốc trong Chiến dịch Biên Giới 1950, về những lần Việt Minh suýt rút lui, hay việc Mao Trạch Đông đích thân phê duyệt chiến lược, lại không hề xuất hiện trong sách giáo khoa hay các văn kiện đương thời của Việt Nam. Tôi lấy ví dụ, là nếu bạn đọc thử Lịch Sử Việt Nam tập 10 - từ năm 1945 đến năm 1950, soạn vào năm 2017, sẽ thấy rõ là trong phần nội dung Chiến dịch Biên giới 1950, không hề có một đoạn văn nào ghi chép về các cố vấn TQ hoặc vị tổng chỉ huy tướng Trần Canh của TQ đã làm gì và hoạt động ra sao. Nếu đây không phải là tẩy trắng lịch sử thì là gì ?

Nhiều người, sau khi tôi trích Building Ho’s Army để chỉ ra việc Hồ Chí Minh cầu viện quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc, và ông còn có ý định đề nghị Trung Quốc gửi Quân Giải phóng sang Việt Nam đánh Pháp, đã biện hộ rằng việc cầu viện này của Hồ Chí Minh là “cứu nước”, còn Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm là “bán nước”. Họ lý giả rằng đây là do vì quân Xiêm đã tàn sát dân Việt, còn quân Trung Quốc và Liên Xô sang Bắc Việt thì không. Nhưng đó là một lập luận đầy cảm tính, không dựa trên tiêu chuẩn khoa học lịch sử. Bạn quên rằng Hồ Chí Minh từng hứa với Stalin rằng ông sẽ thực hiện Cải cách ruộng đất tại Bắc Việt đó sao? Theo Việt Nam Mật Chiến, chính La Quý Ba — vị đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Bắc Việt — là người giới thiệu mô hình Cải Cách Ruộng Đất TQ cho Hồ Chí Minh. Và kết quả là một phong trào ngoại lai Cải Cách Ruộng Đất của Quốc tế ******** được áp dụng triệt để tại Bắc Việt từ năm 1953 đến 1956, gây ra tang thương, chia rẽ và đảo lộn trật tự xã hội.

Nếu việc Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm — để rồi quân Xiêm, chứ không phải Nguyễn Ánh, sát hại dân Việt — bị xem là hành vi “cõng rắn cắn gà nhà”, thì việc Hồ Chí Minh, một người Việt Nam yêu nước, du nhập và áp dụng mô hình cải cách ruộng đất Trung Quốc, khiến đồng bào Việt Nam của ông bị sát hại ngay trên chính quê hương mình, bao nhiêu gia đình bị chia ly oan uổng, há chẳng phải là một hình thức “dẫn ngoại bang vào tàn hại dân mình” còn tàn khốc hơn sao?

Nếu bạn vẫn tiếp tục phản ứng bằng niềm tin lịch sử thay vì sự thật lịch sử, vẫn chửi rủa tôi và vẫn mạt sát các tiền nhân lịch sử và đủ thứ, thì chính bạn đang chứng minh rằng người Việt Nam ngày nay vẫn chưa đủ can đảm đối diện với quá khứ của chính mình. Hãy tự hỏi: bạn đang đánh giá tiền nhân dựa trên sự thật viết trong sử hay dựa trên niềm tin méo mó được nhồi sọ? Tôi chỉ trích dẫn tư liệu, phần lớn trong số đó các bạn chưa từng đọc hoặc không đủ khả năng đọc, để mỗi người tự so sánh và tự thức tỉnh. Tôi không cần ai phải tin tôi, tôi chỉ muốn mọi người đọc lại lịch sử bằng đôi mắt của chính mình.

Dưới đây là phần dịch thuật hai tiểu khúc trong Chương 3 của Việt Nam Mật Chiến. Tôi lưu ý bạn đến thái độ của Stalin với Hồ Chí Minh, về việc Hồ Chí Minh “thậm chí còn hình dung rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có thể trực tiếp tiến vào Việt Nam để cùng chiến đấu với quân Pháp”, về hồi ký của Khrushchev kể rằng “Trong suốt cuộc trò chuyện, ánh mắt khác thường ấy của Hồ luôn nhìn chăm chú vào Stalin, gần như mang vẻ ngây thơ của một đứa trẻ. Tôi nhớ có lần ông lấy ra một tờ tạp chí Liên Xô — hình như là Xây dựng Liên Xô — rồi xin Stalin ký tên. Stalin đã ký, nhưng không lâu sau tờ tạp chí đó bị bí mật thu lại, vì Stalin lo ngại Hồ có thể dùng vào mục đích không kiểm soát được.” Và trong phần mô tả tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông đích thân chủ trì buổi yến tiệc long trọng chiêu đãi Hồ Chí Minh, Trần Đăng Ninh và Hoàng Văn Hoan, với sự tham dự của các lãnh đạo cấp cao như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Đổng Tất Vũ và Lâm Bá Cừ. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh tiếp tục cùng Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai bàn bạc cụ thể về việc Trung Quốc viện trợ Việt Nam, thảo luận cách hỗ trợ quân đội Việt Nam chiến đấu ở chiến trường biên giới phía Bắc. Lưu Thiếu Kỳ chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc về cải cách ruộng đất và các chính sách khác, trong khi Hồ Chí Minh giới thiệu về lịch sử và tình hình hiện tại của Đảng ******** Đông Dương. Để thuận tiện cho việc viện trợ, phía Trung Quốc đề nghị Việt Nam thành lập lãnh sự quán tại Nam Ninh (Quảng Tây) và Côn Minh (Vân Nam).

Đây mới chỉ là phần dạo đầu trong tác phẩm Việt Nam Mật Chiến. Như tôi đã viết, tác phẩm này có tổng cộng 42 chương, và cụ Nguyễn Hải Hoành chỉ mới dịch 6 chương đầu tiên, trong đó có một phần của Chương 3 mà tôi trích lại ở đây. Ba mươi sáu chương còn lại vẫn đang đợi bạn đọc đó thôi — và chính chúng có thể làm thay đổi hoàn toàn cách người Việt Nam nhìn lại giai đoạn 1950–1954, một giai đoạn mà lịch sử chính thống ngày nay tại Việt Nam vẫn đang cố tình lảng tránh.

Nếu bạn muốn đọc ebook tác phẩm Hán ngữ này, tải tại đây >>

Nếu bạn muốn đọc 6 chương đầu mà cụ Nguyễn Hải Hoành đã dịch sang Việt ngữ, tải tại đây >>

Nếu bạn muốn đọc từng phần tác phẩm Hán ngữ này qua dạng online, đọc tại đây >> https://read.99csw.com/book/9349/index.html

Regards,
Brian

====

CHƯƠNG 3: MAO TRẠCH ĐÔNG VÀ QUYẾT SÁCH VIỆN TRỢ VIỆT NAM KHÁNG PHÁP

HAI ĐẢNG ******** TRUNG – XÔ ĐẠT ĐƯỢC THỎA THUẬN VIỆN TRỢ VIỆT NAM

Khi Hồ Chí Minh đến Mạc-Tư-Khoa, tối hôm đó Bộ Chính trị Trung ương Đảng ******** Liên Xô mở tiệc chiêu đãi ông, nhưng Stalin không tham dự. Sau đó Stalin nói với Mao Trạch Đông: “Hồ Chí Minh yêu cầu Liên Xô trực tiếp viện trợ cho Việt Nam, giúp họ đánh Pháp. Về vấn đề này, chúng tôi còn có những cân nhắc khác.” Lời nói ấy phù hợp với quan điểm mà hơn nửa năm trước ông từng nêu với Lưu Thiếu Kỳ: việc viện trợ Việt Nam có thể do Trung Quốc đảm nhận. Đồng thời Stalin cũng lo ngại Hồ Chí Minh là một “người theo chủ nghĩa dân tộc”, có thể sẽ đi theo con đường của Tito ở Nam Tư.

Mao Trạch Đông giải thích rằng Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng kỳ cựu, không phải người theo chủ nghĩa dân tộc, được nhân dân Việt Nam hết lòng ủng hộ; ông khuyên Stalin nên gặp trực tiếp Hồ Chí Minh. Stalin đồng ý và nói rõ: “Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc chứng minh rằng Trung Quốc đã trở thành trung tâm của cách mạng châu Á. Chúng tôi cho rằng việc viện trợ và giúp đỡ Việt Nam nên do Trung Quốc đảm nhận.” Mao Trạch Đông nói thêm rằng Việt Nam chủ yếu cần vũ khí, đạn dược và vật tư quân sự khác — những thứ mà Trung Quốc chưa chắc đã đáp ứng được, nên trong lòng ông và các lãnh đạo Trung Cộng vẫn hy vọng Liên Xô sẽ hỗ trợ thêm.

Sau khi Mao giới thiệu, Stalin tiếp Hồ Chí Minh và nghe ông báo cáo tình hình chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh trực tiếp đề nghị Liên Xô cử cố vấn quân sự sang Việt Nam và viện trợ đạn dược. Thực ra, về vấn đề cố vấn quân sự, Hồ Chí Minh đặt nhiều kỳ vọng ở Liên Xô hơn là ở Trung Quốc, nên ông kiên quyết đến Mạc-Tư-Khoa lần này. Stalin chưa trả lời ngay, nói cần bàn lại với Mao Trạch Đông.

Về sau, Khrushchev kể lại chuyến thăm bí mật của Hồ Chí Minh: “Tôi không bao giờ quên ánh mắt của ông ấy — đôi mắt sáng lên sự chân thành và thuần khiết đặc biệt. Đó là sự chân thành cao quý của một người ******** tận hiến cho lý tưởng cách mạng. Hồ Chí Minh bay thẳng từ rừng rậm Việt Nam tới Mạc-Tư-Khoa, kể rằng ông đã đi bộ nhiều ngày trong rừng để đến được biên giới Trung Quốc rồi mới sang Liên Xô.” Ông nói tiếp: “Trong suốt cuộc trò chuyện, ánh mắt khác thường ấy luôn nhìn chăm chú vào Stalin, gần như mang vẻ ngây thơ của một đứa trẻ. Tôi nhớ có lần ông lấy ra một tờ tạp chí Liên Xô — hình như là Xây dựng Liên Xô — rồi xin Stalin ký tên. Stalin đã ký, nhưng không lâu sau tờ tạp chí đó bị bí mật thu lại, vì Stalin lo ngại Hồ có thể dùng vào mục đích không kiểm soát được.”

Hồ Chí Minh kể về cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống quân chiếm đóng Pháp và xin viện trợ vật chất, đặc biệt là vũ khí và đạn dược. Sau khi rời Mạc-Tư-Khoa, ông còn gửi thư xin thêm thuốc ký ninh vì dân chúng đang bị dịch sốt rét. Stalin hào phóng nói: “Cho ông ta nửa tấn.”

Đầu thập niên 1950, tư tưởng “xuất khẩu cách mạng” vẫn lan tỏa mạnh mẽ trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, và Stalin là người kiên định với tư tưởng này. Khi bàn với Mao Trạch Đông về vấn đề Việt Nam, ông một lần nữa nhắc đến việc “trung tâm cách mạng thế giới chuyển sang phương Đông” và “Trung Quốc sẽ trở thành trung tâm của cách mạng châu Á”. Stalin nói rõ rằng ông mong việc viện trợ cho Việt Nam kháng Pháp nên do Trung Quốc đảm nhận, vì Trung Quốc và Việt Nam có mối liên hệ lịch sử, hiểu biết lẫn nhau và vị trí địa lý gần gũi. Còn nhiệm vụ quan trọng của Liên Xô là viện trợ cho Trung Quốc xây dựng kinh tế. Ông nói thêm: “Chúng tôi đã đánh xong Chiến tranh Thế giới thứ hai, lượng vũ khí còn lại rất nhiều, có thể gửi sang Trung Quốc. Các anh giữ lại phần cần thiết, còn phần thích hợp cho Việt Nam thì chuyển tiếp sang đó.”

Tại Mạc-Tư-Khoa, hai bên Trung – Xô đạt được đồng thuận: Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc xây dựng, còn cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam sẽ do Trung Quốc đảm trách viện trợ. Theo tài liệu giải mật sau này, La Quý Ba kể rằng trong một cuộc gặp, cả Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều có mặt.
 
MAO TRẠCH ĐÔNG NÓI: “CHÚNG TÔI SẼ CỬ SANG TOÀN NHỮNG ‘CỐ VẤN QUÊ MÙA’ CẢ THÔI”

Việc Mao Trạch Đông cam kết để Trung Quốc gánh vác trách nhiệm viện trợ Việt Nam kháng Pháp là một quyết định trọng đại. Việt Nam là một quốc gia quan trọng ở Đông Nam Á, có lãnh thổ kéo dài từ Bắc chí Nam và dân số đông đúc. Thực dân Pháp đã thống trị nhiều năm, quân Pháp kiểm soát chặt chẽ các thành phố và đồng bằng. Muốn đánh đuổi quân đội thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam, tất yếu phải trải qua một cuộc chiến tranh độc lập lâu dài và quy mô lớn. Mao Trạch Đông hiểu rất rõ rằng việc viện trợ Việt Nam đồng nghĩa với những hy sinh to lớn của dân tộc Trung Hoa. Sau khi bàn bạc với Stalin, Mao Trạch Đông đã hạ quyết tâm. Đây là kế hoạch viện trợ quân sự ra nước ngoài đầu tiên mà nước Trung Hoa mới thành lập xác định, thậm chí còn sớm hơn ít nhất nửa năm so với quyết định đưa quân tham chiến ở Triều Tiên trong cuộc chiến “Kháng Mỹ viện Triều.”

Ngày 17 tháng 2, Hồ Chí Minh cùng Mao Trạch Đông rời Mạc-Tư-Khoa bằng chuyến tàu đặc biệt, đi xuyên Siberia về Trung Quốc và nhiều lần dừng lại dọc đường để tham quan. Trên đường đi, vào ngày 22 tháng 2, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh tổ chức cuộc hội đàm trên tàu, thảo luận về vấn đề Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam. Hồ Chí Minh nêu rõ yêu cầu Trung Quốc cử cố vấn quân sự sang Việt Nam và cung cấp vũ khí, đạn dược. Ông thậm chí còn hình dung rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có thể trực tiếp tiến vào Việt Nam để cùng chiến đấu với quân Pháp.

Mao Trạch Đông thì nghiêng về phương án chỉ cử cố vấn quân sự. Ông nói nửa đùa nửa thật với Hồ Chí Minh: “Tôi thì không có ý kiến gì, nhưng vẫn phải về bàn lại với các đồng chí trong Trung ương. Nếu có cử, thì những cố vấn của chúng tôi cũng đều là ‘cố vấn quê mùa’ cả thôi.”

Ngày 4 tháng 3 năm 1950, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai trở về Bắc Kinh, triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị để thảo luận vấn đề viện trợ Việt Nam. Hội nghị cho rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, và nếu cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam giành thắng lợi thì an ninh của vùng biên giới phía Nam Trung Quốc cũng sẽ được bảo đảm.

Tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông đích thân chủ trì buổi yến tiệc long trọng chiêu đãi Hồ Chí Minh, Trần Đăng Ninh và Hoàng Văn Hoan, với sự tham dự của các lãnh đạo cấp cao như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Đổng Tất Vũ và Lâm Bá Cừ. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh tiếp tục cùng Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai bàn bạc cụ thể về việc Trung Quốc viện trợ Việt Nam, thảo luận cách hỗ trợ quân đội Việt Nam chiến đấu ở chiến trường biên giới phía Bắc. Lưu Thiếu Kỳ chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc về cải cách ruộng đất và các chính sách khác, trong khi Hồ Chí Minh giới thiệu về lịch sử và tình hình hiện tại của Đảng ******** Đông Dương. Để thuận tiện cho việc viện trợ, phía Trung Quốc đề nghị Việt Nam thành lập lãnh sự quán tại Nam Ninh (Quảng Tây) và Côn Minh (Vân Nam).

Khi ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh hoàn toàn nhận thức được ý nghĩa của cam kết từ Trung Quốc. Ông nói với Hoàng Văn Hoan, người phụ trách công tác đối ngoại của Việt Nam ở hải ngoại: “Giờ đây Trung Quốc đã được giải phóng, điều đó có lợi cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới, đặc biệt có lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam. Trong nhiều năm kháng chiến, nhờ tự lực chúng ta đã đạt được nhiều thắng lợi lớn. Nay Trung Quốc quyết định viện trợ cho ta trên mọi phương diện, vì vậy trọng tâm công tác đối ngoại của chúng ta không còn ở Thái Lan nữa, mà phải chuyển sang Trung Quốc. Do đó, có thể anh sẽ phải ở lại Bắc Kinh để nhận nhiệm vụ mới. Trong quá trình công tác, anh sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách, nhưng điều thuận lợi nhất là các đồng chí Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai đều đã tỏ rõ quyết tâm giúp đỡ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Tuy Trung Quốc vừa mới được giải phóng và vẫn còn nhiều khó khăn, họ vẫn sẵn sàng viện trợ cho ta.”

Sau đó, Hoàng Văn Hoan được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Quốc.

HẾT
 
Vẹm năm 79 bị Tàu nó vả cho là đúng. Chưa thấy loại nào mất dạy ăn cháo đá bát như Vẹm. Nên nhớ Tàu mới chính là Mẹ khai sanh ra Vẹm. Còn Xô chỉ là thằg Dượng ghẻ vất vưởng lâu lâu thọc bánh xe cho 2 Má con đánh nhau
Thành lập ở nước nó thì cha đẻ rồi. :vozvn (17)::vozvn (17):
 
Hoá ra “lật sử” mà bò đỏ hay chửi lại là “lật lại lần nữa”.
Trước đã bị lật 1 lần, giờ lật lại
Có thằng nhân danh giải phóng xong die cướp vậy thôi.
Bài này con súc nô sẽ vào bú cặc chứ đéo chửi mày nữa đâu. Sẵn sàng đón chờ đi.
Chửi Tầu Cộng nó bẻ cổ giờ. Đang có chiến dịch diệt bò đỏ.
 
Có thằng nhân danh giải phóng xong die cướp vậy thôi.

Chửi Tầu Cộng nó bẻ cổ giờ. Đang có chiến dịch diệt bò đỏ.
À đúng rồi. Nó gọi ông càn long thì phải. Đm, chửi huệ giặc cỏ, nhưng gọi ông càn long thấy lịch sự. Vãi Lồn chim én.
 

Có thể bạn quan tâm

Top