LÊ VĂN DUYỆT - TRUNG THẦN CỦA NGUYỄN ÁNH, KHÔNG THỂ LÀ ANH HÙNG DÂN TỘC

Latios

Gió lạnh đầu buồi
Vietnam
MỞ ĐẦU : PHẢI NÓI CHO RÕ MỘT SỰ THẬT
Gần đây, thật nực cười khi có nhiều luồng ý kiến ca ngợi Lê Văn Duyệt, TRƠ TRẼN khoác cho ông ta cái áo “anh hùng dân tộc”, “người mở mang vùng Gia Định”, “đại thần trung nghĩa của nhà Nguyễn”.
Nhưng xin thưa, lịch sử dân tộc không thể bị đánh tráo bằng vài lời tâng bốc.
Nếu không nhìn thẳng vào sự thật, nếu không đặt nhân vật ấy trong bối cảnh lịch sử của thời đại phong kiến Nguyễn Ánh, thì ta sẽ dễ bị cuốn vào cái bẫy lật sử - âm thầm tôn vinh kẻ có tội với dân tộc, và xúc phạm những người anh hùng thực sự của dân tộc.
LÊ VĂN DUYỆT LÀ AI?
Trước hết, phải nói rõ : Lê Văn Duyệt là quan thái giám, tức là hoạn quan phục vụ cho Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long).
Ông nổi danh vì sự trung thành tuyệt đối, tận tụy với vua - nhưng đó là sự trung thành với cá nhân Nguyễn Ánh, chứ không phải trung thành với đất nước, với nhân dân.
Cần nhớ rằng, Nguyễn Ánh chính là người đã cầu viện thực dân Pháp, mở đường cho gần một thế kỷ nước ta rơi vào vòng nô lệ.
Cho nên, khi nói đến Lê Văn Duyệt, phải nói thẳng :
Ông ta chỉ là một kẻ trung thành trong bộ máy của triều đình đã rước giặc về nhà.
Trung với vua bán nước, thì cái “trung” ấy chẳng thể gọi là trung nghĩa.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ BẢN CHẤT TRIỀU NGUYỄN
Thời phong kiến là thời vua - tôi, thần - chủ, quan lại trung thành với vua là chuyện thường tình.
Nhưng khi xét bằng nhận thức cách mạng và lập trường dân tộc ngày nay, ta phải phân biệt rõ :
Ai trung với nước, ai chỉ trung với vua.
Nếu Nguyễn Huệ - Quang Trung là anh hùng dân tộc, bởi ông đánh tan 5 vạn giặc Xiêm, 29 vạn giặc Thanh, thống nhất non sông, giữ vững nền độc lập của Đại Việt,
thì Nguyễn Ánh - và cả những người phụng sự ông như Lê Văn Duyệt - không thể được coi là người có công với dân tộc, vì đã phụ thuộc, thỏa hiệp với ngoại bang, dẫn đến mất chủ quyền quốc gia.
Cái gọi là “công lao” của Lê Văn Duyệt - dù là việc cai quản Gia Định, trấn giữ Nam Bộ hay trấn áp một vài cuộc nổi loạn - cũng chỉ là công với triều Nguyễn, chứ không phải công với đất nước Việt Nam.
LẬT SỬ - ÂM MƯU NGUY HIỂM
Gần đây, có kẻ nhân danh “nghiên cứu lịch sử”, “tôn vinh di sản” để đào mộ Lê Văn Duyệt lên ca ngợi, dựng tượng, đặt tên đường, thậm chí tổ chức lễ giỗ linh đình.
Họ nói là “tôn trọng lịch sử”, nhưng thực chất là xuyên tạc lịch sử.
Bởi vì :
Khi tôn vinh Lê Văn Duyệt, tức là tô vẽ lại hình ảnh Nguyễn Ánh.
Khi ca tụng Nguyễn Ánh, tức là gián tiếp hạ thấp Quang Trung - người anh hùng áo vải của dân tộc.
Và nếu đi tiếp con đường đó, sớm muộn họ cũng sẽ xuyên tạc Bác Hồ, bóp méo lịch sử cách mạng, phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng ta.
Đó chính là thủ đoạn của bọn lật sử - dùng cái gọi là “trả lại công bằng cho lịch sử” để đảo ngược trắng đen, biến kẻ có tội thành người có công, và bôi nhọ nền tảng tư tưởng cách mạng.
NHÂN DÂN BIẾT RÕ AI LÀ ANH HÙNG
Dân tộc ta có trí nhớ lịch sử sâu sắc.
Trải qua hàng trăm năm, nhân dân Nam Bộ không hề tôn thờ Lê Văn Duyệt, mà chỉ coi ông là một viên quan triều Nguyễn.
Còn những người được tôn vinh thực sự trong lòng dân, là Quang Trung - Nguyễn Huệ, là Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - những người vì nước, vì dân, vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Văn hóa truyền khẩu của nhân dân Việt Nam - cái “Internet của ngàn năm trước” - đã lưu truyền sự thật ấy từ đời này qua đời khác.
Cho nên, dù có kẻ tìm cách tô son điểm phấn cho Lê Văn Duyệt, nhân dân vẫn phân biệt rất rõ đâu là công, đâu là tội, đâu là trung với nước, đâu là trung với vua bán nước.
KẾT LUẬN : MỘT KIẾP TRUNG SAI HƯỚNG
Thương thay cho Lê Văn Duyệt - một kiếp trung thần mà sai hướng.
Trung với vua, nhưng trái với lòng dân.
Tận tụy với triều Nguyễn, nhưng vô tình góp phần cho đất nước rơi vào vòng nô lệ.
Công lao của ông, nếu có, chỉ nằm trong sử sách triều đình phong kiến, chứ không nằm trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, không thể và không được phép tôn vinh ông như một anh hùng dân tộc.
Bởi lịch sử, xét cho cùng, không chấp nhận sự nhập nhằng giữa công và tội, giữa trung nghĩa và trung mù quáng.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, mộ phần ông vẫn còn đó, nhưng hồn sử dân tộc đã định danh rõ ràng :
“Anh hùng là người vì dân tộc,
Không phải kẻ chỉ biết quỳ bên ngai vàng"!
 
MỞ ĐẦU : PHẢI NÓI CHO RÕ MỘT SỰ THẬT
Gần đây, thật nực cười khi có nhiều luồng ý kiến ca ngợi Lê Văn Duyệt, TRƠ TRẼN khoác cho ông ta cái áo “anh hùng dân tộc”, “người mở mang vùng Gia Định”, “đại thần trung nghĩa của nhà Nguyễn”.
Nhưng xin thưa, lịch sử dân tộc không thể bị đánh tráo bằng vài lời tâng bốc.
Nếu không nhìn thẳng vào sự thật, nếu không đặt nhân vật ấy trong bối cảnh lịch sử của thời đại phong kiến Nguyễn Ánh, thì ta sẽ dễ bị cuốn vào cái bẫy lật sử - âm thầm tôn vinh kẻ có tội với dân tộc, và xúc phạm những người anh hùng thực sự của dân tộc.
LÊ VĂN DUYỆT LÀ AI?
Trước hết, phải nói rõ : Lê Văn Duyệt là quan thái giám, tức là hoạn quan phục vụ cho Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long).
Ông nổi danh vì sự trung thành tuyệt đối, tận tụy với vua - nhưng đó là sự trung thành với cá nhân Nguyễn Ánh, chứ không phải trung thành với đất nước, với nhân dân.
Cần nhớ rằng, Nguyễn Ánh chính là người đã cầu viện thực dân Pháp, mở đường cho gần một thế kỷ nước ta rơi vào vòng nô lệ.
Cho nên, khi nói đến Lê Văn Duyệt, phải nói thẳng :
Ông ta chỉ là một kẻ trung thành trong bộ máy của triều đình đã rước giặc về nhà.
Trung với vua bán nước, thì cái “trung” ấy chẳng thể gọi là trung nghĩa.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ BẢN CHẤT TRIỀU NGUYỄN
Thời phong kiến là thời vua - tôi, thần - chủ, quan lại trung thành với vua là chuyện thường tình.
Nhưng khi xét bằng nhận thức cách mạng và lập trường dân tộc ngày nay, ta phải phân biệt rõ :
Ai trung với nước, ai chỉ trung với vua.
Nếu Nguyễn Huệ - Quang Trung là anh hùng dân tộc, bởi ông đánh tan 5 vạn giặc Xiêm, 29 vạn giặc Thanh, thống nhất non sông, giữ vững nền độc lập của Đại Việt,
thì Nguyễn Ánh - và cả những người phụng sự ông như Lê Văn Duyệt - không thể được coi là người có công với dân tộc, vì đã phụ thuộc, thỏa hiệp với ngoại bang, dẫn đến mất chủ quyền quốc gia.
Cái gọi là “công lao” của Lê Văn Duyệt - dù là việc cai quản Gia Định, trấn giữ Nam Bộ hay trấn áp một vài cuộc nổi loạn - cũng chỉ là công với triều Nguyễn, chứ không phải công với đất nước Việt Nam.
LẬT SỬ - ÂM MƯU NGUY HIỂM
Gần đây, có kẻ nhân danh “nghiên cứu lịch sử”, “tôn vinh di sản” để đào mộ Lê Văn Duyệt lên ca ngợi, dựng tượng, đặt tên đường, thậm chí tổ chức lễ giỗ linh đình.
Họ nói là “tôn trọng lịch sử”, nhưng thực chất là xuyên tạc lịch sử.
Bởi vì :
Khi tôn vinh Lê Văn Duyệt, tức là tô vẽ lại hình ảnh Nguyễn Ánh.
Khi ca tụng Nguyễn Ánh, tức là gián tiếp hạ thấp Quang Trung - người anh hùng áo vải của dân tộc.
Và nếu đi tiếp con đường đó, sớm muộn họ cũng sẽ xuyên tạc Bác Hồ, bóp méo lịch sử cách mạng, phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng ta.
Đó chính là thủ đoạn của bọn lật sử - dùng cái gọi là “trả lại công bằng cho lịch sử” để đảo ngược trắng đen, biến kẻ có tội thành người có công, và bôi nhọ nền tảng tư tưởng cách mạng.
NHÂN DÂN BIẾT RÕ AI LÀ ANH HÙNG
Dân tộc ta có trí nhớ lịch sử sâu sắc.
Trải qua hàng trăm năm, nhân dân Nam Bộ không hề tôn thờ Lê Văn Duyệt, mà chỉ coi ông là một viên quan triều Nguyễn.
Còn những người được tôn vinh thực sự trong lòng dân, là Quang Trung - Nguyễn Huệ, là Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - những người vì nước, vì dân, vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Văn hóa truyền khẩu của nhân dân Việt Nam - cái “Internet của ngàn năm trước” - đã lưu truyền sự thật ấy từ đời này qua đời khác.
Cho nên, dù có kẻ tìm cách tô son điểm phấn cho Lê Văn Duyệt, nhân dân vẫn phân biệt rất rõ đâu là công, đâu là tội, đâu là trung với nước, đâu là trung với vua bán nước.
KẾT LUẬN : MỘT KIẾP TRUNG SAI HƯỚNG
Thương thay cho Lê Văn Duyệt - một kiếp trung thần mà sai hướng.
Trung với vua, nhưng trái với lòng dân.
Tận tụy với triều Nguyễn, nhưng vô tình góp phần cho đất nước rơi vào vòng nô lệ.
Công lao của ông, nếu có, chỉ nằm trong sử sách triều đình phong kiến, chứ không nằm trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, không thể và không được phép tôn vinh ông như một anh hùng dân tộc.
Bởi lịch sử, xét cho cùng, không chấp nhận sự nhập nhằng giữa công và tội, giữa trung nghĩa và trung mù quáng.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, mộ phần ông vẫn còn đó, nhưng hồn sử dân tộc đã định danh rõ ràng :
“Anh hùng là người vì dân tộc,
Không phải kẻ chỉ biết quỳ bên ngai vàng"!
nói con kẹt gì v,t cắt cổ m trong chiều m tin k thèn bò đỏ?
 
Thế có thằng lồn râu ria hói đầu nào cầu viện Tàu khựa, Lô Xiên để giết người Việt Nam nữa ý nhỉ? Sao đéo thấy nói
Đợt rồi mà thằng TQ ko đăng báo nói hơn 300k lính Trung phụ Việt Minh quánh Miền Nam thì chắc cũng nói là dựa vào sức của Quân vs chả Dân...dcm cả 2 thằng bự nhào vào đánh VNCH trong khi Mỹ rút quân mà xaolol
 
Đợt rồi mà thằng TQ ko đăng báo nói hơn 300k lính Trung phụ Việt Minh quánh Miền Nam thì chắc cũng nói là dựa vào sức của Quân vs chả Dân...dcm cả 2 thằng bự nhào vào đánh VNCH trong khi Mỹ rút quân mà xaolol
Đánh tráo khái niệm, lừa đảo bịp dân là bản chất của cơm sườn - thứ chủ thuyết quái thai được tạo ra bởi đám súc vật Do Thái
 
Cần nhớ rằng, Nguyễn Ánh chính là người đã cầu viện thực dân Pháp, mở đường cho gần một thế kỷ nước ta rơi vào vòng nô lệ.

DM mày ngu như heo. Copy ở đâu ra mà ko biết đúng sai.

Nguyễn Ánh mất năm 1820. Pháp xâm lượt VN chính thức vào năm 1858. Pháp đổ bộ vào VN gần 40 năm sau khi Nguyễn Ánh mất, vậy liên quan đéo gì đến Nguyễn Ánh?
 
DM mày ngu như heo. Copy ở đâu ra mà ko biết đúng sai.

Nguyễn Ánh mất năm 1820. Pháp xâm lượt VN chính thức vào năm 1858. Pháp đổ bộ vào VN gần 40 năm sau khi Nguyễn Ánh mất, vậy liên quan đéo gì đến Nguyễn Ánh?
Thằng viết bài này tên gì? Đụng tới thần linh ko đùa được đâu. Chửi đổng cho sướng mồm đến khi bị quật lại thì lúc đó có mà kêu trời. Quyền lực của thế gian chả là gì trong mắt các vị trong thế giới vô hình cả
 
Thằng viết bài này tên gì? Đụng tới thần linh ko đùa được đâu. Chửi đổng cho sướng mồm đến khi bị quật lại thì lúc đó có mà kêu trời. Quyền lực của thế gian chả là gì trong mắt các vị trong thế giới vô hình cả
Hôm bữa có đọc ở đâu đó, biết nó 1 thằng bò đỏ già rồi, tướng quân đội. Tao cũng đéo quan tâm.
 
Thằng viết bài này tên gì? Đụng tới thần linh ko đùa được đâu. Chửi đổng cho sướng mồm đến khi bị quật lại thì lúc đó có mà kêu trời. Quyền lực của thế gian chả là gì trong mắt các vị trong thế giới vô hình cả
2*, Nguyễn thanh tuấn sn1954, Đại Thắng, Đại Lộc, QNam.
Ứng với miền Trung hiện nay bão lụt dữ dội vượt đỉnh năm Thìn 1964.
Đang gồng gánh tiếp 2 cơn bão nữa.
@Nmlam @kenzyn
 
MỞ ĐẦU : PHẢI NÓI CHO RÕ MỘT SỰ THẬT
Gần đây, thật nực cười khi có nhiều luồng ý kiến ca ngợi Lê Văn Duyệt, TRƠ TRẼN khoác cho ông ta cái áo “anh hùng dân tộc”, “người mở mang vùng Gia Định”, “đại thần trung nghĩa của nhà Nguyễn”.
Nhưng xin thưa, lịch sử dân tộc không thể bị đánh tráo bằng vài lời tâng bốc.
Nếu không nhìn thẳng vào sự thật, nếu không đặt nhân vật ấy trong bối cảnh lịch sử của thời đại phong kiến Nguyễn Ánh, thì ta sẽ dễ bị cuốn vào cái bẫy lật sử - âm thầm tôn vinh kẻ có tội với dân tộc, và xúc phạm những người anh hùng thực sự của dân tộc.
LÊ VĂN DUYỆT LÀ AI?
Trước hết, phải nói rõ : Lê Văn Duyệt là quan thái giám, tức là hoạn quan phục vụ cho Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long).
Ông nổi danh vì sự trung thành tuyệt đối, tận tụy với vua - nhưng đó là sự trung thành với cá nhân Nguyễn Ánh, chứ không phải trung thành với đất nước, với nhân dân.
Cần nhớ rằng, Nguyễn Ánh chính là người đã cầu viện thực dân Pháp, mở đường cho gần một thế kỷ nước ta rơi vào vòng nô lệ.
Cho nên, khi nói đến Lê Văn Duyệt, phải nói thẳng :
Ông ta chỉ là một kẻ trung thành trong bộ máy của triều đình đã rước giặc về nhà.
Trung với vua bán nước, thì cái “trung” ấy chẳng thể gọi là trung nghĩa.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ BẢN CHẤT TRIỀU NGUYỄN
Thời phong kiến là thời vua - tôi, thần - chủ, quan lại trung thành với vua là chuyện thường tình.
Nhưng khi xét bằng nhận thức cách mạng và lập trường dân tộc ngày nay, ta phải phân biệt rõ :
Ai trung với nước, ai chỉ trung với vua.
Nếu Nguyễn Huệ - Quang Trung là anh hùng dân tộc, bởi ông đánh tan 5 vạn giặc Xiêm, 29 vạn giặc Thanh, thống nhất non sông, giữ vững nền độc lập của Đại Việt,
thì Nguyễn Ánh - và cả những người phụng sự ông như Lê Văn Duyệt - không thể được coi là người có công với dân tộc, vì đã phụ thuộc, thỏa hiệp với ngoại bang, dẫn đến mất chủ quyền quốc gia.
Cái gọi là “công lao” của Lê Văn Duyệt - dù là việc cai quản Gia Định, trấn giữ Nam Bộ hay trấn áp một vài cuộc nổi loạn - cũng chỉ là công với triều Nguyễn, chứ không phải công với đất nước Việt Nam.
LẬT SỬ - ÂM MƯU NGUY HIỂM
Gần đây, có kẻ nhân danh “nghiên cứu lịch sử”, “tôn vinh di sản” để đào mộ Lê Văn Duyệt lên ca ngợi, dựng tượng, đặt tên đường, thậm chí tổ chức lễ giỗ linh đình.
Họ nói là “tôn trọng lịch sử”, nhưng thực chất là xuyên tạc lịch sử.
Bởi vì :
Khi tôn vinh Lê Văn Duyệt, tức là tô vẽ lại hình ảnh Nguyễn Ánh.
Khi ca tụng Nguyễn Ánh, tức là gián tiếp hạ thấp Quang Trung - người anh hùng áo vải của dân tộc.
Và nếu đi tiếp con đường đó, sớm muộn họ cũng sẽ xuyên tạc Bác Hồ, bóp méo lịch sử cách mạng, phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng ta.
Đó chính là thủ đoạn của bọn lật sử - dùng cái gọi là “trả lại công bằng cho lịch sử” để đảo ngược trắng đen, biến kẻ có tội thành người có công, và bôi nhọ nền tảng tư tưởng cách mạng.
NHÂN DÂN BIẾT RÕ AI LÀ ANH HÙNG
Dân tộc ta có trí nhớ lịch sử sâu sắc.
Trải qua hàng trăm năm, nhân dân Nam Bộ không hề tôn thờ Lê Văn Duyệt, mà chỉ coi ông là một viên quan triều Nguyễn.
Còn những người được tôn vinh thực sự trong lòng dân, là Quang Trung - Nguyễn Huệ, là Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - những người vì nước, vì dân, vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Văn hóa truyền khẩu của nhân dân Việt Nam - cái “Internet của ngàn năm trước” - đã lưu truyền sự thật ấy từ đời này qua đời khác.
Cho nên, dù có kẻ tìm cách tô son điểm phấn cho Lê Văn Duyệt, nhân dân vẫn phân biệt rất rõ đâu là công, đâu là tội, đâu là trung với nước, đâu là trung với vua bán nước.
KẾT LUẬN : MỘT KIẾP TRUNG SAI HƯỚNG
Thương thay cho Lê Văn Duyệt - một kiếp trung thần mà sai hướng.
Trung với vua, nhưng trái với lòng dân.
Tận tụy với triều Nguyễn, nhưng vô tình góp phần cho đất nước rơi vào vòng nô lệ.
Công lao của ông, nếu có, chỉ nằm trong sử sách triều đình phong kiến, chứ không nằm trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, không thể và không được phép tôn vinh ông như một anh hùng dân tộc.
Bởi lịch sử, xét cho cùng, không chấp nhận sự nhập nhằng giữa công và tội, giữa trung nghĩa và trung mù quáng.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, mộ phần ông vẫn còn đó, nhưng hồn sử dân tộc đã định danh rõ ràng :
“Anh hùng là người vì dân tộc,
Không phải kẻ chỉ biết quỳ bên ngai vàng"!
Đúng. Cắn mạnh vô m
 
DM mày ngu như heo. Copy ở đâu ra mà ko biết đúng sai.

Nguyễn Ánh mất năm 1820. Pháp xâm lượt VN chính thức vào năm 1858. Pháp đổ bộ vào VN gần 40 năm sau khi Nguyễn Ánh mất, vậy liên quan đéo gì đến Nguyễn Ánh?
vì ánh cầu viện bá đa lộc nên tạo cớ cho pháp can thiệp vào vn, chết trăm năm cũng chưa hết tội
 
2*, Nguyễn thanh tuấn sn1954, Đại Thắng, Đại Lộc, QNam.
Ứng với miền Trung hiện nay bão lụt dữ dội vượt đỉnh năm Thìn 1964.
Đang gồng gánh tiếp 2 cơn bão nữa.
@Nmlam @kenzyn
Con lợn này nó dùng khái niệm trung với Nguyễn Ánh không phải trung với đất nước, với nhân dân.
Nhưng nó trung với cảng, đất nước & nhân dân đang bị chó gặm.
 
Con lợn này nó dùng khái niệm trung với Nguyễn Ánh không phải trung với đất nước, với nhân dân.
Nhưng nó trung với cảng, đất nước & nhân dân đang bị chó gặm.
bạn đang nhìn mọi việc theo góc nhìn duy tâm phiến diện, bác tác giả sử dụng lối suy nghĩ duy vật xhcn tiến bộ, vì một xã hội tốt đẹp hơn thì ko thể chấp nhận được những nhân vật rước voi về giày mả tổ được tung hô
 
Bản phản biện học thuật dưới đây đi sâu hơn về cơ sở tư liệu, phương pháp luận và đối chiếu học giới trong – ngoài nước về nhân vật **Lê Văn Duyệt (1764–1832)**. Mục đích không phải minh oan hay buộc tội, mà là khôi phục tính khách quan của khoa học lịch sử, đặt nhân vật vào đúng *hệ quy chiếu triều đại, văn hóa và cấu trúc chính trị* của Việt Nam đầu thế kỷ XIX.

I. Cơ sở phương pháp luận: Lịch sử phải được đọc trong bối cảnh của nó

Theo nhà sử học Marc Bloch (trong *Apologie pour l’histoire*, 1949), mọi phán đoán lịch sử chỉ có giá trị nếu “đặt hành động vào trong hệ quy chiếu thời đại mà nó sinh ra”. Khi bài viết gốc quy kết Lê Văn Duyệt là “tay sai thực dân” hay “phản quốc”, lập luận đó dựa trên một *chuẩn ý thức hệ của thế kỷ XX* áp lên hiện tượng lịch sử thế kỷ XVIII–XIX, khi khái niệm “quốc gia dân tộc” (nation-state) còn chưa hình thành, và khái niệm “bán nước” (treason in modern sense) chưa có nghĩa tương ứng.

Nghiên cứu hiện đại khẳng định rằng trong thời kỳ phân tranh nội chiến (Trịnh–Nguyễn–Tây Sơn), các phe nhóm chính trị tồn tại như **“trung tâm quyền lực khu vực”** chứ chưa có “ý thức quốc gia thống nhất” theo mô hình hiện đại. Do đó, việc Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm hay giao thiệp với phương Tây phải được hiểu như chiến lược chính trị sinh tồn của một thế lực vùng miền, không thể đánh giá bằng khái niệm phản quốc. (xem **Tsuboi, Yoshiharu (1992). *Vietnam under the Nguyen Dynasty, 1802–1883***).

II. Phản biện sử liệu cụ thể theo các nhóm luận điểm

1. Về mối quan hệ giữa Lê Văn Duyệt và phương Tây
Bài viết gốc cho rằng Duyệt “trung thành với nước Pháp” – một kết luận không có căn cứ trong **Đại Nam Thực Lục** hay bất kỳ văn bản triều Nguyễn nào.
- **Đại Nam Thực Lục, Chính Biên đệ nhất kỷ (quyển 42, tờ 8–12)** chỉ ghi: “Duyệt người Nam Kỳ, tính cương trực… từng nói năng với người Tây dương không kiêng sợ.” Không có ghi chép nào về sự “trung thành” hay “phụ thuộc”.
- **Philippe Langlet** trong *Les missionnaires français et la Cochinchine de Gia Long à Thiệu Trị* (1975) phân tích rằng Lê Văn Duyệt giữ thái độ **thực dụng chính trị (realpolitik)**: ông cho phép một số giáo sĩ trú ngụ ở Gia Định, nhưng không trao nhượng đất hay quyền lực hành chính.
- **Nguyễn Duy Chính** (*Lê Văn Duyệt và Gia Định Thành*, NXB Văn Học, 2018) chỉ ra rằng sự dung hòa này mang tính hành chính: Duyệt ưu tiên ổn định xã hội và nhân lực, không phải thân Tây.

Do đó, việc bài viết trích câu từ *Tuần báo Đông Dương* (Indochine Hebdomadaire) – một ấn phẩm tuyên truyền của chính quyền thuộc địa – rồi dùng làm bằng chứng cho “lòng trung thành với nước Pháp” là **vi phạm nguyên tắc phê bình sử liệu**: không được dùng tư liệu chính trị hậu thuộc địa để mô tả tư tưởng của một nhân vật đã mất cả nửa thế kỷ trước đó.

2. Về vai trò “đàn áp nhân dân và người Thượng”
Nguồn chính về các chiến dịch đàn áp dân nổi dậy dưới thời Gia Long và Minh Mạng gồm **Đại Nam Thực Lục**, *Khâm định Việt sử thông giám cương mục*, và *Gia Định Thành Thông Chí*.
- Các cuộc khởi nghĩa miền Trung 1802–1820 chủ yếu được giao cho các tướng địa phương như Nguyễn Văn Trương, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Văn Nhân; **lệnh xuất quân từ Huế**, chứ không thuộc quyền Tổng trấn Gia Định. (Thực Lục, Q.13, 1809; Q.19, 1813).
- Không có dữ kiện nào ghi Lê Văn Duyệt “dẫn quân tàn sát người Thượng ở Quảng Ngãi”. Trái lại, **Phan Huy Chú** trong *Lịch triều hiến chương loại chí* (quyển 77) có chép rằng ông “làm tướng thì nghiêm mà công minh, dân ơn cố cựu”.

Lập luận “Lê Văn Duyệt phạm tội diệt chủng người Thượng” là *anecdotal*, không có gốc sử liệu.

3. Về sự kiện Chăm Pa – “âm mưu ly khai"
Các công trình của **Po Dharma** (*Le Pāṇḍuranga (Campā) 1802–1835*, 1989) và **Nguyễn Văn Kim** (*Champa trong lịch sử Việt Nam thời Nguyễn*, 2006) đều minh định:
- Sau 1802, Champa là **tiểu quốc phiên thần** lệ thuộc triều Nguyễn nhưng vẫn có vương quyền riêng. Khi Pô Klan Thu mất (1822), Lê Văn Duyệt tiến cử Po Phaok The làm người thay thế trên cơ sở “tình nghĩa thân thiết với Gia Định”.
- Không có bằng chứng rằng Duyệt mưu đồ chia cắt; trái lại, ông muốn giữ vùng đệm ổn định giữa Gia Định và Trung Bộ.
- Chính sách của Minh Mạng về Champa năm 1832 (bãi bỏ vương quốc, lập Trấn Thuận Thành) là *cải cách trung ương tập quyền* chứ không phải phản ứng cá nhân với Duyệt.

Như vậy, việc quy kết “ý đồ ly khai” chỉ là suy diễn chính trị hậu thế, không có cơ sở trong văn bản triều Nguyễn hoặc trong ký sự người Chăm.

4. Về vụ án sau khi Duyệt mất và khởi nghĩa Lê Văn Khôi
Sử triều Nguyễn và tài liệu Pháp đều xác nhận **Minh Mạng thực hiện “xử hậu” (posthumous punishment)** đối với Duyệt sau vụ nổi dậy Lê Văn Khôi (1833–1835). Tuy nhiên, **Đại Nam Thực Lục, Q.130** chỉ ghi: “Duyệt sinh tiền nhiều lần chuyên quyền, lại nuôi dưỡng gian đảng khiến xảy việc nghịch, phạt tội để nêu phép.” Hình phạt mang **tính chính trị – biểu tượng (ritual condemnation)** hơn là xét tội hình.
Đến thời **Tự Đức (1841)**, triều đình **phục hồi danh dự cho Duyệt**, miễn tội cho thân quyến, phục chức hậu thần. Việc người Pháp sau này sửa sang Lăng Ông (khoảng 1895) chỉ là hành vi tôn tạo di tích, không đồng nghĩa “phong thánh” hay “ca ngợi tay sai”.

Phán xét đạo đức dựa trên hành vi phục dựng của thực dân là sai lệch tuyến tính lịch sử.

III. Phản biện quan niệm “không được đặt tên đường vì còn ý kiến trái chiều”

Bài viết gốc viện dẫn “Nghị định Chính phủ quy định không đặt tên cho nhân vật còn tranh cãi”. Thực ra, **Nghị định 91/2005/NĐ-CP**, và sau đó là **Thông tư 36/2015/TT-BVHTTDL**, chỉ quy định rằng “việc đặt tên phải căn cứ vào giá trị đóng góp lịch sử, văn hóa của nhân vật; trường hợp còn ý kiến khác nhau thì Hội đồng khoa học địa phương có trách nhiệm thẩm định.” Không có điều khoản cấm vĩnh viễn.

Việc TP.HCM, Đồng Nai, Bình Thuận đặt tên đường hoặc tổ chức lễ tưởng niệm Lê Văn Duyệt là sự **thừa nhận vai trò địa phương và giá trị di sản vùng Nam Bộ** – không trái quy định pháp lý. Đây là vấn đề **di sản văn hóa vùng miền**, chứ không phải “rửa tội” cho nhân vật lịch sử.

IV. Diễn giải học giới: từ “trung thần” đến “nhà kiến tạo vùng Nam Bộ”

- **Li Tana, *Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries* (1998)** cho thấy Nam Bộ thời Nguyễn là không gian “mở”, dân cư đa tộc, linh hoạt, mang tính tự trị cao, nơi các quan trấn nắm quyền hành thực tế. Lê Văn Duyệt là sản phẩm của cấu trúc lịch sử ấy – ông xây dựng mô hình quản lý ít quan liêu, bảo đảm trật tự, miễn sưu thuế hợp lý, phát triển thương mại (xem *Journal of Southeast Asian Studies*, Vol.33, 2002).
- **Cao Tự Thanh (1997)** và **Nguyễn Duy Chính (2018)** đều thống nhất rằng Duyệt là “hệ hình chính trị Nam Bộ đầu thế kỷ XIX”: vừa trung thành với hoàng triều, vừa mang tinh thần địa phương chủ nghĩa.
- Việc khu vực Gia Định thành trở thành trung tâm kinh tế – hành chính năng động bậc nhất Đông Nam Á đầu thế kỷ XIX có đóng góp trực tiếp từ phong cách hành chính của ông: trọng năng lực hơn xuất thân, cho phép thương nhân Hoa – Việt – Âu cùng hoạt động, hạn chế tụng nặc phiền nhiễu (Theo *Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam 1858–1945*, T.1).

Do đó, trong giới sử học hiện đại, Lê Văn Duyệt không được nhìn đơn trị là “tay sai Tây” hay “phản nghịch”, mà là **một nhân tố trung gian giữa chế độ quân chủ tập quyền và sự hình thành xã hội đô thị Nam Bộ hiện đại**.

V. Tổng luận học thuật

1. Các cáo buộc trong bài viết gốc hầu hết **dựa trên suy luận ý thức hệ hậu thuộc địa**, không có căn bản tư liệu.
2. Nguyên tắc lịch sử – theo *E. H. Carr, What is History?* (1961) – là: “Lịch sử là cuộc đối thoại bất tận giữa hiện tại và quá khứ.” Ta chỉ có thể “đánh giá”, không thể “xét xử” bằng chuẩn mực đạo đức của thời khác biệt.
3. Do đó, thay vì gọi Lê Văn Duyệt “có tội hay có công”, cần xem ông như **một mắt xích trong tiến trình Nhà Nguyễn hình thành cơ cấu vùng Nam Bộ**, với tất cả những mâu thuẫn nội tại giữa quyền trung ương và địa phương.

Sources
 
Phần mở rộng chuyên sâu đối chiếu giữa **sử quan triều Nguyễn** và **quan điểm sử học Marxist – quốc gia dân tộc hiện đại**, nhằm giải thích vì sao có sự “lệch pha” trong đánh giá Lê Văn Duyệt giữa hai hệ tư duy lịch sử.

I. Sử quan triều Nguyễn: Tập quyền quân chủ, trung thần và ổn định trật tự

1. Bối cảnh chính trị – xã hội của triều Nguyễn
- Nhà Nguyễn xây dựng mô hình **tập quyền quân chủ Nho giáo** với vị trí hoàng đế là “thiên tử” trung tâm, mang tính kế thừa trực tiếp từ mô hình Lê sơ – Minh Thanh.
- Các quan trấn và Tổng trấn (trong đó có Lê Văn Duyệt) được nhìn nhận theo tiêu chí *trung quân – hiệu năng trị an* hơn là khái niệm “trung thành với dân tộc” như trong sử quan hiện đại.

2. Cách triều Nguyễn ghi nhận nhân vật
- **Đại Nam Thực Lục** mô tả Lê Văn Duyệt trên hai bình diện: *võ công* (phò tá Gia Long, dẹp loạn) và *hành chính* (trị Gia Định khoan hòa, giảm tù đọng, phát triển kinh tế).
- Việc ông mâu thuẫn với Minh Mạng được khắc ghi như **xung đột quyền lực và phương thức trị quốc**, không phải “tội phản quốc”.
- Khi xử hậu năm 1835, triều đình áp dụng hình thức **trừng phạt biểu tượng** nhằm củng cố nguyên tắc vài trò tối thượng của trung ương, chứ không phải luận tội bán nước.

**Hệ giá trị của sử quan triều Nguyễn:**
- Công = trung quân + trị an hiệu quả
- Tội = chuyên quyền, vượt phép vua
- Không có tiêu chuẩn “quốc gia dân tộc” hay “chống ngoại xâm” làm thước đo chủ yếu.

II. Sử học Marxist – quốc gia dân tộc hiện đại: Trung tâm là đấu tranh chống xâm lược, kiến tạo dân tộc

1. Cơ sở lý luận
- Sử học Marxist tại Việt Nam sau 1945 đặt nền trên học thuyết Mác – Lênin về **đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc**. Nhân vật lịch sử được định vị trước hết trong vai trò **đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc**.
- Quan điểm này chịu ảnh hưởng của phong trào chống thực dân thế kỷ XX: “bán nước” được định nghĩa là hành động cấu kết với lực lượng ngoại xâm nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc.

2. Cách định vị nhân vật
- Những người có hành động **cầu viện ngoại bang** trong nội chiến trước thế kỷ XX thường bị quy chiếu thẳng vào “tội phản quốc” theo chuẩn hiện đại.
- Mọi quan hệ với phương Tây thời Nguyễn có thể bị xem như bước đầu của “giai đoạn lệ thuộc thực dân”, dù về mặt lịch sử có tính đứt đoạn: Pháp chỉ chiếm Việt Nam >20 năm sau thời Lê Văn Duyệt.

**Hệ giá trị của sử học Marxist – quốc gia dân tộc:**
- Công = chống xâm lược, bảo vệ dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng
- Tội = cầu viện ngoại bang, phục vụ lợi ích ngoại bang, đàn áp phong trào nhân dân
- Các hoạt động hành chính – kinh tế chỉ được coi trọng nếu phục vụ mục tiêu giải phóng dân tộc.

III. Nguồn gốc của sự “lệch pha” đánh giá

1. Khác về “điểm quy chiếu”
- Sử quan triều Nguyễn dùng **trung quân – trị an** làm thước đo: Lê Văn Duyệt được đánh giá là công thần lớn của Gia Long, một Tổng trấn trị dân có kỷ cương, dù bị phê phán vì chống lệnh Minh Mạng.
- Sử học Marxist hiện đại dùng **quốc gia dân tộc – chống ngoại xâm** làm thước đo: cùng một hành động “cầu ngoại viện” bị quy là bán nước, dù xảy ra trong bối cảnh nội chiến tiền hiện đại.

2. Khác về khái niệm “dân tộc”
- Thời Nguyễn, “dân” là đối tượng trị an trong một phương vị lãnh thổ linh hoạt theo mô hình quân chủ vùng miền. Khái niệm *nation* chưa định hình; trung quân nhiều khi đồng nghĩa với bảo vệ lãnh thổ vua cai trị, nhưng không phải một “toàn thể quốc gia Việt Nam” như sau này.
- Trong sử học Marxist hiện đại, “dân tộc” là **khối thống nhất từ Bắc đến Nam**, mọi hành vi gây chia cắt lãnh thổ hay dựa vào ngoại lực bị xem là đe dọa nền độc lập chung.

3. Khác về xử lý di sản lịch sử
- Triều Nguyễn sau Tự Đức phục hồi danh dự Lê Văn Duyệt nhằm khẳng định truyền thống công thần, bất kể mâu thuẫn trước đó.
- Sử học Marxist sau 1945 có xu hướng nhấn mạnh “mặt tội” để củng cố thông điệp chính trị: kẻ cấu kết ngoại bang trở thành biểu tượng tiêu cực của lịch sử.

IV. Hệ quả trong diễn giải và dư luận hiện nay

- Khi nhân vật như Lê Văn Duyệt được huyền thờ (Lăng Ông – Gia Định), sử quan triều Nguyễn và ký ức cộng đồng Nam Bộ nhấn mạnh vào tài năng trị an, lòng khoan hòa, công lao xây dựng vùng đất.
- Trong khi đó, một bộ phận dư luận chịu ảnh hưởng sử học Marxist đặt nặng khía cạnh “liên hệ với Pháp, chống Minh Mạng”, dẫn tới mâu thuẫn và tranh cãi về việc đặt tên đường, tổ chức lễ giỗ.

Tranh luận này thực chất là **xung đột giữa hai hệ thẩm định lịch sử**:
1. **Hệ đo giá trị trung quân – địa phương chủ nghĩa (Nguyễn)**
2. **Hệ đo giá trị giải phóng – quốc gia dân tộc (Marxist hiện đại)**

V. Kết luận đối chiếu

Sự “lệch pha” trong đánh giá Lê Văn Duyệt không phải do một bên đúng hoàn toàn, bên kia sai hoàn toàn, mà là do:
- **Khác biệt nền tảng lý luận**: quân chủ Nho giáo vs. sử học Marxist – quốc gia dân tộc.
- **Khác thời kỳ hình thành chuẩn mực đạo đức chính trị**: khi khái niệm “bán nước” chưa định nghĩa như hiện đại.
- **Khác vùng ký ức lịch sử**: Nam Bộ lưu giữ hình ảnh hành chính – bảo hộ, trong khi sử quan cách mạng đặt trọng tâm chống ngoại xâm.

Giải pháp khoa học là **nhận diện rõ hệ quy chiếu khi tranh luận**, tránh sử dụng chuẩn mực hiện đại để xét xử nguyên xi hành vi tiền-hiện đại.
 
bạn đang nhìn mọi việc theo góc nhìn duy tâm phiến diện, bác tác giả sử dụng lối suy nghĩ duy vật xhcn tiến bộ, vì một xã hội tốt đẹp hơn thì ko thể chấp nhận được những nhân vật rước voi về giày mả tổ được tung hô
“Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người ********, Mác và Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng ******** - một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi.”

Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764- 28 tháng 8 năm 1832)”
Đem một cái lý thuyết ra đời sau khi Ông chết 12 năm để lý luận? Đỉnh điểm của sự ngu dốt!
 

Có thể bạn quan tâm

Top