Live Ban điều hành IMF kết thúc tham vấn Điều IV năm 2025 với Việt Nam

Vozlitisme

Địt Bùng Đạo Tổ
Vietnam
  • Nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ vào năm 2024 và đầu năm 2025. Tuy nhiên, triển vọng này bị hạn chế bởi tình hình bất ổn toàn cầu cao về chính sách thương mại và kinh tế.
  • Sẽ có dư địa để tăng cường hỗ trợ tài khóa nếu tăng trưởng kinh tế chậm lại đáng kể, trong khi dư địa nới lỏng tiền tệ còn hạn chế. Việc cho phép tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn và tăng cường khả năng phục hồi của khu vực tài chính sẽ rất quan trọng.
  • Việc thực hiện chương trình cải cách đầy tham vọng và cải thiện cơ sở hạ tầng mang đến cơ hội nâng cao tăng trưởng trung hạn và giảm thiểu các điểm yếu bên ngoài.
Washington, DC : Ngày 8 tháng 9 năm 2025, Ban Điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã kết thúc tham vấn Điều IV [1] với Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần thêm thời gian để xem xét việc công bố Báo cáo của Ban tham mưu được chuẩn bị cho tham vấn này. [2]

Nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ trong năm 2024, đạt mức tăng trưởng 7,1% nhờ xuất khẩu mạnh mẽ, đầu tư trực tiếp nước ngoài ổn định và các chính sách hỗ trợ. Đà tăng trưởng này tiếp tục trong nửa đầu năm 2025, với hoạt động kinh tế tăng trưởng 7,5% (so với cùng kỳ năm trước) nhờ xuất khẩu tăng trước, tăng trưởng tín dụng nhanh hơn và chi tiêu chính phủ một lần lớn. Lạm phát có tăng tốc đôi chút trong những tháng gần đây, đạt 3,6% so với cùng kỳ năm trước vào tháng 6, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu. Thặng dư tài khoản vãng lai đạt mức kỷ lục 6,6% GDP vào năm 2024.
Triển vọng này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả của các cuộc đàm phán thương mại và bị hạn chế bởi sự bất ổn toàn cầu gia tăng về chính sách thương mại và môi trường kinh tế. Tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ giảm xuống còn 6,5% vào năm 2025 và tiếp tục giảm tốc vào năm 2026 do tác động của mức thuế quan mới của Hoa Kỳ (được công bố vào tháng 7) và việc hủy bỏ hầu hết các gói kích thích kinh tế một lần của chính phủ năm 2025.
Rủi ro giảm giá vẫn còn cao. Căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang hoặc điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt có thể làm suy yếu thêm xuất khẩu và đầu tư. Trong nước, căng thẳng tài chính có thể tái diễn do điều kiện tài chính thắt chặt và nợ doanh nghiệp cao. Về mặt tích cực, việc triển khai thành công các dự án cơ sở hạ tầng và cải cách cơ cấu có thể thúc đẩy đáng kể tăng trưởng trung hạn. Nếu căng thẳng thương mại toàn cầu lắng xuống, triển vọng kinh tế sẽ được cải thiện.

Đánh giá của Ban điều hành [3]

Các Giám đốc Điều hành nhìn chung đồng tình với nội dung đánh giá của nhân viên. Họ hoan nghênh rằng, bất chấp biến động gia tăng bên ngoài và trong nước, tăng trưởng kinh tế đã có sức bật đáng kể nhờ các chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, các Giám đốc cũng cảnh báo rằng mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của nền kinh tế đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng tăng từ các chính sách thương mại toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng và bất ổn, tình trạng già hóa dân số, điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt và biến đổi khí hậu. Họ nhấn mạnh rằng các chính sách cần tập trung vào việc duy trì khả năng phục hồi kinh tế và ổn định tài chính, đồng thời thúc đẩy cải cách để duy trì tăng trưởng mạnh mẽ, đa dạng và ổn định trong trung hạn.
Nhìn chung, các giám đốc đều nhất trí rằng cơ cấu chính sách cần duy trì tính linh hoạt để ứng phó với môi trường kinh tế biến động nhanh chóng và bất ổn. Với dư địa tài khóa còn lại, chính sách tài khóa có thể đóng vai trò nổi bật hơn trong việc hỗ trợ thận trọng cho hoạt động kinh tế, đặc biệt là với các biện pháp hỗ trợ tạm thời và có mục tiêu nếu cần. Các giám đốc nhấn mạnh rằng dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ còn rất hạn chế, và cần theo dõi chặt chẽ lạm phát và rủi ro tỷ giá hối đoái trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và tín dụng vẫn đang ở mức cao. Họ nhấn mạnh rằng việc tăng cường tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái là rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh trước các cú sốc bên ngoài, đồng thời nhấn mạnh lợi ích của việc đẩy nhanh việc hiện đại hóa khuôn khổ chính sách tiền tệ để quản lý rủi ro tốt hơn.
Các giám đốc nhấn mạnh rằng việc củng cố khuôn khổ tài khóa trung hạn là rất quan trọng để tận dụng lợi ích tăng trưởng từ các khoản đầu tư công lớn đã được lên kế hoạch, đồng thời bảo vệ tính bền vững của nợ. Họ nhất trí rằng việc nâng cấp quản lý đầu tư công, tăng cường huy động nguồn thu, tăng cường minh bạch tài khóa và quản lý tốt hơn rủi ro, bao gồm cả rủi ro từ quan hệ đối tác công tư, là rất quan trọng.
Các giám đốc nhấn mạnh sự cần thiết phải củng cố khả năng phục hồi của ngành tài chính trước các cú sốc. Ưu tiên hàng đầu nên là xây dựng thanh khoản và đệm vốn, đồng thời cải thiện bộ công cụ an toàn vĩ mô. Các giám đốc cũng kêu gọi nâng cấp hơn nữa các khuôn khổ về phá sản, chuẩn bị và giải quyết khủng hoảng, AML/CFT, cũng như thúc đẩy khuôn khổ quản lý tài sản tiền điện tử.
 
Các giám đốc hoan nghênh chương trình cải cách toàn diện của chính quyền, đồng thời nhấn mạnh rằng việc thực hiện sẽ là chìa khóa thành công. Họ kêu gọi các hành động nhằm nâng cao năng suất, bao gồm cải thiện môi trường kinh doanh và cải cách thị trường vốn và thị trường lao động. Các giám đốc khuyến nghị cần nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy nhu cầu trong nước và giảm mất cân bằng đối ngoại, bao gồm đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng then chốt và củng cố mạng lưới an sinh xã hội, đồng thời thúc đẩy đa dạng hóa thương mại hơn nữa. Điểm được nhấn mạnh là cần tập trung hơn nữa vào việc thảo luận về tác động của cơ cấu chính sách đối với mất cân bằng đối ngoại của Việt Nam và các phản ứng chính sách cần thiết. Các giám đốc hoan nghênh việc thúc đẩy các cải cách thể chế lớn nhằm tăng cường hiệu quả của chính phủ, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải có thêm tiến bộ trong việc cải thiện quản trị kinh tế và giải quyết các khoảng trống dữ liệu, bao gồm cả trong lĩnh vực đối ngoại.
Dự kiến cuộc tham vấn Điều IV tiếp theo với Việt Nam sẽ được tổ chức theo chu kỳ 12 tháng thông thường.

Việt Nam: Một số chỉ số kinh tế được lựa chọn, 2021–2026
Thành lập Dự báo
202120222023202420252026
Đầu ra
GDP thực tế (phần trăm thay đổi)2.68,55.17.16,55.6
Khoảng cách sản lượng (phần trăm GDP tiềm năng)-1,90,4-0,40,40,3-0,4
Tỷ lệ thất nghiệp2,53.22.32.22.32,5
Giá cả (phần trăm thay đổi)
CPI (trung bình kỳ)1.83.23.33.63.43.2
Lạm phát cơ bản (trung bình kỳ)0,82.64.22.73.22.8
Tiết kiệm và đầu tư (phần trăm GDP)
Tổng tiết kiệm quốc gia30,732,738.037,234,933.2
Tổng đầu tư32,932,331,630,630,930,8
Riêng tư 26,726.124,824,624.123,7
Công cộng6.26.36.85.96.87.1
Tài chính ngân sách nhà nước (tính theo phần trăm GDP) 1/
Doanh thu và trợ cấp18,718,917.117,618.417,7
Chi tiêu20.118.218,819.121,720.1
Chi phí13,911.911.913.214,913.0
Thu nhập ròng từ tài sản phi tài chính6.26.36.85.96.87.1
Cho vay ròng (+)/vay (-) 2/-1,40,7-1,7-1,5-3,3-2,3
Nợ công và nợ được công chúng bảo lãnh (cuối kỳ)39,234,934,331.332.031,8
Tiền và tín dụng (phần trăm thay đổi, cuối kỳ)
Tiền rộng (M2)10.76.212,512.012,511,5
Tín dụng cho nền kinh tế13,514.013,714,915.013.0
Cán cân thanh toán (tính theo phần trăm GDP, trừ khi có chỉ định khác)
Số dư tài khoản hiện tại (bao gồm cả chuyển khoản chính thức)-2,20,36.46.64.02.4
Giá xuất khẩu fob90,890,481,988,387,383,6
Nhập khẩu fob86,683,371,878,979,377,1
Tài khoản vốn và tài chính 3/8.32.3-0,7-1,7-4,8-2,4
Lỗi và thiếu sót-2,3-8.2-4,4-6,9
Tổng dự trữ quốc tế (tỷ đô la Mỹ) 4/109,486,792,383,179,379,2
Trong những tháng nhập khẩu GNFS tiềm năng3.63.12.82.42.22.1
Tổng nợ nước ngoài (cuối kỳ)37,935.332.128.029.129,9
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (đồng/đô la Mỹ, cuối kỳ)22.82623.63324.26925.485
Các mục ghi nhớ (giá hiện tại):
GDP (tính bằng tỷ đô la Mỹ)370,1411,1433.0459,5484,7511,1
GDP bình quân đầu người (tính bằng đô la Mỹ)3.7574.1334.3174.5364.7454.965
Nguồn: Chính quyền Việt Nam; và ước tính và dự báo của nhân viên IMF.
1/ Theo định dạng của Sổ tay Thống kê Tài chính Chính phủ năm 2001. Các EBF lớn nằm ngoài ngân sách nhà nước nhưng nằm trong chính quyền chung (doanh thu chiếm 6-7 phần trăm GDP).
2/ Không bao gồm cho vay ròng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và doanh thu, chi tiêu của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
3/ Kết hợp dự báo về các lỗi và thiếu sót tiêu cực trong tương lai (tức là nhập khẩu không được ghi nhận và dòng vốn chảy ra ngắn hạn).
4/ Không bao gồm tiền gửi của chính phủ.


[1] Theo Điều IV của Điều lệ IMF, IMF thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận song phương với các thành viên hàng năm. Một nhóm chuyên gia sẽ đến thăm quốc gia thành viên, thu thập thông tin kinh tế và tài chính, và thảo luận với các quan chức về diễn biến kinh tế và chính sách của quốc gia đó. Khi trở về trụ sở chính, các chuyên gia sẽ chuẩn bị một báo cáo, làm cơ sở cho Hội đồng Điều hành thảo luận.

[2] Theo Điều khoản Thỏa thuận của IMF, việc công bố tài liệu liên quan đến các quốc gia thành viên là tự nguyện và cần có sự đồng ý của thành viên. Các cơ quan chức năng đã yêu cầu thêm thời gian để quyết định việc công bố báo cáo của nhân viên. Quyết định cuối cùng dự kiến sẽ được đưa ra không muộn hơn 28 ngày kể từ ngày Hội đồng Quản trị xem xét.
[3] Kết thúc buổi thảo luận, Tổng Giám đốc, với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Quản trị, tóm tắt quan điểm của các Giám đốc Điều hành và bản tóm tắt này được chuyển đến các cơ quan chức năng của quốc gia. Giải thích về bất kỳ thuật ngữ nào được sử dụng trong bản tóm tắt có thể được tìm thấy tại đây:
 
OK luôn. Ai biểu mấy thằng Tây lông viết tắt :vozvn (22):
bữa coi truyền hình thấy bạn
images
 

Có thể bạn quan tâm

Top