Bây giờ sứ đoàn Giao chỉ đi sứ sang trung quốc không cần chở theo vài công te nơ trái Lệ Chi nữa. Quả đúng thật là vị thế của Việt nam đã quá mạnh.

Mr.Anderson

Hạt giống tầm thần
Theo ghi chép trong Nam Phương Thảo Mộc Trạng, năm 111 trước công nguyên, Hán Vũ Đế (Trung Quốc) đã sai đem 100 cây vải từ Giao Chỉ (miền Bắc nước ta) về trồng. Song không cây nào còn sống sót, từ đó, vua Hán bắt Giao Chỉ hàng năm phải cống nạp vải (quả lệ chi).

Dương Quý Phi đời Đường thích ăn vải đến nỗi ưu ái đặt tên cho vải là "phi tử tiếu", tức "nụ cười Dương Phi". Đường Huyền Tông muốn chiều lòng ái phi, nên thường xuyên bắt cống nạp vải, sai phu trạ phi ngựa hỏa tốc để vận chuyển. Quả vải được ướp mật hoặc muối để tươi ngon suốt chặng đường dài.

Đến thế kỷ thứ 8 - đời vua Mai Hắc Đế, cây vải được chuyển ra trồng ở vùng Hồng Châu (Hải Dương). Vùng Thanh Hà với thổ nhưỡng được bồi đắp bởi dòng sông Hồng và sông Thái Bình, hay lụt lội nhưng phù sa giàu có, trồng vải cho quả ngọt và năng suất cao.
Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn cũng ca ngợi quả vải "mã ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải như thủy tinh" và "nước Nam sản xuất trái lệ chi nhiều nhất, lệ chi ở xã An Nhơn (Yên Nhân) huyện Đường Hào ngon, ngọt, thơm không thể nào tả được".

Năm 1442, cây vải còn gắn liền với án oan Lệ Chi Viên lớn nhất trong lịch sử của công thần lập quốc nhà Lê - quan hành khiển Nguyễn Trãi. Ông bị triều đình quy tội giết vua Lê Thái Tông trong vườn vải, bắt tội đến 3 họ. Đến năm 1464 - triều Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi mới được minh oan.
Đến thế kỷ 20, thời Tự Đức (1847 – 1883), ngoài giống bản địa, vải thiều được du nhập vào nước ta. Cụ Hoàng Văn Cơm (tên tự Phúc Thành), người thôn Thúy Lâm, xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà mang hạt về ươm từ năm 1870. Cụ ươm lên 3 cây, nhưng chỉ một cây sống sót và ra quả, nhân giống thành những vườn vải thiều rộng khắp vùng Hải Dương. Đến nay, cây vải tổ trên 150 tuổi này vẫn còn tươi tốt.
Ngày nay, vải vùng Yên Nhân mà Lê Quý Đôn ca ngợi vẫn còn, nhưng quả to và chua hơn vải thiều. Giống quả ngon được thị trường ưa chuộng nhất vẫn là vải thiều trồng ở Thanh Hà, Chí Linh (Hải Dương); Đông Triều (Quảng Ninh); Lục Nam, Lục Ngạn (Bắc Giang).

Vải thiều là giống quả bé nhất trong các giống vải hiện nay, đường kính khoảng 3,3 - 3,5 cm; vỏ sần, chín đỏ; hạt nhỏ, đen tuyền hoặc lép. Giống vải chín muộn, thu hoạch từ đầu tháng 5 đến tháng 6 âm lịch.

Hiện ở Thanh Hà còn có các giống vải khác như u trứng, u hồng, u thâm có kích thước lớn, quả hơi bầu dục. Vải Tàu Lai và Lãng Xuyên có quả nhỏ hơn, dạng tròn. Các giống này thường chín sớm hơn, dân gian gọi là vải tu hú (chim tu hú kêu báo hiệu mùa vải chín), nhưng hạt to, vị chua hơn.
 
:vozvn (22):Qua đấy mùa vải chín, lên phòng trên bàn làm việc nó xếp sẵn một chùm vải nhé, bọn ba tàu này dái thâm lắm. Có điều vải TQ vẫn đéo có tuổi so với vải Việt Nam.
 
Truyền thuyết Lệ Chi ở An Nam xạo chó vì bọn tàu thừa biết Lệ chi có trồng khắp vùng Lĩnh Nam lão Mã Bá Dung tác giả Danh gia cổ vật có viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử về chuyện này

Tô thức còn có bài ca ngợi lệ chi vùng này https://www.thivien.net/Tô-Thức/Thực-lệ-chi/poem-LN_KTr3REYyd-Gkv9kIAKA
Tao ko giỏi sử như mày. Nhưng thời 2 Bà còn đánh nhau chí choé ở Lĩnh Nam, TQ thì vải ở vùng đó là đúng còn đéo gì. Ko lẽ mày nghĩ Lĩnh Nam ở Hoàng Mai?
 
Thằng bản đồ đúng là tự nhục. Ngày xưa xứ Lừa kéo dài đến tận miền nam sông Dương Tử. Thế chả phải vải là đặc sản xứ Lừa.
Đấy là tao hóng hớt thế chứ có biết kẹc gì đâu haha
 
Tao ko giỏi sử như mày. Nhưng thời 2 Bà còn đánh nhau chí choé ở Lĩnh Nam, TQ thì vải ở vùng đó là đúng còn đéo gì. Ko lẽ mày nghĩ Lĩnh Nam ở Hoàng Mai?
Tao đến bây giờ đéo thể hiểu nổi 2 bà đánh từ phong châu đến long biên hạ 65 thành ntn. Thành đéo đâu mà lắm thế.
 
Từ Trung Quốc
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, cây vải có tên là litchi. Đó chính là do chữ “lệ chi” được phiên âm một cách khá chính xác theo cách đọc của người Trung Quốc. Tên khoa học của cây vải là litchi chinensis nghĩa là ‘lệ chi Trung Quốc”. Điều đó cho biết rằng, các nhà thực vật học phương tây thấy cây vải có mặt ở Trung Quốc nhiều nhất, sớm nhất.
Trong thư tịch cổ của Trung Quốc, Tư Mã Tương Như (179-118 trước Công nguyên) là người nói đến cây vải lần đầu tiên trong bài “Thượng Lâm phú” (Bài phú về vườn Thượng Lâm, nội dung chủ yếu là tán tụng sự cường thịnh của đế chế nhà Hàn và ca ngợi Hán Vũ Đế – LMC), nhưng trên thực tế thì cây vải đã được trồng từ trước đó rất nhiều năm. Ở Trung Quốc đã có hơn 100 tác phẩm chuyên khảo về cây vải, mà các từ điển Từ nguyên và Từ hải gói đó là loại sách “Lệ chi phả”. Đầu thế kỷ 10, Trịnh Hùng đã viết sách “Quảng trung lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây), nay đã thất truyền. Hiện nay vẫn còn giữ được sách “Lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải) của Thái Tương (1012-1067), chủ yếu viết về các nòi vải ở Phúc Kiến. Cuối đời Thanh, Ngô Ứng Quỳ viết sách “Lĩnh Nam lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải ở phía nam núi Ngũ Lĩnh, tức là vùng Lưỡng Quảng), trich dẫn hơn một chục tài liệu lịch sử rất quan trọng.

Hiện nay, ở Trung Quốc còn giữ được khá nhiều tư liệu cổ về các nòi vải. Ngoài sách ‘Lệ chi phả” của Thái Tương (biên soạn xong năm 1059) và sách “Lĩnh Nam lệ chi phả” của Ngô Ứng Quỳ thời Thanh, cần phải kể đến “Mân trung lệ chi phả” (Chuyên khảo về các nòi vải ở Phúc Kiến) của Đồ Bản Tuấn và “Mân trung lệ chi thông phả” (Chuyên khảo tinh tường về các nòi vải ở Phúc Kiến) của Đặng Khánh Thái thời Minh, “Lệ chi phả” (Chuyên khảo về các nòi vải) của Trần Đỉnh, thời Thanh.

Như vây, rõ ràng rằng, vùng đất phía nam của Trung Quốc chính là quê hương của cây vải, ở đó có rất nhiều vườn vải, với nhiều nòi vải rất ngon. Theo Từ điển Bách khoa thiếu niên nhi đồng Trung Quốc thì ở nước này có hơn 70 nòi vải quý. Xin nêu một số vị dụ:

Nòi vải “Trần Tử” ở huyện Phủ Điền tỉnh Phúc Kiến, quả to bằng trứng gà, vỏ màu tím (‘tử’ nghĩa là tím), được nhân giống từ cây vải của Trần Kỳ, môt quan chức thời Tống.

Huyện Phủ Điền có một cây vải 1300 tuổi (hiện do Phòng văn hoá huyện này chăm sóc và quản lý), có tên là Tống Hương hoăc Tống Gia Hương (nghĩa là cây vải thơm của nhà họ Tống, vốn là của gia đình Tống Hàm trồng từ thời nhà Đường), hạt nhỏ, cùi dày, có mùi thơm đặc biệt.

Nòi vải “Trạng Nguyên Hồng ” ở tỉnh Phúc Kiến vốn là của trạng nguyên Từ Đạc thời Tống, ở phủ Hưng Hoá (gồm huyện Phủ Điền và huyện Tiên Du ngày nay). Ban đầu, Từ Đạc đặt tên là Diên Thọ Hồng. Sau khi ông mất người ta mới gọi là Trạng Nguyên Hồng để nhớ tới ông.

Huyện Tăng Thành thuộc tỉnh Quảng Đông có nòi vải Quải Lục ngon nổi tiếng, quả to, cùi dày, hạt nhỏ, mùi thơm. Đặc biệt, vỏ ở phía trên có màu đỏ như son nhưng ở phía dưới lại có màu lục đậm.

Vùng Phật Sơn (phía bắc tam giác châu sông Châu Giang, tỉnh Quảng Đông) có nòi vải Phi Tử Tiếu, ngon nổi tiếng. Theo từ điển Từ Nguyên, nòi vải này có “cùi trắng và dày, hạt cũng trắng, nhỏ như hạt đỗ, vị ngọt hơi chua, ăn từ chập tối mà đến sáng hôm sau vẫn còn thơm trong miêng”. Trong quyển Hán Việt từ điển, soạn giả Đào Duy Anh cho rằng, Phi Tử Tiếu là danh từ chung để chỉ quả vải. Đó là một sự nhầm lẫn cần phải đính chính. Còn cái tên “Phi Tử Tiếu” thì hẳn là lấy từ lời của nhà thơ Đỗ Mục thời nhà Đường, trong bài thơ “Quá Hoa Thanh cung” mà chúng tôi sẽ nói tới ở mục “Dương Quý Phi và quả vải” dưới đây.

Ở Quảng Đông, ngoài “Phi Tử Tiếu” và ‘Quải Lục’ còn có nhiều nòi vải quý khác nữa như Thuỷ Tinh Cầu, có vỏ trắng, cùi trắng, hạt trắng nhưng nước lại đỏ như máu; Tam Nguyệt Hồng thơm ngon, chín sớm; Nhu Mễ Từ, thơm ngon, chín muộn, v.v.

Nhà thơ Tô Thức (1037-1101) lúc cuối đời từng bị giáng chức và đưa đi làm quan nhỏ ở phía nam tỉnh Quảng Đông. Ở đấy có rất nhiều quả vải ngon, ông ăn mãi không chán nên đã sáng tác bài thơ “Thực lệ chi” (Ăn quả vải), như sau

罗 浮 山下 四 時 春,
La Phù sơn hạ tứ thời xuân.
芦 橘 杨 梅 次第 新。
Lư quất dương mai thứ đệ tân
日 啖 荔 枝 三 百 颗,
Nhật đạm lệ chi tam bách khoả,
不 辞 长 作 岭 南 人
Bất từ trường tác Lĩnh Nam nhân.

Nghĩa là:

Dưới núi La Phù, xuân suốt năm,
Quả ngọt luân phiên, tha hồ ăn.
Ngày xơi vải ngon ba trăm quả,
Chẳng ngại biến thành người Lĩnh Nam.

Ở tỉnh Tứ Xuyên cũng có những vùng khá nổi tiếng về quả vải ngon, ví dụ như ở Lô Châu, Nhung Châu, hiện nay quả vải vẫn là một đặc sản quan trọng.
Bố tiên sư thằng ngu ku đen!
“sinensis” chứ đéo phải “chinensis”
Đéo biết cái l gì về thực vật đi copy thì câm mẹ mồm lại!
=))=))=))
 
Tao đến bây giờ đéo thể hiểu nổi 2 bà đánh từ phong châu đến long biên hạ 65 thành ntn. Thành đéo đâu mà lắm thế.
Cột đồng của Mã Viện cũng nằm bên lãnh thổ TQ. Đéo hiểu thằng Bản đồ lại ko biết.
 
Thằng bản đồ đúng là tự nhục. Ngày xưa xứ Lừa kéo dài đến tận miền nam sông Dương Tử. Thế chả phải vải là đặc sản xứ Lừa.
Đấy là tao hóng hớt thế chứ có biết kẹc gì đâu haha
Đm chấp l thằng ngu ku đen!
Đi copy biết cái l gì
Sinensis nhục quá đi chế thành Chinensis
=))=))=))
 
Rồi đm cái bọn Tàu lợn, toàn cử thái tử đi đánh nhau rồi chết ở Lừa. Đem 29 vạn quân sang Lừa ăn tết. Vua Tàu cũng hãm loz thật.
 
Cột đồng Mã Viện ở đâu đéo ai biết cả
Đang cãi nhau chết mẹ về vị trí cột đồng kìa
Thế mày giải thích cho tao LĨNH NAM là ở đâu? Ở HOÀNG MAI, HN à? Hay THÁI NGUYÊN?
 
Thôi m câm mẹ mồm lại đỡ thối!
Thqcj vật làm đéo gì có Chinensis, bọn ngu tự nhục nghĩ ra mà cũng hốc lấy hốc để đc!
Bố tiên sư thằng ngu ku đen!
=)) =)) =))
Tml này cũng biết về tên khoa học à? Haha
 
Hồi bé tao có quyển Việt Nam sử lược của thằng phản động Trần Trọng Kim. Đọc xong ong mẹ nó thủ méo hiểu là tiểu thuyết giống tml Trung La bên tàu hay sử thật.
 
Thôi m câm mẹ mồm lại đỡ thối!
Thqcj vật làm đéo gì có Chinensis, bọn ngu tự nhục nghĩ ra mà cũng hốc lấy hốc để đc!
Bố tiên sư thằng ngu ku đen!
=)) =)) =))
Cảm ơn mày đã cho thằng ml ý 1 bài học
 
Lĩnh Nam là hai thằng Quảng Đông và Quảng Tây đó.
Lĩnh nam là nam núi ngũ lĩnh biên giới giữa Hồ Nam và Quảng Tây.
Thời Hán tụi Tàu nó ghép quận Giao Chỉ vào Bộ Giao Chỉ bao gồm Việt Nam Quảng Tây Quảng Đông chung một bộ gọi là bộ Giao Chỉ.
Thế thì chả có nguồn gốc từ Việt Nam vì thời đó, dân Việt ở đấy còn đéo gì. Tao còn đang nghi ngờ cả địa danh quê Phùng Hưng cơ.
 
Thằng bản đồ đúng là tự nhục. Ngày xưa xứ Lừa kéo dài đến tận miền nam sông Dương Tử. Thế chả phải vải là đặc sản xứ Lừa.
Đấy là tao hóng hớt thế chứ có biết kẹc gì đâu haha

Sao mất lắm đất thế ?
 
Ngày tao bên Do Thái, bọn ml đấy rất hãm. Thu 3 chục đồng vé vào cái bảo tàng xong kể chuyện lịch sử mấy nghìn năm. Có điều kể hết bỏn bảo: đấy là truyền thuyết chứ bọn tao cũng đéo chứng minh được, phải chứng minh bằng khảo cổ mà giờ có chỗ muốn đào đéo đào được. Thế là mất mẹ tiền vào nghe chúng xàm loz. Nhưng được cái chúng nó còn fair, nhận luôn là chuyện xàm loz, chứ đéo phải cãi lấy cãi để đấy là lịch sử hào hùng của chúng.
 

Có thể bạn quan tâm

Top